Download Tiểu luận Toàn cảnh thị trường chứng khoán miễn phí
· Mức sinh lợi là số phần trăm có được khi so tiền lãi được hưởng với số tiền đã bỏ ra để mua trái phiếu ấy ( dù có là bao nhiêu thì lúc được trả gốc vẫn nhận tiền theo mệnh giá. Nếu LSNT được căn cứ trên mệnh giá, thì mức sinh lợi lạidựa vào thực giá. Nếu LSNT được căn cứ trên mệnh giá, thì mức sinh lợi lại dựa vào thực giá, là cái giá thực sự trả khi mua bán trái phiếu. Ví dụ nếu bạn bỏ ra 1.000$ cho một công ty vay với LSNT 8% một năm, vậy bạn có – hay đã mua – một trái phiếu (mà người ta sẽ viết là
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
ưa ra; khi đã đăng kí với UBGDCK thì họ được phép bán. Công ty sẽ bán cho một nơi mua sỉ để cho tiện khi đưa bán cũng như lúc lấy tiền về. Công ty “mua sỉ” là công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán. Sự mua bán giữa hai nơi này tạo nên thị trường sơ cấp, giống như chợ đầu mối.Khi công ty “mua sỉ” đem bán lẻ chứng khoán cho công chúng, thị hai người này tạo ra một thị trường thứ hai, gọi là thị trường thứ cấp, giống như mua bán lẻ.
Hai thị trường này ăn thông với nhau mới tạo nên TTCK, nếu chỉ có chợ sơ cấp không thôi, như ở ta hiện nay chua có TTCK.
Mua bán theo phẩm chất hàng hoá.
Công ty bán chứng khoán có cái to cái nhỏ; cho nên chứng khoán của họ cũng được phân loại theo sức mạnh của công ty. Chứng khoán của các công ty lớn, hội đủ một số điều kiện nào đó, sẽ được bán ở một khu vực rộng rãi, phố xá đông người, gọi là các sàn giao dịch. Nghị định về chứng khoán của ta gọi là “thị trường giao dịch tập trung”hay còn gọi là mua bán trên sàn hay sàn giao dịch.
Mua bán theo tính chất món hàng.
Huy động vốn thì không chỉ công ty mới làm, mà cả chính quyền các cấp cũng làm nữa. So với công ty, khả năng trả nợ của chính quyền chắc chắn hơn, do đó ràng buộc về trả nợ dành cho công ty kgông được áp dụng cho chính quyền. Vì thế, công trái của chính quyền được bán ở một chợ khác, thường là các ngân hàng thương mại. Sự việc này tạo ra một chợ riêng bán công trái do ngân hàng phát hành.
Nguyên tắc hoạt động của chợ.
Thị trường sơ cấp phải giải quyết hết tất cả các vấn đề của việc vay nợ và hùn vốn; là những thứ luôn luôn có rủi ro. Muốn tránh rủi ro, người ta phải thu thập tin tức, ký hợp đồng với các con nợ, và kiểm soát sự hoạt động của hợp đồng đó. Việc này sẽ do một công ty hay người bảo lãnh phát hành chứng khoán làm. Họ sẽ thảo luận với các công ty muốn bán chứng khoán về các đuều kiện của hợp đồng. Khi hợp đồng được thực hiện thì các công ty được uỷ nhiệm kiểm soát việc con nợ thực hiện hợp đồng.
Chợ thứ cấp bán chứng khoán là nơi công ty bảo lãnh phát hành bán lại chứng khoán cho công chúng. Chợ này – như đã biết – do các người môi giới lập.
Chợ thứ cấp phải thực hiện ba chức năng:
Một là: khai mở, hay xác định một giá công bằng cho việc mua hay bán chứng khoán.
Hai là: gíúp cho việc mua hay bán chứng khoán theo các giá kia được diễn ra nhanh chóng dễ dàng, tức là tạo ra thanh khoản.
Ba là: giúp cho việc giao dịch ít tốn kém.
Xác định một giá công bằng.
Chứng khoán tiêu biểu cho lời hứa của công ty phát hành là họ sẽ trả lại số tiền đã nhận cùng với lãi suất sau này. Gía trị của lời hứa đó tuỳ từng trường hợp vào sự mong đợi của người đã bỏ tiền ra và vào sự đánh giá các rủi ro liên quan đến sự trả nợ. Hai cái này lại chi phối bởi các thông tin có sẳn ở những chỗ nhất định (báo chí, cơ sở, nơi mua bán) và bởi kết luận mà người bỏ tiền rút ra từ các thông tin ấy. Cùng một loại thông tin, nhưng những người khác nhau sẽ có những kết luận cho mình khác nhau.
Một giá cả công bằng cho chứng khoán là một phí tổn thấp nhất mà những người hiểu biết thông tin sẳn sàng trả khi mua bán chứng khoán. Một phí tổn thấp nhất cho người bán là số tiền cao nhất họ đòi được. Còn phí tổn thấp nhất cho người mua lại laà số tiền nhỏ nhất mà họ phải trả.
Khai mở cái giá kia là một diễn trình làm giá hay tạo giá. Ở mỗi loại thị trường diễn trình đó khác nhau.
Tạo ra hay có sẵn thanh khoản.
Từ “thanh khoản” ở đây có thể nói như một thị trường có khả năng tạo thanh khoản là nơi mà ở đó bất cứ ai cũng có thể mua bán nhanh chóng mà không bị thua thiệt. Ví dụ, khi bạn muốn mua chứng khoán của một công ty, ở một nơi nào, vào bất kỳ lúc nào theo cái giá công bằng, mà nơi đó có thể mua rồi trả tiền cho bạn ngay thì đó là một thị trường có thanh khoản cao. Nếu phải lâu bạn mới bán được hay phải “lót tay” mới bán được thì đó không có thanh khoản hay thanh khoản thấp.
Để có thanh khoản, TTCK sẽ áp dụng công nghệ bù qua sớt (thnh toán bù trừ). Nếu số người bán cao hơn số người mua khiến có sự mất thăng bằng về thanh khoản, thì TTCK cũng phải có khả năng giống như ngân hàng để bù đắp sự chênh lệch kia.
Cốt lõi của TTCK là sự trao đổi. Muốn trao đổi phải có sự đồng ý về điều kiện mua bán, về sự thực hiện cái đã đồng ý (tức là sự hiện thực)và rồi thanh toán. Khi làm hai việc sau thì cũng có tốn kém và rũi ro (ví dụ, người bán nhận bán nhưng không giao hàng khiến người mua phải đi tìm hàng thay thế; người mua không trả tiền làm người bán kẹt vốn...). chi phí thực hiện phải thấp thì buôn bán mới dễ dàng, nhờ đó TTCK mới thực hiện được các chức năng của nó. Muốn thế, thị trường phải có tổ chức, nghĩa là có bốn đặc tính sau.
Hạn chế gia nhập và có nội qui hoạt động.
Người mua bán chứng có thể lên đến hàng trăm hàng ngàn mỗi ngày. Một số đông như thế giao dịch với nhau thì phải biết nhau và phải tin rằng những người mà họ giao dịch là những người đáng tin cậy. Nếu không, thì ai cũng sẽ bị “sưu tra lý lịch” trước khi tham gia. Nếu việc đó xảy ra, ta sẽ thấy ngay là không có mua bán nữa.
Một cách để tránh tình trạng này là chọng lọc để giới hạn sự gia nhập. Trong TTCK, chỉ có những người được phép mới được vào chợ trên sàn. Đó là những người mua giới. Tất cả những người khác chỉ có thể mua bán với nhau qua những người nàt. Để trở thành người mua giới, đương sự phải hội đủ một số điều kiện về vốn liếng, tiêu chuẩn kế toán chuyên môn và đạo đức. Và để cho chặt chẽ hơn, các hội viên phải đặt ra nội qui hành nghề; để cho những ai vi phạm sẽ bị phạt tiền hay bị sa thải.
Nhờ những biện pháp trên, nên khi người đầu tư ra lệnh mua bán, họ mới dám tin tưởng người mình giao dịch và điều này làm cho chi phí giảm nhiều. Niềm tin làm giảm bớt giấy tờ và tốn kém.
Tiêu chuẩn hóa
Việc giao dịch ở chợ phải được tiêu chuẩn hóa và đơn giản hóa. Thí dụ, các chứng khoán được xếp theo từng lố 100 hay 1000 cổ phần; rồi các thủ tục thống nhất về chuyển giao hàng và thanh toán tiền.
Sự tiêu chuẩn hóa làm cho việc mua bán được đơn giản. Người mua và bán chỉ cần đồng ý với nhau về giá hàng và số lượng; tất cả các vấn đề kghác của việc mua bán thì hai bên đã biết, không cần bàn bạc nữa. Tiêu chuẩn hóa còn làm giảm các trường hợp hai bên hiểu khác nhau về tính chất của sự giao dịch.
Giải quyết tranh chấp
Dù đã tạo ra những tập tục trên thì tranh chấp vẫn xảy ra. Giải quyết chuyện đó sẽ mất thời giờ và tiền bạc. Chợ có tổ chức sẽ làm giảm chi phí kia bằng cách đề ra một khuôn khổ cho việc giải quyết tranh chấp. Giải quyết riêng tư với nhau sẽ rẽ hơn nhiều so với việc đưa nhau ra hầu tòa.
Bảo đảm thi hành
Giao dịch bằng cách nào thì cũng có những rắc rối không luờng trưốc được; đó là rủi ro, và chúng rất khác nhau. Mua bán thì bao giờ cũng có hai người, nếu chỉ đưa ra các biện pháp để bảo vệ một người thì việc mua bán trở nên tốn kém vì ngư