nhocsisi789
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
Chuyên đề 1: “VỀ THỰC TẾ XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC CÔNG
NHẬN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở & HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT” – Thẩm phán Phan Thanh Tùng – TAND Tp.HCM........ 1
Chuyên đề 2: “THỜI ĐIỂM GIAO KẾT VÀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA
HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005” CÒN ĐÓ NHIỀU
QUY ĐỊNH CHƯA ĐẦY ĐỦ - ThS. LS. Trương Thị Hoà – Đoàn LS Tp. HCM....... 8
Chuyên đề 3: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG VÀ VIỆC CÔNG
CHỨNG HỢP ĐỒNG” – LS. Huỳnh Văn Nông - Đoàn LS Tp. HCM....................... 13
Chuyên đề 4: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO CÓ
ĐIỀU KIỆN THEO ĐIỀU 470 BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005" – V Phan Văn Cheo –
Phòng Công chứng Sài Gòn .......................................................................................... 19
Chuyên đề 5: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI
SẢN” – TS. Dương Anh Sơn – Khoa Kinh tế, ĐHQG Tp. HCM................................ 22
Chuyên đề 6: “THỜI ĐIỂM GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT
PHÁP LUẬT TRONG THỜI GIAN”- TS. Đỗ Văn Đại – ĐHL Tp. HCM................. 28
Chuyên đề 7: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUI ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH – THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN” –
NCS Lê Minh Hùng - ĐHL Tp. HCM .......................................................................... 41
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiiii
THỜI ĐIỂM GIAO KẾT
VÀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
THEO QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
Thời gian: 8h00, Thứ Bảy ngày 05 tháng 12 năm 2009
Địa điểm: Hội trường B303 – Trường ĐH Luật TP.HCM
Số 02 Nguyễn Tất Thành, Quận 4, TP.HCM
GIỜ
7h30– 8h00 Đón đại biểu
8h00 – 8h10 Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu
8h10 – 8h25
Tham luận: “Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng theo qui định của pháp luật hiện hành –
Thực trạng và định hướng hoàn thiện”
NCS. Lê Minh Hùng – Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
8h25 – 8h40
Phần trình bày của TS. Chu Hải Thanh –
Phó Giám đốc Học viện Tư pháp
8h40 – 9h00
Tham luận: “Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của
Hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 -
Còn đó nhiều quy định chưa đầy đủ”
ThS. LS. Trương Thị Hòa – Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh
9h00 – 9h15
Tham luận: “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và thời điểm
công chứng hợp đồng”
LS. Huỳnh Văn Nông – VPLS Sông Hậu – SH LAW
CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢOiv
9h15 – 10h15 Thảo luận
10h15- 10h30 Giải lao
10h30 – 10h50
Tham luận: “Về thực tế xét xử của toà án
trong việc công nhận hợp đồng mua bán nhà ở
& hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Thẩm phán Phan Thanh Tùng – Phó Chánh Tòa Dân sự
Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh
10h50– 11h05
Tham luận: “Thời điểm giao kết hợp đồng và vấn đề xung đột
pháp luật trong thời gian”
TS. Đỗ Văn Đại – Phó trưởng khoa Luật Dân sự
- ĐH Luật Tp. HCM
11h05 – 11h20
Tham luận: “Thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng tặng cho tài sản”
TS. Dương Anh Sơn – Khoa Kinh tế - ĐHQG TP. HCM
11h20 - 12h00 Thảo luận và Tổng kết Hội thảo
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
Chuyên đề 1: “VỀ THỰC TẾ XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TRONG
VIỆC CÔNG NHẬN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở & HỢP
ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”
Thẩm phán Phan Thanh Tùng
Toà Dân sự – Toà án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh
1. Lý thuyết về hợp đồng:
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, Bộ luật Dân sự của họ luôn dành một phần
quan trọng quy định về nghĩa vụ dân sự. Đơn giản nhất, nghĩa vụ dân sự được hiểu là
một mối quan hệ pháp lý, trong đó một người phải thi hành một yêu cầu của một người
khác; người phải thi hành còn được gọi là “con nợ”, còn người được thi hành gọi là
“chủ nợ”. Sự “phải thi hành” đó xuất phát từ một nghĩa vụ, mà chúng ta gọi là nghĩa
vụ dân sự.
Trong Bộ luật Dân sự hiện hành của Việt Nam, nghĩa vụ dân sự là một định chế
quan trọng, được quy định “khung” nhưng đồng thời cũng mang tính chi tiết trong
luật. Điều 280 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) định nghĩa về nghĩa vụ dân sự
như sau: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hay nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao quyền, trả tiền hay giấy tờ có giá, thực
hiện công việc khác hay không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một
hay nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Tiếp liền sau đó, điều
281 BLDS 2005 xác định về các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự như sau: “Nghĩa vụ
dân sự phát sinh từ các căn cứ sau đây: 1/Hợp đồng dân sự; 2/Hành vi pháp lý đơn
phương; 3/Thực hiện công việc không có uỷ quyền; 4/Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; 5/Gây thiệt hại do hành vi trái pháp
luật; 6/Những căn cứ khác do pháp luật quy định.”.
Như vậy, một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự mà điều 281 BLDS
2005 quy định, là “Hợp đồng dân sự”.
Trong cuộc sống hàng ngày, do nhu cầu của đời sống mà chúng ta đã phải thực
hiện rất nhiều hành vi như: -mua bán, thuê mướn, chuyên chở, giữ hộ tài sản…..hoặc
làm một công việc gì đó. Khi thực hiện những hành vi như vậy, chúng ta đã ký kết
những “Hợp đồng dân sự” mà theo đó sẽ phát sinh nghĩa vụ dân sự cho chính chúng
ta. Nói cách khác, một trong những nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ dân sự là các “Hợp
đồng dân sự” được tạo ra bởi chính ý chí của chúng ta.2
Về mặt pháp lý, điều 388 BLDS 2005 nêu ra khái niệm về “Hợp đồng dân sự”
như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo tác giả Đỗ Văn Đại, “Hợp đồng là một
trong những chế định quan trọng, có tần suất áp dụng rất cao trên thực tế và có khả
năng ảnh hưởng đến sự vận hành của phần lớn giao dịch dân sự” (TS Đỗ Văn Đại –
Luật hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận bản án – NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2008 – tr.14-15). Thật vậy, trong thực tế xét xử án dân sự của Toà án hàng năm,
số vụ án xuất phát từ hợp đồng chiếm tỷ lệ hơn 50%.
2. Sự quy định về hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam:
Bộ luật Dân sự hiện hành của chúng ta là BLDS 2005. Trong Bộ luật này, phần
tổng quát về hợp đồng dân sự (HĐDS) được quy định từ điều 388 đến điều 427 (tổng
cộng 41 điều).
Một số quy định căn bản của luật về HĐDS như sau:
- Nguyên tắc giao kết HĐDS (điều 389): -(1)Tự do giao kết HĐDS nhưng
không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; (2)Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác,
trung thực và ngay thẳng;
- Đề nghị giao kết HĐDS (điều 390): -(1)Đề nghị giao kết HĐDS là việc thể
hiện rõ ý định giao kết HĐ và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của của bên đề nghị
đối với bên đã được xác định cụ thể; (2)Trong trường hợp đề nghị giao kết HĐ có nêu
rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết HĐ với người thứ ba trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không
được giao kết HĐ nếu co thiệt hại phát sinh;
- Thời điểm đề nghị giao kết HĐ có hiệu lực; Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết
HĐ; Huỷ bỏ đề nghị giao kết HĐ; Chấm dứt đề nghị giao kết HĐ; Sửa đổi đề nghị do
bên được đề nghị đề xuất; Chấp nhận đề nghị giao kết HĐ; Thời hạn trả lời chấp nhận
giao kết HĐ; Trường hợp bên đề nghị giao kết HĐ chết hay mất năng lực hành vi dân
sự; Trường hợp bên được đề nghị giao kết HĐ chết hay mất năng lực hành vi dân sự;
Rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐ; Hình thức HĐDS; Nội dung của HĐDS (từ
điều 391 đến 402);
- Địa điểm giao kết HĐDS (điều 403): -Địa điểm giao kết HĐDS do các bên
thỏa thuận; nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết HĐDS là nơi cư trú của cá
nhân hay trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết HĐ;
- Thời điểm giao kết HĐDS (điều 404): -(1)HĐDS được giao kết vào thời điểm
bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết; (2)HĐDS cũng xem như đã được
giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có sự thoả
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết; (3)Thời điểm giao kết HĐ bằng lời nói
là thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của HĐ; (4)Thời điểm giao kết HĐ
bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
- Hiệu lực của HĐDS (điều 405): -HĐ được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hay pháp luật có quy định khác;
- HĐDS vô hiệu (điều 410): -(1)Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ
điều 127 đến điều 138 của BLDS 2005 cũng được áp dụng đối với HĐDS vô hiệu;
(2)Sự vô hiệu của HĐ chính làm chấm dứt HĐ phụ, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận HĐ phụ được thay thế HĐ chính. Quy định này không áp dụng đối cới các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ DS; (3)Sự vô hiệu của HĐ phụ không làm chấm dứt
HĐ chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận HĐ phụ là một phần không thể tách rời
của HĐ chính;
- HĐDS vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (điều 411): -
(1)Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, HĐ có đối tượng không thể thực hiện được vì
lý do khách quan thì HĐ này vô hiệu; (2)Trong trường hợp khi giao kết HĐ mà một
bên biết hay phải biết về việc HĐ có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng
không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết HĐ thì phải bồi thường thiệt
hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hay phải biết về việc HĐ có đối tượng
không thể thực hiện được; (3)Quy định tại khoản (2) này cũng được áp dụng đối với
trường hợp HĐ có một hay nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng
phần còn lại của HĐ vẫn có giá trị pháp lý.
3. Thực tế xét xử của Toà án trong việc công nhận HĐ mua bán nhà ở
(HĐMBNƠ) và HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất (HĐCNQSDĐ):
3.1. Về việc công nhận HĐMBNƠ:
HĐMBNƠ là một trong những HĐDS thông dụng, được quy định từ điều 450
đến điều 455 BLDS 2005. Trong thực tế xét xử, bên cạnh các điều luật này, Toà án
còn áp dụng Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao (theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị
quyết của HĐTP-TANDTC là một loại văn bản quy phạm pháp luật) để giải quyết các
tranh chấp về mua bán nhà ở.
Điều 450 BLDS 2005 quy định về hình thức HĐMBNƠ như sau: “HĐMBNƠ
phải được lập thành văn bản, có công chứng hay chứng thực, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác”. Đa số các tranh chấp về HĐMBNƠ xảy ra mà Toà án phải xét xử
là do sự vi phạm quy định về hình thức của HĐMBNƠ, nói tại điều 450 BLDS 2005.
Mặc dù không xem sự vi phạm quy định về hình thức của HĐMBNƠ dẫn đến sự vô4
hiệu tuyệt đối của HĐ (pháp luật hiện hành chỉ xem hình thức của HĐMBNƠ là điều
kiện có hiệu lực của HĐ (xem điều 134 BLDS 2005), nhưng trong trường hợp đã được
Toà án yêu cầu các bên phải hoàn thiện về hình thức của HĐMBNƠ mà các bên không
chấp hành, HĐMBNƠ sẽ được Toà án tuyên bố là vô hiệu, huỷ HĐ đồng thời xác định
của các bên tham gia.
Quy trình giải quyết của Toà án có thể tóm tắt như sau:
- Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng mua bán nhà ở nhưng HĐ không
được công chứng hay chứng thực, thì theo yêu cầu của một hay các bên, Toà án ra
quyết định buộc các bên phải đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các
thủ tục hoàn thiện về hình thức của HĐMBNƠ; thời hạn để các bên thực hiện là 01
tháng kể từ ngày Toà án ra quyết định (xem điều 134 BLDS 2005; điểm b tiểu mục 2.2
mục 2 phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 của HĐTPTANDTC);
có thỏa thuận khác.73 Bởi vậy, nếu hợp đồng loại này chưa được lập đúng hình thức,
thì phải được coi là chưa có hiệu pháp luật. Trong trường hợp này, các bên phải yêu
cầu tòa án hay cơ quan có thẩm quyền giải quyết để ra quyết định buộc các bên thực
hiện đúng hình thức, thủ tục luật định trong một thời hạn; nếu quá thời hạn đó mà
không thực hiện thì hợp đồng vô hiệu.74
Vấn đề đặt ra là, nếu hợp đồng vi phạm hình thức mà được tòa án hay cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định buộc thực hiện đúng hình thức, thủ tục luật định,
như ra phòng công chứng để làm lại hợp đồng, thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
là lúc nào(?). Đây là vấn đề hiện còn gây nhiều tranh cãi. Khi bàn về vấn đề hợp đồng
không tuân thủ hình thức, có nhiều ý kiến cho rằng pháp luật chưa xác định rõ thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng bị vi phạm hình thức75 và kiến nghị “cần quy định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp hình thức hợp đồng được khắc
phục”.76 Thật vậy, pháp luật hiện hành chưa giải quyết triệt để vấn đề này. Các nhà
bình luận thì cho rằng, về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết thì có hiệu lực, không
phụ thuộc vào thời điểm công chứng, chứng thực, đăng ký hay xin phép.77 Các nhà
bình luận xem hiệu lực của hợp đồng từ thời điểm giao kết đến khi hợp đồng được
công chứng, chứng thực theo thủ tục luật định là hợp đồng có hiệu lực “treo”, và việc
công chứng, chứng thực chỉ là thủ tục xác nhận hợp đồng có hiệu từ khi giao kết chứ
không có ý nghĩa quyết định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy vậy, quan điểm
cá nhân tui cho rằng, cách giải thích này có phần chưa chính xác, nhất là đối với các
hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó đã được pháp luật qui định minh thị. Ví dụ:
hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho bất động sản hay động sản
có đăng ký quyền sở hữu… Hơn nữa, pháp luật công chứng chỉ qui định văn bản công
chứng có hiệu lực từ thời điểm văn bản đó được công chứng và đóng dấu của tổ chức
công chứng, chứ không có qui định “hiệu lực hồi tố” của các văn bản này. Thêm vào
đó, ngày các bên xác lập hợp đồng chính thức là ngày hợp đồng được lập lại theo đúng
thủ tục công chứng, chứ không phải là thời điểm giao kết. Về lô gích pháp lý mà nói,
hợp đồng thiếu hình thức trong trường hợp này phải được xem là hợp đồng chưa có
hiệu lực, vì các bên chưa đi đến sự quyết định cuối cùng để xác lập hợp đồng, nhưng
vì hợp đồng đã được giao kết, nên có thể xem đây là quan hệ tiền hợp đồng.78 Theo đó,
73
Điều 405 BLDS 2005.
74 Khoản 1 Điều 410, Điều 134 BLDS 2005.
75 Xem: Lê Thị Bích Thọ, Hình thức của hợp đồng kinh tế và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, Tlđd, tr. 43.
76 Lê Thị Bích Thọ, Tlđd, tr. 43
77
Đinh Trung Tụng (Cb), Sđd, tr. 180 – 1.
78
Vấn đề tiền hợp đồng đã được đề cập rất nhiều trong lý luận và thực tiễn xét xử nước ngoài. Xem thêm: John
Cartwright & Martijn Hesselink (Editers), Precontractual Liability in European Private Law, CUP, Cambridge
2008; Johanna Schmidt, Thư bày tỏ ý định giao kết hợp đồng, trích Kỷ yếu hội thảo Hợp đồng thương mại quốc64
hợp đồng tuy chưa có hiệu lực ràng buộc các bên, nhưng các bên có những nghĩa vụ
pháp định vì đã tự nguyện xác lập các cam kết đơn phương bằng việc đưa ra đề nghị
hay chấp nhận giao kết hợp đồng.
Vấn đề này cũng được ngành tòa án giải thích và hướng dẫn áp dụng trong hoạt
động xét xử bằng hai văn bản khác nhau cho hai loai hợp đồng khác nhau: hợp đồng
mua bán nhà ở và hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Theo hướng dẫn của TAND tối
cao, thì các trường hợp trên được giải quyết như sau: (i) Đối với hợp đồng mua bán
nhà không tuân thủ hình thức luật định mà các bên có tranh chấp, thì Tòa án “quyết
định buộc một hay các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn
một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình
thức của hợp đồng”;79 (ii) Đối với hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất được xác lập từ
sau ngày 15/10/1993 nhưng có vi phạm hình thức, thủ tục luật định mà các bên phát
sinh tranh chấp và có đơn khởi kiện sau ngày 01/07/2004 thì Tòa án “không coi là hợp
đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này”. Có nghĩa các hợp đồng này vẫn được tòa án
công nhận là có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện xác định: đã trả tiền, hay đã giao
đất…80
Có thể thấy, đối tượng của hai loại hợp đồng đều là bất động sản có đăng ký
(quyền sở hữu hay quyền sử dụng), hình thức của hợp đồng đều không đúng qui định
của pháp luật, nhưng hai văn bản trên lại đưa ra hai đường lối giải quyết không giống
nhau. Cách giải thích vấn đề này trong Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP cũng vượt xa ý
chí ban đầu của nhà làm luật, nếu không nói là trái luật. Bởi lẽ, theo qui định của
BLDS 2005, khi hợp đồng vi phạm hình thức, thủ tục luật định thì tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cần “buộc các bên phải thực hiện đúng hình thức của giao dịch
trong một thời hạn…” theo Điều 134 BLDS 2005 mới đúng. Mặt khác, theo qui định
tại Điều 692 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, hợp đồng
này chỉ có hiệu lực khi đã tuân thủ điều kiện về hình thức và đã được đăng ký quyền sử
dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất. Như vậy, hợp đồng
trong trường hợp này phải được xem là không có hiệu lực. Các bên phải hoàn nguyên
cho nhau các lợi ích đã nhận theo hợp đồng. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật
thì phải hoàn trả bằng tiền.
tế, nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội, tr. 125 – 132; Phan Hữu Thư (Cb), Kỹ năng hành nghề luật sư,
tập 3, Nxb. CAND, H. 2002, tr. 32 -3 & 39. Khái niệm tiền hợp đồng cũng được qui định trong BLDS 2005,
nhưng còn sơ lược và chưa cụ thể. Ví dụ: sự ràng buộc của lời đề nghị và trách nhiệm do vi phạm ràng buộc của
lời đề nghị tại Điều 390 BLDS 2005; hay qui định về việc các bên không được sửa đổi, rút lại hay hủy bỏ lời
đề nghị, lời chấp nhận đề nghị… tại các Điều 392-395 và Điều 400 BLDS 2005.
79
Điểm b tiểu mục 2.2. phần I Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 14/6/2003 của Hội đồng thẩm phán.
80
Điểm b.2, b.3 tiểu mục 2.3. phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi65
Tóm lại, việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vi phạm hình thức là
vấn đề pháp lý phức tạp, mà cả về lý luận cũng như thực tiễn pháp lý ở Việt Nam hiện
nay vẫn chưa có hướng giải quyết hợp lý. Sự phức tạp này xuất phát từ nguyên nhân
luật hiện hành chưa xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa hình thức hợp đồng với thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng, cũng như chưa có sự phân biệt rõ ràng hiệu lực ràng
buộc nghĩa vụ của hợp đồng trước (giai đoạn tiền hợp đồng) và sau khi hợp đồng bắt
đầu có hiệu lực. Chính vì thế, qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn, đặc biệt là cần
bổ sung hiệu lực của các cam kết tiền hợp đồng và hậu quả pháp lý khi các bên vi
phạm nghĩa vụ trong giai đoạn này.
(2) Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác lập bởi người không có
quyền đại diện. Có nhiều hợp đồng được xác lập bởi người không có quyền đại diện,
nhưng vẫn có thể được công nhận là hợp đồng có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện
do pháp luật qui định. Theo khoản 1 Điều 145 BLDS 2005 thì giao dịch loại này vẫn
có hiệu lực nếu “Người đã giao dịch với người không có quyền thay mặt phải thông
báo cho người được thay mặt hay người thay mặt của người đó để trả lời trong thời
hạn ấn định” và phải được “người thay mặt hay người được thay mặt đồng ý”. Vấn đề
đặt ra là trong trường hợp này, hợp đồng bắt đầu có hiệu lực từ lúc nào: khi hợp đồng
thực tế được xác lập, khi người có quyền nhận được thông báo, hay khi người có
quyền thể hiện sự đồng ý. Tương tự, về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác
lập bởi người đại diện, nhưng vượt quá phạm vi đại diện. Một hợp đồng được người
thay mặt xác lập vượt quá phạm vi thay mặt thì phần vượt quá đó không có hiệu lực đối
với người được đại diện. Nhưng nếu “người được thay mặt đồng ý hay biết mà không
phản đối” thì phần hợp đồng vượt quá phạm vi thay mặt vẫn có hiệu lực81. Vấn đề là
phần hợp đồng vượt quá phạm vi thay mặt đó có hiệu lực từ thời điểm nào, người được
thay mặt có thể xác định lại thời điểm có hiệu lực của phần hợp đồng vượt quá phạm vi
thay mặt theo ý chí của mình hay không. Đây cũng là vấn đề mà BLDS 2005 còn để
ngỏ, cần được làm rõ.
(3) Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác lập bởi người có năng lực
hành vi dân sự chưa đầy đủ hay người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và cần
phải có sự đồng ý của người đại diện. Đối với các hợp đồng được xác lập bởi những
cá nhân không có năng lực hành vi dân sự tương ứng với yêu cầu pháp lý của hợp
đồng (do chủ thể bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hay chưa có năng lực hành vi
dân sự cần thiết để xác lập, thực hiện hợp đồng) và cần có sự đồng ý của người
thay mặt hợp pháp, thì hợp đồng đó vẫn có thể không bị vô hiệu, nếu được người đại
81 Khoản 1 Điều 146 BLDS 2005.66
diện hợp pháp thể hiện sự đồng ý.82 Vấn đề đặt ra là nếu hợp đồng đã được xác lập bởi
người có năng lực hành vi chưa đầy đủ hay người bị hạn chế năng lực hành vi, rồi sau
đó người thay mặt hợp pháp mới biết và thể hiện sự đồng ý, thì có được không, và nếu
việc đồng ý thể hiện sau khi hợp đồng được xác lập, thì thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng là thời điểm nào: lúc các bên giao kết hợp đồng, hay khi người thay mặt tuyên bố
đồng ý. Vấn đề này chưa được pháp luật qui định rõ, nên cần được bổ sung vào
BLDS.
Những thiếu sót nêu trên đã phản ánh nội dung điều luật qui định về thời điểm
bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng là quá sơ sài, chưa dự liệu được hết các khả năng đặc
biệt được qui định trong các phần khác của BLDS. Để bảo đảm tính toàn diện và bao
quát của pháp luật, những nội dung trên đây cần được nghiên cứu để đưa vào qui định
trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng.
3.1.3. Qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khi các bên “thỏa thuận
khác” là chưa rõ ràng và còn gây nhiều tranh cãi
Theo Điều 405 BLDS 2005, về nguyên tắc chung thì hợp đồng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp “các bên có thỏa thuận khác hay pháp luật qui
định khác”. Nhiều luật gia thống nhất quan điểm xem thời điểm giao kết hợp đồng là
nguyên tắc chung, còn thời điểm do pháp luật qui định hay do các bên thỏa thuận là
ngoại lệ của thời điểm bắt đầu hiệu lực của hợp đồng.83 Do đó, qui định về thời điểm
do các bên thỏa thuận và thời điểm do pháp luật qui định được ưu tiên áp dụng. Chỉ
khi nào các bên không thỏa thuận và pháp luật không có qui định thì hợp đồng có hiệu
lực tại thời điểm giao kết. Vấn đề đặt ra là, liệu các bên có quyền thỏa thuận thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm luật định có được không, hay thỏa thuận
khác với nguyên tắc chung được không (?). Nhận thức vấn đề còn tồn tại ba quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng khác với thời điểm hợp đồng được giao kết, nhưng “việc lựa chọn này bị
loại trừ trong trường hợp pháp luật qui định một hình thức cụ thể, bắt buộc áp dụng
cho loại hợp đồng đó (Điều 404, Điều 405)”.84 Theo đó, về nguyên tắc các bên có
quyền thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhưng đối với thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng do pháp luật qui định thì các bên không được phép thỏa thuận. Quan
82
Điều 20 và khoản 2 Điều 23 BLDS 2005.
83
Xem: Đinh Văn Thanh & Nguyễn Minh Tuấn (Cb), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 2, Sđd, tr. 97; Phan
Hữu Thư, Lê Thu Hà (Cb) Giáo trình Luật Dân sự, Sđd, tr. 357; Phạm Văn Tuyết, Sđd, tr. 140; Đỗ Văn Đại,
Luật Hợp đồng Việt Nam – Bình luận và bản án, Sđd, tr. 392.
84 Chế Mỹ Phương Đài, Tlđd, tr. 10.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi67
điểm này cũng được sự đồng thuận của các luật gia khác, gồm cả nhà nghiên cứu cũng
như người làm công tác thực tiễn.
Theo một nhà nghiên cứu, thời điểm do các bên thỏa thuận có thứ bậc ưu tiên
áp dụng thấp hơn thời điểm do pháp luật qui định: “để áp dụng thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng phải tuân thủ theo thứ tự: căn cứ vào qui định riêng của pháp luật,
trong trường hợp không có qui định riêng, nhưng có thỏa thuận, thì phải căn cứ vào
sự thỏa thuận, nếu không có qui định riêng và không có thỏa thuận thì căn cứ vào thời
điểm giao kết”.85 Ý kiến này không trực tiếp nói về việc các bên có thể thỏa thuận thay
đổi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm có hiệu lực do pháp luật qui
định hay không, nhưng qua việc nêu lên thứ bậc áp dụng căn cứ chọn thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng như trên, tác giả đã cho rằng, thời điểm do pháp luật qui định có
thứ bậc ưu tiên áp dụng cao hơn so với thời điểm do các bên thỏa thuận. Điều đó có
nghĩa, các bên không được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nếu thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng đó đã được pháp luật qui định.
Quan điểm thứ hai cho rằng, vì pháp luật hợp đồng chịu sự chi phối của nguyên
tắc tự do hợp đồng, nên các bên có thể thỏa thuận bất kỳ vấn đề nào liên quan trong
hợp đồng, miễn sao thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật. Thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng là nội dung cơ bản của hợp đồng. Và hiện cũng chưa tìm
thấy có qui định nào cấm các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác
với thời điểm do pháp luật qui định. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận về thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng sớm hơn hay muộn hơn thời điểm giao kết hợp đồng, thậm
chí có thể thỏa thuận sớm hơn hay muộn hơn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do
pháp luật qui định.
Quan điểm thứ ba cho rằng, đối với các hợp đồng mà “pháp luật có qui định về
thời điểm phát sinh hiệu lực” thì “hiệu lực của hợp đồng phát sinh phụ thuộc vào qui
định mang tính bắt buộc đó của pháp luật, các bên không được thỏa thuận thời điểm
hợp đồng phát sinh hiệu lực sớm hơn”.86 Như vậy, theo quan điểm này, đối với các
loại hợp đồng pháp luật có qui định về thời điểm có hiệu lực, thì các bên chỉ có quyền
thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sau thời điểm do pháp luật qui định, mà
không được thỏa thuận về một thời điểm có hiệu lực sớm hơn thời điểm do pháp luật
qui định.
tui đồng ý với quan điểm thứ ba, vì pháp luật hợp đồng dựa trên nền tảng của
nguyên tắc tự do ý chí. Bởi vậy, không thể ngăn cấm các bên tự do thỏa thuận về một
thời điểm mà các bên xác định phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của mỗi bên. Nhưng
85 Phạm Văn Tuyết, Sđd, tr. 140.
86 Phan Hữu Thư, Lê Thu Hà (Cb), Sđd, tr. 357 - 358.68
tự do nào cũng có giới hạn bởi lẽ công bằng và luật pháp. Để đảm bảo quyền tự do hợp
đồng, cần thiết phải cho các bên được thỏa thuận chọn một thời điểm khác với thời
điểm giao kết, hay thời điểm luật định. Nhưng xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp
đồng, đề phòng những trường hợp lẩn tránh pháp luật, phù hợp với các qui định tương
ứng khác về thời hiệu, năng lực chủ thể, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, chọn luật
áp dụng để giải quyết tranh chấp…, thiết nghĩ cần hạn chế sự thỏa thuận này, cho
các bên được thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhưng không được lùi
ngược về trước, sớm hơn thời điểm giao kết hay sớm hơn thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng do pháp luật qui định.
Trong thực tiễn xét xử, vấn đề này dường như chưa được quan tâm đúng mức
và hiện vẫn còn chưa nhất quán trong nhận thức giữa các cấp tòa án. Ví dụ thực tế:
Quyết định giám đốc thẩm số 23/2008/DS-GĐT ngày 28 tháng 8 năm 2008 của về vụ
án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của HĐTP – TANDTC
(Xem phụ lục 03). Trong vụ án này, các bên đã lập ra ba hợp đồng khác nhau về việc
chuyển nhượng một mảnh đất. Đầu tiên, nguyên đơn làm hợp đồng với công ty kinh
doanh nhà đất để nhận chuyển nhượng đất nền nhà, trả trước một số tiền. Sau đó,
nguyên đơn lại ký hợp đồng với bị đơn để sang nhượng lại mảnh đất nói trên cho bị
đơn (do ông Th. chồng của bị đơn đứng tên bên nhận) để lấy tiền chênh lệch. Tiếp đó,
nguyên đơn đã đến thương lượng lại với công ty xin chuyển nhượng hợp đồng cho ông
Th, và nhân danh ông Th nộp cho công ty khoản tiền còn lại. Công ty đồng ý cho
nguyên đơn được chuyển nhượng hợp đồng cho ông Th, nhưng yêu cầu nguyên đơn
nhân danh ông Th. ký tên vào hợp đồng mới, nhưng ghi lùi ngày ký hợp đồng về ngày
tương ứng mà nguyên đơn đã ký hợp đồng lần đầu với công ty trước đây. Số hợp đồng
mới này vẫn giữ nguyên theo số hợp đồng lần đầu giữa nguyên đơn với công ty.
Nhận xét:
(1) Trong cùng một vụ việc, nhưng ba cấp xét xử lại có 03 nhận định khác nhau
về giá trị pháp lý của hợp đồng: cấp sơ thẩm cho rằng hợp đồng 180/HĐCN ngày
15/10/1994 giữa ông Th (do nguyên đơn ký thay) với công ty là hợp đồng vô hiệu, cấp
phúc thẩm cho rằng hợp đồng này là hợp đồng trái pháp luật và tuyên hủy bỏ, còn cấp
giám đốc thẩm cho rằng đây là hợp đồng hợp pháp và có hiệu lực pháp luật. Kết luận
thiếu nhất quán của ba cấp xét xử về cùng một vấn đề với những luận điểm rất khác
biệt, khiến cho người ta không khỏi nghi ngờ về tính nghiêm minh của pháp luật và
của công tác xét xử. Từ đó, vấn đề thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cần được
hiểu, giải thích, vận dụng nhất quán hơn.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
Chuyên đề 1: “VỀ THỰC TẾ XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC CÔNG
NHẬN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở & HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT” – Thẩm phán Phan Thanh Tùng – TAND Tp.HCM........ 1
Chuyên đề 2: “THỜI ĐIỂM GIAO KẾT VÀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA
HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005” CÒN ĐÓ NHIỀU
QUY ĐỊNH CHƯA ĐẦY ĐỦ - ThS. LS. Trương Thị Hoà – Đoàn LS Tp. HCM....... 8
Chuyên đề 3: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG VÀ VIỆC CÔNG
CHỨNG HỢP ĐỒNG” – LS. Huỳnh Văn Nông - Đoàn LS Tp. HCM....................... 13
Chuyên đề 4: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO CÓ
ĐIỀU KIỆN THEO ĐIỀU 470 BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005" – V Phan Văn Cheo –
Phòng Công chứng Sài Gòn .......................................................................................... 19
Chuyên đề 5: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI
SẢN” – TS. Dương Anh Sơn – Khoa Kinh tế, ĐHQG Tp. HCM................................ 22
Chuyên đề 6: “THỜI ĐIỂM GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT
PHÁP LUẬT TRONG THỜI GIAN”- TS. Đỗ Văn Đại – ĐHL Tp. HCM................. 28
Chuyên đề 7: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUI ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH – THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN” –
NCS Lê Minh Hùng - ĐHL Tp. HCM .......................................................................... 41
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiiii
THỜI ĐIỂM GIAO KẾT
VÀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
THEO QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
Thời gian: 8h00, Thứ Bảy ngày 05 tháng 12 năm 2009
Địa điểm: Hội trường B303 – Trường ĐH Luật TP.HCM
Số 02 Nguyễn Tất Thành, Quận 4, TP.HCM
GIỜ
7h30– 8h00 Đón đại biểu
8h00 – 8h10 Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu
8h10 – 8h25
Tham luận: “Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng theo qui định của pháp luật hiện hành –
Thực trạng và định hướng hoàn thiện”
NCS. Lê Minh Hùng – Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
8h25 – 8h40
Phần trình bày của TS. Chu Hải Thanh –
Phó Giám đốc Học viện Tư pháp
8h40 – 9h00
Tham luận: “Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của
Hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 -
Còn đó nhiều quy định chưa đầy đủ”
ThS. LS. Trương Thị Hòa – Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh
9h00 – 9h15
Tham luận: “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và thời điểm
công chứng hợp đồng”
LS. Huỳnh Văn Nông – VPLS Sông Hậu – SH LAW
CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢOiv
9h15 – 10h15 Thảo luận
10h15- 10h30 Giải lao
10h30 – 10h50
Tham luận: “Về thực tế xét xử của toà án
trong việc công nhận hợp đồng mua bán nhà ở
& hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Thẩm phán Phan Thanh Tùng – Phó Chánh Tòa Dân sự
Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh
10h50– 11h05
Tham luận: “Thời điểm giao kết hợp đồng và vấn đề xung đột
pháp luật trong thời gian”
TS. Đỗ Văn Đại – Phó trưởng khoa Luật Dân sự
- ĐH Luật Tp. HCM
11h05 – 11h20
Tham luận: “Thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng tặng cho tài sản”
TS. Dương Anh Sơn – Khoa Kinh tế - ĐHQG TP. HCM
11h20 - 12h00 Thảo luận và Tổng kết Hội thảo
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
Chuyên đề 1: “VỀ THỰC TẾ XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TRONG
VIỆC CÔNG NHẬN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở & HỢP
ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”
Thẩm phán Phan Thanh Tùng
Toà Dân sự – Toà án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh
1. Lý thuyết về hợp đồng:
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, Bộ luật Dân sự của họ luôn dành một phần
quan trọng quy định về nghĩa vụ dân sự. Đơn giản nhất, nghĩa vụ dân sự được hiểu là
một mối quan hệ pháp lý, trong đó một người phải thi hành một yêu cầu của một người
khác; người phải thi hành còn được gọi là “con nợ”, còn người được thi hành gọi là
“chủ nợ”. Sự “phải thi hành” đó xuất phát từ một nghĩa vụ, mà chúng ta gọi là nghĩa
vụ dân sự.
Trong Bộ luật Dân sự hiện hành của Việt Nam, nghĩa vụ dân sự là một định chế
quan trọng, được quy định “khung” nhưng đồng thời cũng mang tính chi tiết trong
luật. Điều 280 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) định nghĩa về nghĩa vụ dân sự
như sau: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hay nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao quyền, trả tiền hay giấy tờ có giá, thực
hiện công việc khác hay không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một
hay nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Tiếp liền sau đó, điều
281 BLDS 2005 xác định về các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự như sau: “Nghĩa vụ
dân sự phát sinh từ các căn cứ sau đây: 1/Hợp đồng dân sự; 2/Hành vi pháp lý đơn
phương; 3/Thực hiện công việc không có uỷ quyền; 4/Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; 5/Gây thiệt hại do hành vi trái pháp
luật; 6/Những căn cứ khác do pháp luật quy định.”.
Như vậy, một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự mà điều 281 BLDS
2005 quy định, là “Hợp đồng dân sự”.
Trong cuộc sống hàng ngày, do nhu cầu của đời sống mà chúng ta đã phải thực
hiện rất nhiều hành vi như: -mua bán, thuê mướn, chuyên chở, giữ hộ tài sản…..hoặc
làm một công việc gì đó. Khi thực hiện những hành vi như vậy, chúng ta đã ký kết
những “Hợp đồng dân sự” mà theo đó sẽ phát sinh nghĩa vụ dân sự cho chính chúng
ta. Nói cách khác, một trong những nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ dân sự là các “Hợp
đồng dân sự” được tạo ra bởi chính ý chí của chúng ta.2
Về mặt pháp lý, điều 388 BLDS 2005 nêu ra khái niệm về “Hợp đồng dân sự”
như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo tác giả Đỗ Văn Đại, “Hợp đồng là một
trong những chế định quan trọng, có tần suất áp dụng rất cao trên thực tế và có khả
năng ảnh hưởng đến sự vận hành của phần lớn giao dịch dân sự” (TS Đỗ Văn Đại –
Luật hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận bản án – NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2008 – tr.14-15). Thật vậy, trong thực tế xét xử án dân sự của Toà án hàng năm,
số vụ án xuất phát từ hợp đồng chiếm tỷ lệ hơn 50%.
2. Sự quy định về hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam:
Bộ luật Dân sự hiện hành của chúng ta là BLDS 2005. Trong Bộ luật này, phần
tổng quát về hợp đồng dân sự (HĐDS) được quy định từ điều 388 đến điều 427 (tổng
cộng 41 điều).
Một số quy định căn bản của luật về HĐDS như sau:
- Nguyên tắc giao kết HĐDS (điều 389): -(1)Tự do giao kết HĐDS nhưng
không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; (2)Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác,
trung thực và ngay thẳng;
- Đề nghị giao kết HĐDS (điều 390): -(1)Đề nghị giao kết HĐDS là việc thể
hiện rõ ý định giao kết HĐ và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của của bên đề nghị
đối với bên đã được xác định cụ thể; (2)Trong trường hợp đề nghị giao kết HĐ có nêu
rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết HĐ với người thứ ba trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không
được giao kết HĐ nếu co thiệt hại phát sinh;
- Thời điểm đề nghị giao kết HĐ có hiệu lực; Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết
HĐ; Huỷ bỏ đề nghị giao kết HĐ; Chấm dứt đề nghị giao kết HĐ; Sửa đổi đề nghị do
bên được đề nghị đề xuất; Chấp nhận đề nghị giao kết HĐ; Thời hạn trả lời chấp nhận
giao kết HĐ; Trường hợp bên đề nghị giao kết HĐ chết hay mất năng lực hành vi dân
sự; Trường hợp bên được đề nghị giao kết HĐ chết hay mất năng lực hành vi dân sự;
Rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐ; Hình thức HĐDS; Nội dung của HĐDS (từ
điều 391 đến 402);
- Địa điểm giao kết HĐDS (điều 403): -Địa điểm giao kết HĐDS do các bên
thỏa thuận; nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết HĐDS là nơi cư trú của cá
nhân hay trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết HĐ;
- Thời điểm giao kết HĐDS (điều 404): -(1)HĐDS được giao kết vào thời điểm
bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết; (2)HĐDS cũng xem như đã được
giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có sự thoả
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết; (3)Thời điểm giao kết HĐ bằng lời nói
là thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của HĐ; (4)Thời điểm giao kết HĐ
bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
- Hiệu lực của HĐDS (điều 405): -HĐ được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hay pháp luật có quy định khác;
- HĐDS vô hiệu (điều 410): -(1)Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ
điều 127 đến điều 138 của BLDS 2005 cũng được áp dụng đối với HĐDS vô hiệu;
(2)Sự vô hiệu của HĐ chính làm chấm dứt HĐ phụ, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận HĐ phụ được thay thế HĐ chính. Quy định này không áp dụng đối cới các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ DS; (3)Sự vô hiệu của HĐ phụ không làm chấm dứt
HĐ chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận HĐ phụ là một phần không thể tách rời
của HĐ chính;
- HĐDS vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (điều 411): -
(1)Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, HĐ có đối tượng không thể thực hiện được vì
lý do khách quan thì HĐ này vô hiệu; (2)Trong trường hợp khi giao kết HĐ mà một
bên biết hay phải biết về việc HĐ có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng
không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết HĐ thì phải bồi thường thiệt
hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hay phải biết về việc HĐ có đối tượng
không thể thực hiện được; (3)Quy định tại khoản (2) này cũng được áp dụng đối với
trường hợp HĐ có một hay nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng
phần còn lại của HĐ vẫn có giá trị pháp lý.
3. Thực tế xét xử của Toà án trong việc công nhận HĐ mua bán nhà ở
(HĐMBNƠ) và HĐ chuyển nhượng quyền sử dụng đất (HĐCNQSDĐ):
3.1. Về việc công nhận HĐMBNƠ:
HĐMBNƠ là một trong những HĐDS thông dụng, được quy định từ điều 450
đến điều 455 BLDS 2005. Trong thực tế xét xử, bên cạnh các điều luật này, Toà án
còn áp dụng Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao (theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị
quyết của HĐTP-TANDTC là một loại văn bản quy phạm pháp luật) để giải quyết các
tranh chấp về mua bán nhà ở.
Điều 450 BLDS 2005 quy định về hình thức HĐMBNƠ như sau: “HĐMBNƠ
phải được lập thành văn bản, có công chứng hay chứng thực, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác”. Đa số các tranh chấp về HĐMBNƠ xảy ra mà Toà án phải xét xử
là do sự vi phạm quy định về hình thức của HĐMBNƠ, nói tại điều 450 BLDS 2005.
Mặc dù không xem sự vi phạm quy định về hình thức của HĐMBNƠ dẫn đến sự vô4
hiệu tuyệt đối của HĐ (pháp luật hiện hành chỉ xem hình thức của HĐMBNƠ là điều
kiện có hiệu lực của HĐ (xem điều 134 BLDS 2005), nhưng trong trường hợp đã được
Toà án yêu cầu các bên phải hoàn thiện về hình thức của HĐMBNƠ mà các bên không
chấp hành, HĐMBNƠ sẽ được Toà án tuyên bố là vô hiệu, huỷ HĐ đồng thời xác định
của các bên tham gia.
Quy trình giải quyết của Toà án có thể tóm tắt như sau:
- Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng mua bán nhà ở nhưng HĐ không
được công chứng hay chứng thực, thì theo yêu cầu của một hay các bên, Toà án ra
quyết định buộc các bên phải đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các
thủ tục hoàn thiện về hình thức của HĐMBNƠ; thời hạn để các bên thực hiện là 01
tháng kể từ ngày Toà án ra quyết định (xem điều 134 BLDS 2005; điểm b tiểu mục 2.2
mục 2 phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 của HĐTPTANDTC);
có thỏa thuận khác.73 Bởi vậy, nếu hợp đồng loại này chưa được lập đúng hình thức,
thì phải được coi là chưa có hiệu pháp luật. Trong trường hợp này, các bên phải yêu
cầu tòa án hay cơ quan có thẩm quyền giải quyết để ra quyết định buộc các bên thực
hiện đúng hình thức, thủ tục luật định trong một thời hạn; nếu quá thời hạn đó mà
không thực hiện thì hợp đồng vô hiệu.74
Vấn đề đặt ra là, nếu hợp đồng vi phạm hình thức mà được tòa án hay cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định buộc thực hiện đúng hình thức, thủ tục luật định,
như ra phòng công chứng để làm lại hợp đồng, thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
là lúc nào(?). Đây là vấn đề hiện còn gây nhiều tranh cãi. Khi bàn về vấn đề hợp đồng
không tuân thủ hình thức, có nhiều ý kiến cho rằng pháp luật chưa xác định rõ thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng bị vi phạm hình thức75 và kiến nghị “cần quy định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp hình thức hợp đồng được khắc
phục”.76 Thật vậy, pháp luật hiện hành chưa giải quyết triệt để vấn đề này. Các nhà
bình luận thì cho rằng, về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết thì có hiệu lực, không
phụ thuộc vào thời điểm công chứng, chứng thực, đăng ký hay xin phép.77 Các nhà
bình luận xem hiệu lực của hợp đồng từ thời điểm giao kết đến khi hợp đồng được
công chứng, chứng thực theo thủ tục luật định là hợp đồng có hiệu lực “treo”, và việc
công chứng, chứng thực chỉ là thủ tục xác nhận hợp đồng có hiệu từ khi giao kết chứ
không có ý nghĩa quyết định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy vậy, quan điểm
cá nhân tui cho rằng, cách giải thích này có phần chưa chính xác, nhất là đối với các
hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó đã được pháp luật qui định minh thị. Ví dụ:
hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho bất động sản hay động sản
có đăng ký quyền sở hữu… Hơn nữa, pháp luật công chứng chỉ qui định văn bản công
chứng có hiệu lực từ thời điểm văn bản đó được công chứng và đóng dấu của tổ chức
công chứng, chứ không có qui định “hiệu lực hồi tố” của các văn bản này. Thêm vào
đó, ngày các bên xác lập hợp đồng chính thức là ngày hợp đồng được lập lại theo đúng
thủ tục công chứng, chứ không phải là thời điểm giao kết. Về lô gích pháp lý mà nói,
hợp đồng thiếu hình thức trong trường hợp này phải được xem là hợp đồng chưa có
hiệu lực, vì các bên chưa đi đến sự quyết định cuối cùng để xác lập hợp đồng, nhưng
vì hợp đồng đã được giao kết, nên có thể xem đây là quan hệ tiền hợp đồng.78 Theo đó,
73
Điều 405 BLDS 2005.
74 Khoản 1 Điều 410, Điều 134 BLDS 2005.
75 Xem: Lê Thị Bích Thọ, Hình thức của hợp đồng kinh tế và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, Tlđd, tr. 43.
76 Lê Thị Bích Thọ, Tlđd, tr. 43
77
Đinh Trung Tụng (Cb), Sđd, tr. 180 – 1.
78
Vấn đề tiền hợp đồng đã được đề cập rất nhiều trong lý luận và thực tiễn xét xử nước ngoài. Xem thêm: John
Cartwright & Martijn Hesselink (Editers), Precontractual Liability in European Private Law, CUP, Cambridge
2008; Johanna Schmidt, Thư bày tỏ ý định giao kết hợp đồng, trích Kỷ yếu hội thảo Hợp đồng thương mại quốc64
hợp đồng tuy chưa có hiệu lực ràng buộc các bên, nhưng các bên có những nghĩa vụ
pháp định vì đã tự nguyện xác lập các cam kết đơn phương bằng việc đưa ra đề nghị
hay chấp nhận giao kết hợp đồng.
Vấn đề này cũng được ngành tòa án giải thích và hướng dẫn áp dụng trong hoạt
động xét xử bằng hai văn bản khác nhau cho hai loai hợp đồng khác nhau: hợp đồng
mua bán nhà ở và hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Theo hướng dẫn của TAND tối
cao, thì các trường hợp trên được giải quyết như sau: (i) Đối với hợp đồng mua bán
nhà không tuân thủ hình thức luật định mà các bên có tranh chấp, thì Tòa án “quyết
định buộc một hay các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn
một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình
thức của hợp đồng”;79 (ii) Đối với hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất được xác lập từ
sau ngày 15/10/1993 nhưng có vi phạm hình thức, thủ tục luật định mà các bên phát
sinh tranh chấp và có đơn khởi kiện sau ngày 01/07/2004 thì Tòa án “không coi là hợp
đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này”. Có nghĩa các hợp đồng này vẫn được tòa án
công nhận là có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện xác định: đã trả tiền, hay đã giao
đất…80
Có thể thấy, đối tượng của hai loại hợp đồng đều là bất động sản có đăng ký
(quyền sở hữu hay quyền sử dụng), hình thức của hợp đồng đều không đúng qui định
của pháp luật, nhưng hai văn bản trên lại đưa ra hai đường lối giải quyết không giống
nhau. Cách giải thích vấn đề này trong Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP cũng vượt xa ý
chí ban đầu của nhà làm luật, nếu không nói là trái luật. Bởi lẽ, theo qui định của
BLDS 2005, khi hợp đồng vi phạm hình thức, thủ tục luật định thì tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cần “buộc các bên phải thực hiện đúng hình thức của giao dịch
trong một thời hạn…” theo Điều 134 BLDS 2005 mới đúng. Mặt khác, theo qui định
tại Điều 692 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, hợp đồng
này chỉ có hiệu lực khi đã tuân thủ điều kiện về hình thức và đã được đăng ký quyền sử
dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất. Như vậy, hợp đồng
trong trường hợp này phải được xem là không có hiệu lực. Các bên phải hoàn nguyên
cho nhau các lợi ích đã nhận theo hợp đồng. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật
thì phải hoàn trả bằng tiền.
tế, nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội, tr. 125 – 132; Phan Hữu Thư (Cb), Kỹ năng hành nghề luật sư,
tập 3, Nxb. CAND, H. 2002, tr. 32 -3 & 39. Khái niệm tiền hợp đồng cũng được qui định trong BLDS 2005,
nhưng còn sơ lược và chưa cụ thể. Ví dụ: sự ràng buộc của lời đề nghị và trách nhiệm do vi phạm ràng buộc của
lời đề nghị tại Điều 390 BLDS 2005; hay qui định về việc các bên không được sửa đổi, rút lại hay hủy bỏ lời
đề nghị, lời chấp nhận đề nghị… tại các Điều 392-395 và Điều 400 BLDS 2005.
79
Điểm b tiểu mục 2.2. phần I Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 14/6/2003 của Hội đồng thẩm phán.
80
Điểm b.2, b.3 tiểu mục 2.3. phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi65
Tóm lại, việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vi phạm hình thức là
vấn đề pháp lý phức tạp, mà cả về lý luận cũng như thực tiễn pháp lý ở Việt Nam hiện
nay vẫn chưa có hướng giải quyết hợp lý. Sự phức tạp này xuất phát từ nguyên nhân
luật hiện hành chưa xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa hình thức hợp đồng với thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng, cũng như chưa có sự phân biệt rõ ràng hiệu lực ràng
buộc nghĩa vụ của hợp đồng trước (giai đoạn tiền hợp đồng) và sau khi hợp đồng bắt
đầu có hiệu lực. Chính vì thế, qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn, đặc biệt là cần
bổ sung hiệu lực của các cam kết tiền hợp đồng và hậu quả pháp lý khi các bên vi
phạm nghĩa vụ trong giai đoạn này.
(2) Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác lập bởi người không có
quyền đại diện. Có nhiều hợp đồng được xác lập bởi người không có quyền đại diện,
nhưng vẫn có thể được công nhận là hợp đồng có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện
do pháp luật qui định. Theo khoản 1 Điều 145 BLDS 2005 thì giao dịch loại này vẫn
có hiệu lực nếu “Người đã giao dịch với người không có quyền thay mặt phải thông
báo cho người được thay mặt hay người thay mặt của người đó để trả lời trong thời
hạn ấn định” và phải được “người thay mặt hay người được thay mặt đồng ý”. Vấn đề
đặt ra là trong trường hợp này, hợp đồng bắt đầu có hiệu lực từ lúc nào: khi hợp đồng
thực tế được xác lập, khi người có quyền nhận được thông báo, hay khi người có
quyền thể hiện sự đồng ý. Tương tự, về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác
lập bởi người đại diện, nhưng vượt quá phạm vi đại diện. Một hợp đồng được người
thay mặt xác lập vượt quá phạm vi thay mặt thì phần vượt quá đó không có hiệu lực đối
với người được đại diện. Nhưng nếu “người được thay mặt đồng ý hay biết mà không
phản đối” thì phần hợp đồng vượt quá phạm vi thay mặt vẫn có hiệu lực81. Vấn đề là
phần hợp đồng vượt quá phạm vi thay mặt đó có hiệu lực từ thời điểm nào, người được
thay mặt có thể xác định lại thời điểm có hiệu lực của phần hợp đồng vượt quá phạm vi
thay mặt theo ý chí của mình hay không. Đây cũng là vấn đề mà BLDS 2005 còn để
ngỏ, cần được làm rõ.
(3) Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác lập bởi người có năng lực
hành vi dân sự chưa đầy đủ hay người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và cần
phải có sự đồng ý của người đại diện. Đối với các hợp đồng được xác lập bởi những
cá nhân không có năng lực hành vi dân sự tương ứng với yêu cầu pháp lý của hợp
đồng (do chủ thể bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hay chưa có năng lực hành vi
dân sự cần thiết để xác lập, thực hiện hợp đồng) và cần có sự đồng ý của người
thay mặt hợp pháp, thì hợp đồng đó vẫn có thể không bị vô hiệu, nếu được người đại
81 Khoản 1 Điều 146 BLDS 2005.66
diện hợp pháp thể hiện sự đồng ý.82 Vấn đề đặt ra là nếu hợp đồng đã được xác lập bởi
người có năng lực hành vi chưa đầy đủ hay người bị hạn chế năng lực hành vi, rồi sau
đó người thay mặt hợp pháp mới biết và thể hiện sự đồng ý, thì có được không, và nếu
việc đồng ý thể hiện sau khi hợp đồng được xác lập, thì thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng là thời điểm nào: lúc các bên giao kết hợp đồng, hay khi người thay mặt tuyên bố
đồng ý. Vấn đề này chưa được pháp luật qui định rõ, nên cần được bổ sung vào
BLDS.
Những thiếu sót nêu trên đã phản ánh nội dung điều luật qui định về thời điểm
bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng là quá sơ sài, chưa dự liệu được hết các khả năng đặc
biệt được qui định trong các phần khác của BLDS. Để bảo đảm tính toàn diện và bao
quát của pháp luật, những nội dung trên đây cần được nghiên cứu để đưa vào qui định
trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng.
3.1.3. Qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khi các bên “thỏa thuận
khác” là chưa rõ ràng và còn gây nhiều tranh cãi
Theo Điều 405 BLDS 2005, về nguyên tắc chung thì hợp đồng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp “các bên có thỏa thuận khác hay pháp luật qui
định khác”. Nhiều luật gia thống nhất quan điểm xem thời điểm giao kết hợp đồng là
nguyên tắc chung, còn thời điểm do pháp luật qui định hay do các bên thỏa thuận là
ngoại lệ của thời điểm bắt đầu hiệu lực của hợp đồng.83 Do đó, qui định về thời điểm
do các bên thỏa thuận và thời điểm do pháp luật qui định được ưu tiên áp dụng. Chỉ
khi nào các bên không thỏa thuận và pháp luật không có qui định thì hợp đồng có hiệu
lực tại thời điểm giao kết. Vấn đề đặt ra là, liệu các bên có quyền thỏa thuận thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm luật định có được không, hay thỏa thuận
khác với nguyên tắc chung được không (?). Nhận thức vấn đề còn tồn tại ba quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng khác với thời điểm hợp đồng được giao kết, nhưng “việc lựa chọn này bị
loại trừ trong trường hợp pháp luật qui định một hình thức cụ thể, bắt buộc áp dụng
cho loại hợp đồng đó (Điều 404, Điều 405)”.84 Theo đó, về nguyên tắc các bên có
quyền thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhưng đối với thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng do pháp luật qui định thì các bên không được phép thỏa thuận. Quan
82
Điều 20 và khoản 2 Điều 23 BLDS 2005.
83
Xem: Đinh Văn Thanh & Nguyễn Minh Tuấn (Cb), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 2, Sđd, tr. 97; Phan
Hữu Thư, Lê Thu Hà (Cb) Giáo trình Luật Dân sự, Sđd, tr. 357; Phạm Văn Tuyết, Sđd, tr. 140; Đỗ Văn Đại,
Luật Hợp đồng Việt Nam – Bình luận và bản án, Sđd, tr. 392.
84 Chế Mỹ Phương Đài, Tlđd, tr. 10.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi67
điểm này cũng được sự đồng thuận của các luật gia khác, gồm cả nhà nghiên cứu cũng
như người làm công tác thực tiễn.
Theo một nhà nghiên cứu, thời điểm do các bên thỏa thuận có thứ bậc ưu tiên
áp dụng thấp hơn thời điểm do pháp luật qui định: “để áp dụng thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng phải tuân thủ theo thứ tự: căn cứ vào qui định riêng của pháp luật,
trong trường hợp không có qui định riêng, nhưng có thỏa thuận, thì phải căn cứ vào
sự thỏa thuận, nếu không có qui định riêng và không có thỏa thuận thì căn cứ vào thời
điểm giao kết”.85 Ý kiến này không trực tiếp nói về việc các bên có thể thỏa thuận thay
đổi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm có hiệu lực do pháp luật qui
định hay không, nhưng qua việc nêu lên thứ bậc áp dụng căn cứ chọn thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng như trên, tác giả đã cho rằng, thời điểm do pháp luật qui định có
thứ bậc ưu tiên áp dụng cao hơn so với thời điểm do các bên thỏa thuận. Điều đó có
nghĩa, các bên không được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nếu thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng đó đã được pháp luật qui định.
Quan điểm thứ hai cho rằng, vì pháp luật hợp đồng chịu sự chi phối của nguyên
tắc tự do hợp đồng, nên các bên có thể thỏa thuận bất kỳ vấn đề nào liên quan trong
hợp đồng, miễn sao thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật. Thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng là nội dung cơ bản của hợp đồng. Và hiện cũng chưa tìm
thấy có qui định nào cấm các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác
với thời điểm do pháp luật qui định. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận về thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng sớm hơn hay muộn hơn thời điểm giao kết hợp đồng, thậm
chí có thể thỏa thuận sớm hơn hay muộn hơn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do
pháp luật qui định.
Quan điểm thứ ba cho rằng, đối với các hợp đồng mà “pháp luật có qui định về
thời điểm phát sinh hiệu lực” thì “hiệu lực của hợp đồng phát sinh phụ thuộc vào qui
định mang tính bắt buộc đó của pháp luật, các bên không được thỏa thuận thời điểm
hợp đồng phát sinh hiệu lực sớm hơn”.86 Như vậy, theo quan điểm này, đối với các
loại hợp đồng pháp luật có qui định về thời điểm có hiệu lực, thì các bên chỉ có quyền
thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sau thời điểm do pháp luật qui định, mà
không được thỏa thuận về một thời điểm có hiệu lực sớm hơn thời điểm do pháp luật
qui định.
tui đồng ý với quan điểm thứ ba, vì pháp luật hợp đồng dựa trên nền tảng của
nguyên tắc tự do ý chí. Bởi vậy, không thể ngăn cấm các bên tự do thỏa thuận về một
thời điểm mà các bên xác định phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của mỗi bên. Nhưng
85 Phạm Văn Tuyết, Sđd, tr. 140.
86 Phan Hữu Thư, Lê Thu Hà (Cb), Sđd, tr. 357 - 358.68
tự do nào cũng có giới hạn bởi lẽ công bằng và luật pháp. Để đảm bảo quyền tự do hợp
đồng, cần thiết phải cho các bên được thỏa thuận chọn một thời điểm khác với thời
điểm giao kết, hay thời điểm luật định. Nhưng xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp
đồng, đề phòng những trường hợp lẩn tránh pháp luật, phù hợp với các qui định tương
ứng khác về thời hiệu, năng lực chủ thể, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, chọn luật
áp dụng để giải quyết tranh chấp…, thiết nghĩ cần hạn chế sự thỏa thuận này, cho
các bên được thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhưng không được lùi
ngược về trước, sớm hơn thời điểm giao kết hay sớm hơn thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng do pháp luật qui định.
Trong thực tiễn xét xử, vấn đề này dường như chưa được quan tâm đúng mức
và hiện vẫn còn chưa nhất quán trong nhận thức giữa các cấp tòa án. Ví dụ thực tế:
Quyết định giám đốc thẩm số 23/2008/DS-GĐT ngày 28 tháng 8 năm 2008 của về vụ
án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của HĐTP – TANDTC
(Xem phụ lục 03). Trong vụ án này, các bên đã lập ra ba hợp đồng khác nhau về việc
chuyển nhượng một mảnh đất. Đầu tiên, nguyên đơn làm hợp đồng với công ty kinh
doanh nhà đất để nhận chuyển nhượng đất nền nhà, trả trước một số tiền. Sau đó,
nguyên đơn lại ký hợp đồng với bị đơn để sang nhượng lại mảnh đất nói trên cho bị
đơn (do ông Th. chồng của bị đơn đứng tên bên nhận) để lấy tiền chênh lệch. Tiếp đó,
nguyên đơn đã đến thương lượng lại với công ty xin chuyển nhượng hợp đồng cho ông
Th, và nhân danh ông Th nộp cho công ty khoản tiền còn lại. Công ty đồng ý cho
nguyên đơn được chuyển nhượng hợp đồng cho ông Th, nhưng yêu cầu nguyên đơn
nhân danh ông Th. ký tên vào hợp đồng mới, nhưng ghi lùi ngày ký hợp đồng về ngày
tương ứng mà nguyên đơn đã ký hợp đồng lần đầu với công ty trước đây. Số hợp đồng
mới này vẫn giữ nguyên theo số hợp đồng lần đầu giữa nguyên đơn với công ty.
Nhận xét:
(1) Trong cùng một vụ việc, nhưng ba cấp xét xử lại có 03 nhận định khác nhau
về giá trị pháp lý của hợp đồng: cấp sơ thẩm cho rằng hợp đồng 180/HĐCN ngày
15/10/1994 giữa ông Th (do nguyên đơn ký thay) với công ty là hợp đồng vô hiệu, cấp
phúc thẩm cho rằng hợp đồng này là hợp đồng trái pháp luật và tuyên hủy bỏ, còn cấp
giám đốc thẩm cho rằng đây là hợp đồng hợp pháp và có hiệu lực pháp luật. Kết luận
thiếu nhất quán của ba cấp xét xử về cùng một vấn đề với những luận điểm rất khác
biệt, khiến cho người ta không khỏi nghi ngờ về tính nghiêm minh của pháp luật và
của công tác xét xử. Từ đó, vấn đề thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cần được
hiểu, giải thích, vận dụng nhất quán hơn.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: Hợp đồng tặng cho nhà ở theo qui định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và thực tiễn thi hành tại tổ chức hành nghề công chứng / ThS. Lỗ Thị Kiều Linh, bản án của tòa án về thời điểm giao kết họp đồng, Thời điểm có hiệu lực và thời điểm giao kết hợp đồng, Bộ luật dân sự có tính hồi tố không, bản án thời điểm có hiệu lực trở về trước của của hợp đồng, chủ thể giao kết hđ không có quyền sử dụng đất, Hợp đồng kinh tế có hiệu lực hồi tố không, Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng luôn là thời điểm giao kết hợp đồng, lý thuyết Phân tích thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản, Giao kết hợp đồng mua bán nhà ở
Last edited by a moderator: