Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Nếu nghệ thuật cổ điển là sự hòa hoãn giữa tư sản và đại quý tộc phong kiến, thì nghệ thuật lãng mạn là sản phẩm của sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến.
Nghệ thuật lãng mạn là nét đặc trưng của văn học lãng mạn. Nó đi tìm cái đẹp đầy chất mộng tưởng, một thế giới khác với thực tại. Đó là thế giới rất riêng của người nghệ sĩ mà được coi như là một thế giới lý tưởng. Vấn đề thời gian đã được đặt ra trong nghệ thuật lãng mạn một cách nghiêm túc.
Thơ Mới (1932_1945) lâu nay thường được coi như một chiếc nấm lạ trên cây gia hệ văn học dân tộc. Đó là mảnh đất của nhưng tâm hồn khao khát yêu, khao khát sống như Xuân Diệu; là tiếng trở mình thương yêu làng quê Việt Nam của Nguyễn Bính; là nơi cái tui được bộc bạch mãnh mẽ và hết mình nhất… Người nghệ sĩ luôn đi tìm cho mình mảnh đất để gieo vần cảm xúc. Thời gian trong qua khứ đã được phần lớn nhà thơ lựa chọn.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Đôi nét về nghệ thuật lãng mạn, phương pháp lãng mạn
1. Tư tưởng sáng tạo
Mở đầu cho lí thuyết lãng mạn thế giới, Căng_nhà mĩ học Đức cuối thế kỉ XVIII tuyên bố: “Vẻ đẹp không ơphải ở đôi má hông cô thiếu nữ, mà trong con mắt kẻ si tình”. Víchto Huygô trong lời tựa của vở kịch đầu tay Hécnani công khai rằng: “Nghệ thuật không đi giày đỏ, đội mũ đỏ”, nghĩa là nghệ thuật chỉ đi tìm cái tự do cho nghệ thuật, nghệ thuật không liên quan đến chính trị.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, Hoài Thanh cho rằng: Nghệ thuật chỉ vì nghệ thuật, “nghệ thuật không vị nhân sinh”.Thi sĩ gác ra ngoài tất cả, chỉ cần một mối tình si:
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi
tui chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể
(Thế Lữ)
Thời trung cổ, mỗi kị sĩ quý tộc đều lấy hình bóng của một nàng để cho trái tim mình tôn thờ, để cho nghiệp cung kiếm của mình có thêm phần ý nghĩa. Việc làm thơ của thi sĩ lãng mạn cũng có chung một lý do tương tự :
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời nha đau khổ
Ai bảo em ngồi bên của sổ
Cho anh vương vấn nợ thi nhân
(Lưu Trọng Lư)
Trong tác phẩm văn xuôi của Khái Hưng, cuốn Đẹp, nhân vật Nam họa sĩ chỉ thấy cái đẹp trong mộng ước mới là cái đẹp vĩnh cửu, cái gì đã trong tầm tay là tan biến mọi vẻ đẹp. Vì thế Bêlinxki có lí khi viết: Ở nền nghệ thuật này, “đối tượng tự nó không có giá trị, mà tùy thuộc vào chủ đề gán cho nó”. Lép Tônxtôi, cũng đã có lần nói với Gorki: “chủ nghĩa lãng mạn là do sợ nhìn thẳng sự thật mà ra”.
Như vậy tư tưởng sáng tạo nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn là một tư tưởng dựa trên chủ nghĩa duy tâm chủ quan, và một thái độ ít gửi gắm hi vọng nhất vào cuộc đời và vào sức mạnh thực tế của con người. Một quan niệm chỉ coi nghệ thuật là tặng vật của siêu nhiên, nghệ thuật là nơi để nghệ sĩ giãi bày tâm tưởng, nghệ thuật không có nhiệm vụ giải đáp các vấn đề thuộc mâu thuẫn cơ bản của thời đại.
2. Nguyên tắc sáng tác
2.1. Nguyên tắc 1: Chối từ thực tại
Xuất phát từ thái độ nguyền rủa thực tại, “tuyên bố mối thâm thù vĩnh viễn với thực tại” (Bêlinxki), nghệ sĩ lãng mạn tự cho mình đứng trên hoàn cảnh; do đó nghệ thuật này không xuất phát từ những yếu tố cơ bản của cuộc sống để xây dựng hình tượng, mà chủ yếu dựa vào ý muốn chủ quan của người nghệ sĩ để sáng tác các tính cách điển hình. Vì thế ngay trong tác phẳm của các nghệ sĩ lãng mạn tích cực, các chi tiết cụ thể, chân thực, lịch sử đều bị đẩy xuống bình diện thứ yếu, cốt lõi vẵn là vòng hào quang đầy chất huyền thoại được nghệ sĩ dụng công khoác vào nhân vật.
2.2. Nguyên tắc 2: Tự do bay lượn trong nghệ thuật
Tách mình ra khỏi cảnh đời thực, nghệ thuật lãng mạn tìm hình thức để cứu cánh cho mình. Vấn đề “tự do cá nhân”, “tự do sáng tác” là vấn đề bậc nhất chủa họ. Họ chối từ “đơn đặt hàng của xã hội”, chỉ nhận “đơn đặt hàng của trái tim”.
2.3. Nguyên tắc 3 : Điển hình hóa tâm trạng
Vì lấy cái tui nội cảm của mình để làm thước đo cho muôn vật, nghệ thuật lãng mạn tước mất vai trò nhận thức khách quan của nghệ thuật. Họ cho rằng nghệ thuật không phải là tam gương phản ánh đường đời, mà chỉ là phương tiện bộc lộ tâm trạng. Nếu chủ nghĩa cổ điển chủ trương hạn chế cảm hứng thì nghệ thuật lãng mạn lại vung tay cho cảm hứng đến mức tùy hứng. Họ nhấn mạnh tính khí chứ không phải chủ trương tìm mối quan hệ biện chứng giữa tính chất và hoàn cảnh. Như vậy họ đã tự thu hẹp tính cách nhân vật vào phạm vi của tâm trạng.
3. Phong cách sáng tác
Nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng về thủ pháp biểu hiện, rất phong phú về nhạc điệu, màu sắc, ngôn từ, rất dồi dào về tâm trạng chủ quan. chỉ nói đến tình, nghệ thuật lãng mạn có đủ sắc độ của tình :cái tình non, cái tình già, cái tình mới hé, cái tình thấp thoáng, cái tình mặn mà, cái tình nở hoa…Nói đến buồn cũng có đủ cung bậc : cái buồn man mác, cái buồn đìu hiu, cái buồn dĩ vãng, cái buồn tàn tạ, buồn lúc cảnh chiều tà, buồn lúc mưa gió, buồn lúc đêm thanh cảnh vắng…
Nghệ thuật lãng mạn có khuynh hướng chạy theo hình thức, không quan tâm đến hoàn cảnh thực, không nghiên cứu mâu thuẫn cơ bản của thời đại, phong cách của nghệ thuật lãng mạn trở nên gầy guộc, thiếu sức sống. Đề tài của nghệ thuật lãng mạn rất hẹp và thường bị lặp đi lặp lại. Chủ đề trừu tượng, nhận vật ước lệ : một khách chinh phu, một nàng chinh phụ, một tài tử, một giai nhân…
Để che láp cái gót ‘Asin’ của mình, nghệ thuật lãng mạn phải mượn cái ngoại lệ, cái tuyệt đối,cái cực đoan để rồi phóng đại lên. Víchto Huygô. Nói : “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Bởi thế các nhân vật trong văn họclãng mạn thường được lý tưởng hóa và khó thấy ở ngoài đời.
II. Quan niệm về thời gian trong nghệ thuật lãng mạn
Khác xa với văn học cổ điển, văn học lãng mạn không phải đề cao cái tinh thần duy lý. Mà nó chan chứa tình cảm của người nghệ sĩ. Ở đó cái tui được khẳng định. Thời gian trong văn học lãng mạn là thời gian chứa đựng cái không gian đầy chất mọng mơ, ảo tưởng và có thể coi là lý tưởng mà nhà thơ muốn chen chân tới. Đó có thể là thời gian của tương lai, nhưng chủ yếu vẫn là thời gian lùi về quá khứ. Họ dường như không tìm thấy một “thiên đường” nơi thực tại mà họ đang sống.
III. Thời gian trong thơ Mới (1932_1945)
1. Đôi nét về thơ Mới
Thơ Mới được dùng ở đây là để chỉ một dòng thơ xuất hiện từ những năm 1932_1945. Trước đây thơ Mới được gọi là thơ lãng mạn bởi muốn đối lập nó với thơ cách mạng, hay bởi chỉ nhìn thấy nó là thơ lãng mạn chứ không thấy sự vận động từ lãng mạn sang tượng trưng, và chớm siêu thực. Cũng có người muốn bảo vệ thơ Mới bằng cách nêu ra tính toàn dân của nó nên mở rộng khái niệm này, thâu nạp cả thơ “nước ngược” (hiện thực) của Tú Mỡ và thơ cách mạng của Tố Hữu.
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ mới những năm 1930-1945 là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái "tôi" của tác giả, thẩm mỹ hóa cái cuộc sống rối ren, tơi bời của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lõng giữa vòng đời.
Tính khuynh hướng của nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng, có khi lãng mạn, mộng mơ, ai ca, thần bí, anh hùng, triết học, cũng có khi lãng mạn anh hùng, lãng mạn công dân hay lãng mạn xã hội,... Nhưng nét bao trùm chủ nghĩa lãng mạn là mộng mơ. Các nhà thơ muốn thoát khỏi những điều kiện ngột ngạt của xã hội bảo hộ thời thơ mới bằng cách tưởng tượng, trốn vào trong cái thế giới vô cùng lý tưởng ấy. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, chỉ có cái gì khác thường, khác người, khác đời, và sự đối lập giữa mộng và thực là đáng kể. Trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa cái xã hội hủ lậu, ngột ngạt ấy thì sự đối lập là dễ hiểu.
Trong văn học thời kỳ này, thơ cũng như văn xuôi, cá nhân tự khẳng định, tự biểu hiện ra niềm vui, mơ ước, khát vọng. Cảm hứng sáng tác gắn liền với ý thức cá nhân; thơ mới là thơ của cái "tôi", một cái "tôi" chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái "tôi" bấy giờ không làm việc "tải đạo" nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định
Buồn, cô đơn là tâm trạng của một cá thể thi nhân nhưng lại là nét chung của các nhà thơ trong trường phái này. Đây không phải là một hiện tượng lạ mà do những nguyên nhân khách quan chung. Họ không biết phải làm gì, phải đi theo hướng nào giữa cái xã hội tan tác ấy. Họ cũng không chấp nhận được cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt như mọi người xung quanh. Do đó, họ cảm giác lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội.
Trong thơ mới có nhiều rạo rực, âu lo, có nhiều khát vọng một cách vội vã, căng thẳng, chính cái mới này đã quyết định sự ra đời của thơ mới.
2. Thời gian trong thơ Mới qua một số tác giả, tác phẩm
2.1. Thế Lữ _ người bộ hành phiêu lãng
Thế Lữ là người khởi điểm của những khởi điểm. Ông không chỉ là người khởi đầu, vị chủ tướng của phong trào thơ Mới, mà còn là người khai sơn, phá thạch cho nền kịch nói Việt Nam, cây bút đầu tiên, ở một số trường hợp đến nay còn là duy nhất, của một vài thể loại văn xuôi nghệ thuật, như tiểu thuyết trinh thám, truyện đường rừng, truyện khoa học… Nhưng không ở đâu cốt cách người đi tiên phong của Thế Lữ lại được bộc lộ đầy đủ như ở thơ Mới.
Nhân vật trữ tình Thế Lữ thường tồn tại song song hai trạng thái tinh thần này. Người khách chinh phu quyết trí ra đi bỏ lại sau lưng tiếng goị yêu thương (Tiếng gọi bên sông). Con người vơ vẩn lang thang trên đường phố trong tiếng pháo giao thừa. Người kĩ nữ tiễn khách đi rồi thì “thuyền chảy, trơ vơ đứng dưới sông”(Bên sông đưa khách).
Thế lữ về thể cách mới không một chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh. Đọc những câu như:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai cỏ sắc.
Đọc những câu ấy, không ai còn có quyền bĩu môi trước cuộc cách mệnh về thi ca đương nổi dậy, Cho đến những bài thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát của Thế lữ cũng khác hẳn xưa. Thế lữ làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch. Chữ dùng lại rất táo bạo. Đọc đôi bài, nhất là bài "Nhớ rừng", ta tưởng chừng những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.
Nhưng con người táo bạo ấy vẫn không nỡ lìa những giấc mơ mộng nên thơ của thời trước. Tuy ảnh hưởng thi ca Pháp về phái lãng mạn và nhất là ảnh hưởng tản văn Pháp đã khiến những mộng ấy có một ít hình dáng mới, ta vẫn có thể nhìn nhận dễ dàng cái di sản của lớp người vừa qua. Thế lữ cũng như phần đông thanh niên ta hồi trước hay buồn nản vẩn vơ.
Người muốn sông cuộc đời ẩn sĩ
Trăm năm theo dõi đám mây trôi
Người lưu luyến cảnh tiên trong tưởng tượng, phảng phất nghe tiếng sao tiên, mải mê nhìn những nàng tiên. Muốn gợi trí mơ tưởng cảnh tiên , người không cần chi nhiều. Đương đi giữa đường phố rộn rịp, bỗng trông thấy những cành đào cành mai là người đã
Bồng lai muôn thủa vườn xuân thắm,
Sán lại, u huyền, trong khói hương...
Đương cùng bầu bạn uống rượu, vừa ngà ngà say là người đã thoát trần bỏ bạn hữu ở lại để đi về chốn
Lung linh vàng đội cung Quỳnh
Nhịp nhàng biến hiện những mình Tiên nga.
Ở xứ ta từ khi có người nói chuyện tiên, nghĩa là từ khi có thi sĩ, chưa bao giờ ta thấy thế giới tiên có nhiều vẻ đẹp như thế. Phải chăng cõi tiên đã cùng cõi trần Âu hoá.
Nhưng làm tiên, làm ẩn sĩ hay làm chinh phu chỉ là chuyện mộng. Sự thực thì khi nhe tiếng ái ân réo rắt, chỉ có khách chinh phu" đi theo đuổi bước tương lai", còn thi nhân và chúng ta ở lại bên sông cùng thiếu nữ. Sự thực thì giấc mộng ẩn sĩ tan dần trong một căn phòng tại Hà Nội. Và nói cho đúng, thi nhân có lên tiên cũng chỉ để nói chuyện dưới trần. Những áo đào thiên tiên người thấy trong khi say thường phấp phới trên bờ hồ Hoàn Kiếm: tui muốn nói Thế lữ vẫn nặng lòng trần, Người say theo những cảnh đẹp của trần gian muôn hình muôn vẻ, từ
Cảnh vĩ đại sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ;
cho đến
Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay;
Người đã khéo tả hình sắc lại cũng khéo tả âm thanh. Những đoạn thơ tả cảnh, tả tiếng của Thế lữ thực không sao kể xiết. Ngay sau những bài không hay lắm, vẫn có nhiều cái rất thân tình, chẳng hạn như:
Sáng hôm nay, sương biếc toả mờ mờ
Như hương khói đượm đầu cau, mái rạ;
ánh hồng tía rắc ngọc châu trên lá,
Trời trong xanh, chân trời đỏ hây hây.
Nhưng trong "vườn trần gian" còn có gì thắm tươi hơn những thiếu nữ. Cho nên không biết bao nhiêu lần thi nhân tả người đẹp với những nét tinh tế, dịu dàng và âu yếm. Người thấy rõ:
Trên vầng trán ngây thơ, trong sáng
Vẩn vơ qua một áng hương buồn.
Người lặng nhìn:
Đôi mắt cô em như say, như đắm,
Như buồn in hình ảnh giấc mơ xa
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái
Và giưa vườn im, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rời
(Tiếng gió)
Trên cây đời, lá đã rụng, lìa cành; hao tuy còn ở trên cây, nhưng đang run sợ hãi. Lá và hoa đều là những âm điệu của phôi pha, nhưng nhấn vào đau, nốt nhạc nào, thì không chỉ thuộc vào ngón tay của nhà nghệ sĩ, mà còn thuộc vào cả thời đại. Thơ Tản Đà đã ngập những lá : lá thu, lá vàng, bóng lá, xác lá… Biểu tượng phôi pha của Xuân Diậu không phải là lá mà là hoa. Xuân Diệu là nhà thơ của lớp người mới, sự phôi pha còn đang dự cảm, sự thấy trước, biết trước là do dự tính khách quan của thời gian. Hoa là hiện tại, là sự đang sống chưa hết cái đời sống tự nhiên của nó. Sự tàn phai của một bông hoa gieo ấn tượng mạnh hơn : “Hơn một loại hoa đã rụng cành” _ Đây mùa thu tới ; “Bông hoa rứt cành rơi không tiếng/Chẳng hái mà hao cũng hết dần” _Ý thu. Và sau cùng là sự nạgc nhiên tự hỏi : “Ừ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi?” _Ý thu.
Mất thời gian là mất tất cả. Th gin không chỉ làm thay đổi khách thể mà còn làm thay đổi cả chủ thể nữa. Sự thay đổi của con người, từng phút, từng phút, sẽ làm nó mất tuổi trẻ và cuối cùng, là cái chết. Bởi vậy sống như thế nào là một điều rất quan trọng. Xuân Diệu cứ ở đời, bám riết lấy trần thế và níu kéo lấy cuộc sống mà chống lại thời gian:
Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi ở mãi mãi trong trần
Chân hóa rễ để hút màu dưới đất
Một quan niệm sống “dấn thân “,khoa học và thực dụng như vậy thật xa với truyền thống phương đông .Hẳn nó chỉ có thể được xây dựng trên nhận thức mới về thời gian .Và điều đó,một lần nữa , được trình bày bằng văn xuôi một cách rõ ràng “thời gian chỉ là sự cử động .Nếu tui đứng ,,nếu máu tui ngừng…thời gian của tui sẽ không còn nữa”(Thương vay-Trường ca ). Bởi vậy , để thời gian không mất đi ,con người phải không ngừng vận động,phải “lẫn với đời quay”.Chỉ có chế ngự được thời gian thì mới chế ngự được sự tàn phai của đường nét ,màu sắc , âm thanh và lòng người :
Đi mau !Trốn nét!Trốn màu !
Trốn hơi !Trốn tiếng !Trốn nhau !Trốn mình !
“Vội vàng “:là một triết lí sống ,là một ứng xử nghệ thuật của nhà thơ .Thế giới thơ Xuân Diệu đầy những từ ngữ giục giã ,vội vàng ,mau lên ,gấp …Bởi thi nhân e sợ lỡ làng ,muộn màng,không kịp , lỡ thì …
Mau với chứ ,vội vàng lên với chứ
Em ,em ơi ,tình non sắp già rồi .
Mau với chứ thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thàng xưa
Thơ Xuân Diệu là một sự thèm khát sự sống, ông ca ngợi mọi hình thái chứa giàu sự sống: mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu .
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Mặc dù vồ vập sự sống đến vậy ,nhưng biết sống với phút giây hiênj tại là rất khó ,bởi vì cái hiện tại tuy thực nhưng nó rất mỏng manh .Biểu dương hiện tại và biết dồn nén thời gian vào hiện tại ,Xuân Diệu viết :
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Lúc này cái thời gian khách quan đo đếm được bằng máy móc không tồn tại mà chuyển qua thời gian của cảm giác và tâm trạng . Đó là thứ thời gian tâm linh ,không có quá khứ ,hiện tại ,tương lai ,khoảnh khắc ,thiên thu . Đó là nỗ lực phi thời gian hóa của con người trên chính thời gian ..
Thơ Xuân Diệu là một thế giới rộng mở, đa âm. Trong bản giao hưởng âm thanh này nổi lên những giai âm như mùa thu :sự thức nhận thời gian ;vội vàng:một ứng xử với thời gian, một triết lí thời gian; gửi hương cho gió :Tình yêu như sự chiến thắng thời gian; và sau cùng Thơ thơ nghệ thuật như là sự vĩnh cửu hóa thời gian. Trong bài thơ, từng giai đoạn thơ ,những âm giai này thay nhau nổi lên làm chủ âm khiến cho toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu vừa phong phú, đa dạng, vừa xuyên suốt, nhất quán .
PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Thời gian trong thơ Mới mở rộng về cả chiều sâu và độ dài. Nó không chỉ là khắc hoạ những thời điểm thời gian đơn thuần mà nó thực sự là một hình tượng nghệ thuật được khái quát hóa một cách có dụng ý. Theo đó mà với mỗi thi sĩ thì quan niệm về thời gian của họ khác nhau. Người thì ngoái lại quá khứ_quá khứ êm đẹp và thơ mộng với những tình cảm, con người và hình ảnh hồn hậu, thân yêu. Có người lại yêu tha thiết thực tại, bởi đó chính là nơi chứa đựng thiên đường của cuộc sống… Nhưng cho dù ở thời điểm nào thì thời gian trong thơ Mới đã tạo nét riêng biệt, một hình tượng còn nhiều điều mà giới phê bình còn phải bàn luận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức (Chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục năm 2006
2. Đào Duy Hiệp, Niêm biểu vụ Dreyfus trong đi tìm thời gian đã mất, số 10. 2004, nghiên cứu văn học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
3. Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ – Phê bình phong cách thơ mới, NXB văn hóa thông tin, năm 2000
4. Nhiều tác giả, thơ mới (1932 – 1945), NXB văn học, năm 2006
MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. Đôi nét về nghệ thuật lãng mạn, phương pháp lãng mạn 2
1. Tư tưởng sáng tạo 2
2. Nguyên tắc sáng tác 3
3. Phong cách sáng tác 4
II. Quan niệm về thời gian trong nghệ thuật lãng mạn 4
III. Thời gian trong thơ Mới (1932_1945) 4
1. Đôi nét về thơ Mới 4
2. Thời gian trong thơ Mới qua một số tác giả, tác phẩm 6
PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Nếu nghệ thuật cổ điển là sự hòa hoãn giữa tư sản và đại quý tộc phong kiến, thì nghệ thuật lãng mạn là sản phẩm của sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến.
Nghệ thuật lãng mạn là nét đặc trưng của văn học lãng mạn. Nó đi tìm cái đẹp đầy chất mộng tưởng, một thế giới khác với thực tại. Đó là thế giới rất riêng của người nghệ sĩ mà được coi như là một thế giới lý tưởng. Vấn đề thời gian đã được đặt ra trong nghệ thuật lãng mạn một cách nghiêm túc.
Thơ Mới (1932_1945) lâu nay thường được coi như một chiếc nấm lạ trên cây gia hệ văn học dân tộc. Đó là mảnh đất của nhưng tâm hồn khao khát yêu, khao khát sống như Xuân Diệu; là tiếng trở mình thương yêu làng quê Việt Nam của Nguyễn Bính; là nơi cái tui được bộc bạch mãnh mẽ và hết mình nhất… Người nghệ sĩ luôn đi tìm cho mình mảnh đất để gieo vần cảm xúc. Thời gian trong qua khứ đã được phần lớn nhà thơ lựa chọn.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Đôi nét về nghệ thuật lãng mạn, phương pháp lãng mạn
1. Tư tưởng sáng tạo
Mở đầu cho lí thuyết lãng mạn thế giới, Căng_nhà mĩ học Đức cuối thế kỉ XVIII tuyên bố: “Vẻ đẹp không ơphải ở đôi má hông cô thiếu nữ, mà trong con mắt kẻ si tình”. Víchto Huygô trong lời tựa của vở kịch đầu tay Hécnani công khai rằng: “Nghệ thuật không đi giày đỏ, đội mũ đỏ”, nghĩa là nghệ thuật chỉ đi tìm cái tự do cho nghệ thuật, nghệ thuật không liên quan đến chính trị.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, Hoài Thanh cho rằng: Nghệ thuật chỉ vì nghệ thuật, “nghệ thuật không vị nhân sinh”.Thi sĩ gác ra ngoài tất cả, chỉ cần một mối tình si:
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi
tui chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể
(Thế Lữ)
Thời trung cổ, mỗi kị sĩ quý tộc đều lấy hình bóng của một nàng để cho trái tim mình tôn thờ, để cho nghiệp cung kiếm của mình có thêm phần ý nghĩa. Việc làm thơ của thi sĩ lãng mạn cũng có chung một lý do tương tự :
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời nha đau khổ
Ai bảo em ngồi bên của sổ
Cho anh vương vấn nợ thi nhân
(Lưu Trọng Lư)
Trong tác phẩm văn xuôi của Khái Hưng, cuốn Đẹp, nhân vật Nam họa sĩ chỉ thấy cái đẹp trong mộng ước mới là cái đẹp vĩnh cửu, cái gì đã trong tầm tay là tan biến mọi vẻ đẹp. Vì thế Bêlinxki có lí khi viết: Ở nền nghệ thuật này, “đối tượng tự nó không có giá trị, mà tùy thuộc vào chủ đề gán cho nó”. Lép Tônxtôi, cũng đã có lần nói với Gorki: “chủ nghĩa lãng mạn là do sợ nhìn thẳng sự thật mà ra”.
Như vậy tư tưởng sáng tạo nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn là một tư tưởng dựa trên chủ nghĩa duy tâm chủ quan, và một thái độ ít gửi gắm hi vọng nhất vào cuộc đời và vào sức mạnh thực tế của con người. Một quan niệm chỉ coi nghệ thuật là tặng vật của siêu nhiên, nghệ thuật là nơi để nghệ sĩ giãi bày tâm tưởng, nghệ thuật không có nhiệm vụ giải đáp các vấn đề thuộc mâu thuẫn cơ bản của thời đại.
2. Nguyên tắc sáng tác
2.1. Nguyên tắc 1: Chối từ thực tại
Xuất phát từ thái độ nguyền rủa thực tại, “tuyên bố mối thâm thù vĩnh viễn với thực tại” (Bêlinxki), nghệ sĩ lãng mạn tự cho mình đứng trên hoàn cảnh; do đó nghệ thuật này không xuất phát từ những yếu tố cơ bản của cuộc sống để xây dựng hình tượng, mà chủ yếu dựa vào ý muốn chủ quan của người nghệ sĩ để sáng tác các tính cách điển hình. Vì thế ngay trong tác phẳm của các nghệ sĩ lãng mạn tích cực, các chi tiết cụ thể, chân thực, lịch sử đều bị đẩy xuống bình diện thứ yếu, cốt lõi vẵn là vòng hào quang đầy chất huyền thoại được nghệ sĩ dụng công khoác vào nhân vật.
2.2. Nguyên tắc 2: Tự do bay lượn trong nghệ thuật
Tách mình ra khỏi cảnh đời thực, nghệ thuật lãng mạn tìm hình thức để cứu cánh cho mình. Vấn đề “tự do cá nhân”, “tự do sáng tác” là vấn đề bậc nhất chủa họ. Họ chối từ “đơn đặt hàng của xã hội”, chỉ nhận “đơn đặt hàng của trái tim”.
2.3. Nguyên tắc 3 : Điển hình hóa tâm trạng
Vì lấy cái tui nội cảm của mình để làm thước đo cho muôn vật, nghệ thuật lãng mạn tước mất vai trò nhận thức khách quan của nghệ thuật. Họ cho rằng nghệ thuật không phải là tam gương phản ánh đường đời, mà chỉ là phương tiện bộc lộ tâm trạng. Nếu chủ nghĩa cổ điển chủ trương hạn chế cảm hứng thì nghệ thuật lãng mạn lại vung tay cho cảm hứng đến mức tùy hứng. Họ nhấn mạnh tính khí chứ không phải chủ trương tìm mối quan hệ biện chứng giữa tính chất và hoàn cảnh. Như vậy họ đã tự thu hẹp tính cách nhân vật vào phạm vi của tâm trạng.
3. Phong cách sáng tác
Nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng về thủ pháp biểu hiện, rất phong phú về nhạc điệu, màu sắc, ngôn từ, rất dồi dào về tâm trạng chủ quan. chỉ nói đến tình, nghệ thuật lãng mạn có đủ sắc độ của tình :cái tình non, cái tình già, cái tình mới hé, cái tình thấp thoáng, cái tình mặn mà, cái tình nở hoa…Nói đến buồn cũng có đủ cung bậc : cái buồn man mác, cái buồn đìu hiu, cái buồn dĩ vãng, cái buồn tàn tạ, buồn lúc cảnh chiều tà, buồn lúc mưa gió, buồn lúc đêm thanh cảnh vắng…
Nghệ thuật lãng mạn có khuynh hướng chạy theo hình thức, không quan tâm đến hoàn cảnh thực, không nghiên cứu mâu thuẫn cơ bản của thời đại, phong cách của nghệ thuật lãng mạn trở nên gầy guộc, thiếu sức sống. Đề tài của nghệ thuật lãng mạn rất hẹp và thường bị lặp đi lặp lại. Chủ đề trừu tượng, nhận vật ước lệ : một khách chinh phu, một nàng chinh phụ, một tài tử, một giai nhân…
Để che láp cái gót ‘Asin’ của mình, nghệ thuật lãng mạn phải mượn cái ngoại lệ, cái tuyệt đối,cái cực đoan để rồi phóng đại lên. Víchto Huygô. Nói : “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Bởi thế các nhân vật trong văn họclãng mạn thường được lý tưởng hóa và khó thấy ở ngoài đời.
II. Quan niệm về thời gian trong nghệ thuật lãng mạn
Khác xa với văn học cổ điển, văn học lãng mạn không phải đề cao cái tinh thần duy lý. Mà nó chan chứa tình cảm của người nghệ sĩ. Ở đó cái tui được khẳng định. Thời gian trong văn học lãng mạn là thời gian chứa đựng cái không gian đầy chất mọng mơ, ảo tưởng và có thể coi là lý tưởng mà nhà thơ muốn chen chân tới. Đó có thể là thời gian của tương lai, nhưng chủ yếu vẫn là thời gian lùi về quá khứ. Họ dường như không tìm thấy một “thiên đường” nơi thực tại mà họ đang sống.
III. Thời gian trong thơ Mới (1932_1945)
1. Đôi nét về thơ Mới
Thơ Mới được dùng ở đây là để chỉ một dòng thơ xuất hiện từ những năm 1932_1945. Trước đây thơ Mới được gọi là thơ lãng mạn bởi muốn đối lập nó với thơ cách mạng, hay bởi chỉ nhìn thấy nó là thơ lãng mạn chứ không thấy sự vận động từ lãng mạn sang tượng trưng, và chớm siêu thực. Cũng có người muốn bảo vệ thơ Mới bằng cách nêu ra tính toàn dân của nó nên mở rộng khái niệm này, thâu nạp cả thơ “nước ngược” (hiện thực) của Tú Mỡ và thơ cách mạng của Tố Hữu.
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ mới những năm 1930-1945 là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái "tôi" của tác giả, thẩm mỹ hóa cái cuộc sống rối ren, tơi bời của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lõng giữa vòng đời.
Tính khuynh hướng của nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng, có khi lãng mạn, mộng mơ, ai ca, thần bí, anh hùng, triết học, cũng có khi lãng mạn anh hùng, lãng mạn công dân hay lãng mạn xã hội,... Nhưng nét bao trùm chủ nghĩa lãng mạn là mộng mơ. Các nhà thơ muốn thoát khỏi những điều kiện ngột ngạt của xã hội bảo hộ thời thơ mới bằng cách tưởng tượng, trốn vào trong cái thế giới vô cùng lý tưởng ấy. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, chỉ có cái gì khác thường, khác người, khác đời, và sự đối lập giữa mộng và thực là đáng kể. Trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa cái xã hội hủ lậu, ngột ngạt ấy thì sự đối lập là dễ hiểu.
Trong văn học thời kỳ này, thơ cũng như văn xuôi, cá nhân tự khẳng định, tự biểu hiện ra niềm vui, mơ ước, khát vọng. Cảm hứng sáng tác gắn liền với ý thức cá nhân; thơ mới là thơ của cái "tôi", một cái "tôi" chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái "tôi" bấy giờ không làm việc "tải đạo" nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định
Buồn, cô đơn là tâm trạng của một cá thể thi nhân nhưng lại là nét chung của các nhà thơ trong trường phái này. Đây không phải là một hiện tượng lạ mà do những nguyên nhân khách quan chung. Họ không biết phải làm gì, phải đi theo hướng nào giữa cái xã hội tan tác ấy. Họ cũng không chấp nhận được cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt như mọi người xung quanh. Do đó, họ cảm giác lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội.
Trong thơ mới có nhiều rạo rực, âu lo, có nhiều khát vọng một cách vội vã, căng thẳng, chính cái mới này đã quyết định sự ra đời của thơ mới.
2. Thời gian trong thơ Mới qua một số tác giả, tác phẩm
2.1. Thế Lữ _ người bộ hành phiêu lãng
Thế Lữ là người khởi điểm của những khởi điểm. Ông không chỉ là người khởi đầu, vị chủ tướng của phong trào thơ Mới, mà còn là người khai sơn, phá thạch cho nền kịch nói Việt Nam, cây bút đầu tiên, ở một số trường hợp đến nay còn là duy nhất, của một vài thể loại văn xuôi nghệ thuật, như tiểu thuyết trinh thám, truyện đường rừng, truyện khoa học… Nhưng không ở đâu cốt cách người đi tiên phong của Thế Lữ lại được bộc lộ đầy đủ như ở thơ Mới.
Nhân vật trữ tình Thế Lữ thường tồn tại song song hai trạng thái tinh thần này. Người khách chinh phu quyết trí ra đi bỏ lại sau lưng tiếng goị yêu thương (Tiếng gọi bên sông). Con người vơ vẩn lang thang trên đường phố trong tiếng pháo giao thừa. Người kĩ nữ tiễn khách đi rồi thì “thuyền chảy, trơ vơ đứng dưới sông”(Bên sông đưa khách).
Thế lữ về thể cách mới không một chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh. Đọc những câu như:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai cỏ sắc.
Đọc những câu ấy, không ai còn có quyền bĩu môi trước cuộc cách mệnh về thi ca đương nổi dậy, Cho đến những bài thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát của Thế lữ cũng khác hẳn xưa. Thế lữ làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch. Chữ dùng lại rất táo bạo. Đọc đôi bài, nhất là bài "Nhớ rừng", ta tưởng chừng những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.
Nhưng con người táo bạo ấy vẫn không nỡ lìa những giấc mơ mộng nên thơ của thời trước. Tuy ảnh hưởng thi ca Pháp về phái lãng mạn và nhất là ảnh hưởng tản văn Pháp đã khiến những mộng ấy có một ít hình dáng mới, ta vẫn có thể nhìn nhận dễ dàng cái di sản của lớp người vừa qua. Thế lữ cũng như phần đông thanh niên ta hồi trước hay buồn nản vẩn vơ.
Người muốn sông cuộc đời ẩn sĩ
Trăm năm theo dõi đám mây trôi
Người lưu luyến cảnh tiên trong tưởng tượng, phảng phất nghe tiếng sao tiên, mải mê nhìn những nàng tiên. Muốn gợi trí mơ tưởng cảnh tiên , người không cần chi nhiều. Đương đi giữa đường phố rộn rịp, bỗng trông thấy những cành đào cành mai là người đã
Bồng lai muôn thủa vườn xuân thắm,
Sán lại, u huyền, trong khói hương...
Đương cùng bầu bạn uống rượu, vừa ngà ngà say là người đã thoát trần bỏ bạn hữu ở lại để đi về chốn
Lung linh vàng đội cung Quỳnh
Nhịp nhàng biến hiện những mình Tiên nga.
Ở xứ ta từ khi có người nói chuyện tiên, nghĩa là từ khi có thi sĩ, chưa bao giờ ta thấy thế giới tiên có nhiều vẻ đẹp như thế. Phải chăng cõi tiên đã cùng cõi trần Âu hoá.
Nhưng làm tiên, làm ẩn sĩ hay làm chinh phu chỉ là chuyện mộng. Sự thực thì khi nhe tiếng ái ân réo rắt, chỉ có khách chinh phu" đi theo đuổi bước tương lai", còn thi nhân và chúng ta ở lại bên sông cùng thiếu nữ. Sự thực thì giấc mộng ẩn sĩ tan dần trong một căn phòng tại Hà Nội. Và nói cho đúng, thi nhân có lên tiên cũng chỉ để nói chuyện dưới trần. Những áo đào thiên tiên người thấy trong khi say thường phấp phới trên bờ hồ Hoàn Kiếm: tui muốn nói Thế lữ vẫn nặng lòng trần, Người say theo những cảnh đẹp của trần gian muôn hình muôn vẻ, từ
Cảnh vĩ đại sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ;
cho đến
Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay;
Người đã khéo tả hình sắc lại cũng khéo tả âm thanh. Những đoạn thơ tả cảnh, tả tiếng của Thế lữ thực không sao kể xiết. Ngay sau những bài không hay lắm, vẫn có nhiều cái rất thân tình, chẳng hạn như:
Sáng hôm nay, sương biếc toả mờ mờ
Như hương khói đượm đầu cau, mái rạ;
ánh hồng tía rắc ngọc châu trên lá,
Trời trong xanh, chân trời đỏ hây hây.
Nhưng trong "vườn trần gian" còn có gì thắm tươi hơn những thiếu nữ. Cho nên không biết bao nhiêu lần thi nhân tả người đẹp với những nét tinh tế, dịu dàng và âu yếm. Người thấy rõ:
Trên vầng trán ngây thơ, trong sáng
Vẩn vơ qua một áng hương buồn.
Người lặng nhìn:
Đôi mắt cô em như say, như đắm,
Như buồn in hình ảnh giấc mơ xa
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái
Và giưa vườn im, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rời
(Tiếng gió)
Trên cây đời, lá đã rụng, lìa cành; hao tuy còn ở trên cây, nhưng đang run sợ hãi. Lá và hoa đều là những âm điệu của phôi pha, nhưng nhấn vào đau, nốt nhạc nào, thì không chỉ thuộc vào ngón tay của nhà nghệ sĩ, mà còn thuộc vào cả thời đại. Thơ Tản Đà đã ngập những lá : lá thu, lá vàng, bóng lá, xác lá… Biểu tượng phôi pha của Xuân Diậu không phải là lá mà là hoa. Xuân Diệu là nhà thơ của lớp người mới, sự phôi pha còn đang dự cảm, sự thấy trước, biết trước là do dự tính khách quan của thời gian. Hoa là hiện tại, là sự đang sống chưa hết cái đời sống tự nhiên của nó. Sự tàn phai của một bông hoa gieo ấn tượng mạnh hơn : “Hơn một loại hoa đã rụng cành” _ Đây mùa thu tới ; “Bông hoa rứt cành rơi không tiếng/Chẳng hái mà hao cũng hết dần” _Ý thu. Và sau cùng là sự nạgc nhiên tự hỏi : “Ừ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi?” _Ý thu.
Mất thời gian là mất tất cả. Th gin không chỉ làm thay đổi khách thể mà còn làm thay đổi cả chủ thể nữa. Sự thay đổi của con người, từng phút, từng phút, sẽ làm nó mất tuổi trẻ và cuối cùng, là cái chết. Bởi vậy sống như thế nào là một điều rất quan trọng. Xuân Diệu cứ ở đời, bám riết lấy trần thế và níu kéo lấy cuộc sống mà chống lại thời gian:
Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi ở mãi mãi trong trần
Chân hóa rễ để hút màu dưới đất
Một quan niệm sống “dấn thân “,khoa học và thực dụng như vậy thật xa với truyền thống phương đông .Hẳn nó chỉ có thể được xây dựng trên nhận thức mới về thời gian .Và điều đó,một lần nữa , được trình bày bằng văn xuôi một cách rõ ràng “thời gian chỉ là sự cử động .Nếu tui đứng ,,nếu máu tui ngừng…thời gian của tui sẽ không còn nữa”(Thương vay-Trường ca ). Bởi vậy , để thời gian không mất đi ,con người phải không ngừng vận động,phải “lẫn với đời quay”.Chỉ có chế ngự được thời gian thì mới chế ngự được sự tàn phai của đường nét ,màu sắc , âm thanh và lòng người :
Đi mau !Trốn nét!Trốn màu !
Trốn hơi !Trốn tiếng !Trốn nhau !Trốn mình !
“Vội vàng “:là một triết lí sống ,là một ứng xử nghệ thuật của nhà thơ .Thế giới thơ Xuân Diệu đầy những từ ngữ giục giã ,vội vàng ,mau lên ,gấp …Bởi thi nhân e sợ lỡ làng ,muộn màng,không kịp , lỡ thì …
Mau với chứ ,vội vàng lên với chứ
Em ,em ơi ,tình non sắp già rồi .
Mau với chứ thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thàng xưa
Thơ Xuân Diệu là một sự thèm khát sự sống, ông ca ngợi mọi hình thái chứa giàu sự sống: mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu .
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Mặc dù vồ vập sự sống đến vậy ,nhưng biết sống với phút giây hiênj tại là rất khó ,bởi vì cái hiện tại tuy thực nhưng nó rất mỏng manh .Biểu dương hiện tại và biết dồn nén thời gian vào hiện tại ,Xuân Diệu viết :
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Lúc này cái thời gian khách quan đo đếm được bằng máy móc không tồn tại mà chuyển qua thời gian của cảm giác và tâm trạng . Đó là thứ thời gian tâm linh ,không có quá khứ ,hiện tại ,tương lai ,khoảnh khắc ,thiên thu . Đó là nỗ lực phi thời gian hóa của con người trên chính thời gian ..
Thơ Xuân Diệu là một thế giới rộng mở, đa âm. Trong bản giao hưởng âm thanh này nổi lên những giai âm như mùa thu :sự thức nhận thời gian ;vội vàng:một ứng xử với thời gian, một triết lí thời gian; gửi hương cho gió :Tình yêu như sự chiến thắng thời gian; và sau cùng Thơ thơ nghệ thuật như là sự vĩnh cửu hóa thời gian. Trong bài thơ, từng giai đoạn thơ ,những âm giai này thay nhau nổi lên làm chủ âm khiến cho toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu vừa phong phú, đa dạng, vừa xuyên suốt, nhất quán .
PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Thời gian trong thơ Mới mở rộng về cả chiều sâu và độ dài. Nó không chỉ là khắc hoạ những thời điểm thời gian đơn thuần mà nó thực sự là một hình tượng nghệ thuật được khái quát hóa một cách có dụng ý. Theo đó mà với mỗi thi sĩ thì quan niệm về thời gian của họ khác nhau. Người thì ngoái lại quá khứ_quá khứ êm đẹp và thơ mộng với những tình cảm, con người và hình ảnh hồn hậu, thân yêu. Có người lại yêu tha thiết thực tại, bởi đó chính là nơi chứa đựng thiên đường của cuộc sống… Nhưng cho dù ở thời điểm nào thì thời gian trong thơ Mới đã tạo nét riêng biệt, một hình tượng còn nhiều điều mà giới phê bình còn phải bàn luận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức (Chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục năm 2006
2. Đào Duy Hiệp, Niêm biểu vụ Dreyfus trong đi tìm thời gian đã mất, số 10. 2004, nghiên cứu văn học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
3. Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ – Phê bình phong cách thơ mới, NXB văn hóa thông tin, năm 2000
4. Nhiều tác giả, thơ mới (1932 – 1945), NXB văn học, năm 2006
MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. Đôi nét về nghệ thuật lãng mạn, phương pháp lãng mạn 2
1. Tư tưởng sáng tạo 2
2. Nguyên tắc sáng tác 3
3. Phong cách sáng tác 4
II. Quan niệm về thời gian trong nghệ thuật lãng mạn 4
III. Thời gian trong thơ Mới (1932_1945) 4
1. Đôi nét về thơ Mới 4
2. Thời gian trong thơ Mới qua một số tác giả, tác phẩm 6
PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: