hehhe

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Chương 1: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO 7
1.1. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với dân 8
1.2. Đường lối trị nước 15
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 30
2.1. Đối với chính trị 31
2.2. Đối với kinh tế 47
2.3. Đối với đạo đức 56
2.4. Đối với gia đình và giáo dục 62
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM KHAI THÁC NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC VÀ LOẠI BỎ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 75
3.1. Giải pháp về nhận thức 75
3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện 80
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
Việc quản lý theo kế hoạch, tập trung cao độ của bộ máy nhà nước bằng việc
bắt buộc mọi thành viên của xã hội tuân thủ những nguyên tắc, những quy định cưỡng
ép, gò bó, không những không đạt hiệu quả mà còn loại trừ sự năng động sáng tạo của
quần chúng. Lối quản lý tập trung này cho phép cấp trên can thiệp sâu, trực tiếp vào
những công việc cụ thể của cấp dưới và buộc cấp dưới phải có nghĩa vụ "phục tùng".
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, sự tự chủ của các đơn vị, cơ sở là điều kiện đảm
bảo phát huy sự năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, nhưng việc nhà nước can thiệp
quá mức vào hoạt động của các doanh nghiệp không những không cần thiết mà còn bó
tay họ. Trong khi đó có nhiều công việc nhà nước cần nắm giữ thì không nắm. Chẳng
hạn việc xây dựng hệ thống pháp luật là nhiệm vụ của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời
và còn không ít những sơ hở. hay sự tùy tiện ban hành những quy định vượt quá thẩm
quyền và trái với tinh thần pháp luật nhà nước ở một số địa phương, ở các ngành các
cấp là không ít. Đó là tình trạng buôn lậu, xuất nhập khẩu trái phép, thu chi ngoài sổ
sách, cấp và bán đất sai pháp luật. Những việc làm này không chỉ khuyến khích cho kẻ
xấu lợi dụng để làm ăn phi pháp, mà còn tạo điều kiện cho thói tùy tiện, vô tổ chức, vô
chính phủ trong hoạt động của các đơn vị sản xuất kinh doanh, gây khó khăn trong quản
lý của Nhà nước. Xã hội xảy ra nghịch lý. Một mặt từ phía Trung ương, Nhà nước do
quá chú trọng tới các biện pháp tập trung nhằm thực hiện việc quản lý thống nhất, đã
dẫn tới sự tập trung cao độ cứng nhắc. Mặt khác, ở địa phương, cơ sở tha hồ tự do hoạt
động, vượt khỏi khuôn khổ quy định của Nhà nước nhưng nhà nước không kiểm soát
được. Đây là đặc trưng cơ bản của quản lý tập trung quan liêu. Tập trung quan liêu bao
giờ cũng đi kèm sự tự do vô tổ chức, vô chính phủ.
Bên cạnh đó, trong bộ máy nhà nước, tình trạng đặc quyền, đặc lợi, sách nhiễu
dân vẫn còn diễn ra. Để việc quản lý thông suốt, có hiệu quả đòi hỏi mỗi cán bộ, nhân
viên của bộ máy quản lý phải có những quyền hạn nhất định. Những quyền hạn này
cũng không nằm ngoài mục đích ổn định và phát triển xã hội, và lợi ích của nhân dân.
Những quyền hạn của cán bộ, viên chức trong bộ máy nhà nước chưa phải là nguyên
nhân tạo nên quan liêu, nhưng nếu không có cơ chế kiểm tra, giám sát thì quyền lực
công dễ có xu hướng chuyển hóa, biến dạng thành quyền lực riêng của cá nhân. Cán bộ
công chức nhà nước dễ chuyển hóa thành những người có đặc quyền, đặc lợi, tùy tiện
lợi dụng quyền lực, vị trí công tác được giao để giải quyết công việc theo ý muốn chủ
quan vì quyền lợi của riêng mình.
Thực tế là để thỏa mãn lợi ích cá nhân, một số người có chức vụ, có quyền hạn
thường lạm dụng quyền lực, tự cho mình có quyền quyết định những công việc ngoài
giới hạn thẩm quyền của mình mà không cần biết những quyết định này có phù hợp với
nguyện vọng và lợi ích chung, có trái với pháp luật không. Hiện tượng thường thấy là
tại một số cơ quan nhà nước, hàng loạt những thủ tục giấy tờ được tự ý bày ra. Điều này
không chỉ gây khó khăn, phiền hà cho cấp dưới, làm chậm trễ công việc mà còn lãng
phí tài sản của Nhà nước, của nhân dân.
Đặc quyền, đặc lợi, tư lợi cá nhân, đặt lợi ích cá nhân và bộ máy lên trên lợi ích
chung của xã hội, của nhân dân là trái với bản chất bộ máy nhà nước XHCN, là biểu
hiện sự tha hóa bản chất của bộ máy nhà nước. Đặc quyền, đặc lợi giờ đây vẫn tồn tại
một phần do cơ chế quan liêu bao cấp cũ chưa được khắc phục triệt để, phần khác do
tàn dư của tư tưởng Nho giáo còn rơi rớt lại. Trong cơ chế mới, đặc quyền, đặc lợi tồn
tại dưới nhiều biến tướng khác nhau, tai hại hơn nữa, sự tồn tại này đã trở nên như một
lẽ phải thông thường. Chính vì vậy, đã có không ít người là cán bộ, đảng viên giữ những
chức vụ quản lý nhất định trong bộ máy nhà nước, lợi dụng sự thiếu hoàn thiện, sơ hở
trong quản lý, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội để tham nhũng, ăn hối
lộ, làm thất thoát tài sản của Nhà nước và tập thể. Cũng không ít người lợi dụng chức
quyền để buôn lậu, tiếp tay cho buôn lậu. Tình trạng này kéo dài đã phá hoại nền kinh
tế, đe dọa sự ổn định và phát triển của xã hội, làm dao động niềm tin của nhân dân vào
sức mạnh quyền lực nhà nước và sự nghiêm minh của pháp luật.
Đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát huy dân chủ XHCN
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người ở giai đoạn phát triển cao. Dân chủ hiểu theo nghĩa chung nhất
là mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhân dân được làm chủ mọi quyền lực trong xã hội là mơ ước ngàn đời và cho
đến nay vẫn là vấn đề bức xúc của nhân loại.
ở nước ta, sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, (ở miền
Bắc từ 1954 và từ 1975 trong cả nước), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã từng
bước tiến hành xây dựng một nền dân chủ kiểu mới - nền dân chủ XHCN. Về thực chất,
nền dân chủ XHCN là chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông - những người lao
động. Cách mạng đã đưa dân lao động từ địa vị là người dân nô lệ, bị áp bức bóc lột
nặng nề lên địa vị người dân của một dân tộc độc lập tự do, địa vị chủ nhân của đất
nước và làm chủ bản thân mình. Tuy vậy, chế độ chuyên chế phương Đông và Nho giáo
đã có một thời gian cực dài để hằn sâu tư tưởng không dân chủ vào cách nghĩ, cách
sống, vào tâm lý, thói quen người Việt Nam cho đến ngày nay. Chính vì thế, quá trình
xây dựng, hoàn thiện và phát huy dân chủ XHCN ở nước ta đã vấp phải trở ngại không
nhỏ.
Nhìn lại lịch sử ta thấy, chuyên chế phương Đông là một thể chế cực quyền với
ông Hoàng đế - Con trời, thâu tóm trong tay mọi quyền lực chính trị, quân sự, kinh tế,
tôn giáo; dùng bộ máy quan lại để trị nước, không chia quyền cho quý tộc. Người dân
theo hộ gia đình sống trong làng xã. Làng xã quan hệ về mặt nhà nước với vua quan.
Vua nắm quyền sở hữu mọi nguồn lợi ruộng đất, núi rừng, sông biển và nắm quyền ban
phát tước vị cho mọi người: dân được cấp ruộng, quan được cấp tước vị, bổng lộc, tạo
ra một trật tự trên dưới nhiều thứ bậc. Trật tự trên dưới đó được xây dựng theo quan hệ
mẫu mực cha con trong gia đình. Mọi người sống với nhau bằng tình nghĩa theo kiểu
cha từ, con hiếu, dưới phụng tùng trên với tấm lòng biết ơn. Trước trật tự trên dưới theo
kiểu gia đình, trong không khí tình nghĩa, con người ta mong muốn tình trạng hòa mục,
ổn định chứ không nghĩ tới việc đấu tranh để đòi tự do dân chủ, thậm chí không hề biết là
có được quyền đó để đòi hỏi.
Với cách thức đó, nhà nước chuyên chế phương Đông đã duy trì xã hội trong
vòng trật tự ổn định. Trật tự đó được xây dựng trên tinh thần nhân nhượng, sống bằng
tình nghĩa đoàn kết tương trợ cộng trong đồng. Mọi người tuân theo cấp trên, hy sinh vì
nghĩa mà làm việc chung. Đây cũng là mặt mạnh của xã hội Nho giáo mà ngày nay
nhiều nước ở khu vực châu á đang khai thác, phát huy để ổn định xã hội và tăng tốc độ
phát triển kinh tế. Nhưng với truyền thống đó (truyền thống giữa người trên khoan huệ
và nhân từ với người dưới phục tùng và biết ơn, sự nhân nhượng và sự hy sinh chỉ có từ
một phía, quan hệ trên dưới kiểu gia trưởng, duy trì đoàn kết ổn định xã hội bằng nhân
tâm chứ không phải bằng sự công bằng...) thì chỉ giành nhân tâm mà lại kỵ dân chủ.
Vì vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta còn là
quá trình khó khăn, phức tạp và lâu dài. Quá trình đó đòi hỏi phải tiếp tục khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong cách nghĩ, cách sống, tâm lý, thói quen
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và người dân nước ta.
Trước hết phải kể đến sự ảnh hưởng của tư tưởng địa vị, đẳng cấp, gia trưởng
- ở người cán bộ:
Tư tưởng này vẫn đang trực tiếp tác động đến nhận thức và hành vi ứng xử
mang tính chính trị - xã hội.
Xã hội bao giờ cũng đòi hỏi một trật tự, với một hệ thống các vị trí cá nhân
khác nhau, xuất phát từ phân công lao động xã hội và quan hệ xã hội. Người có tư tưởng
địa vị phân biệt con người từ nghề nghiệp, gia sản đến chức vụ của họ. Theo họ, quản lý
không phải là một nghề mà là một địa vị, là cơ hội, điều kiện tốt để thỏa mãn ham muốn
quyền lực hay thu lợi bất chính hay tìm kiếm danh vọng. Tư tưởng đó kích thích
người ta dấn thân vào sự ganh đua để được giữ các chức vụ mà quên đi mục đích, nhiệm
vụ phấn đấu với động cơ tốt đẹp, nhằm cống hiến sức mình nhiều nhất cho lý tưởng
cách mạng.
Điều đáng ngại nhất là người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư tưởng địa vị, là
người thường tự cho mình đứng trên tập thể, quần chúng, đối lập với quần chúng. Trong
con mắt của họ, nhân dân là những người "dân đen" bảo sao nghe vậy, là đối tượng quản
lý, sai khiến. Vì vậy, thay vì tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối cách mạng
của Đảng, họ lại "sử dụng" nhân dân theo ý đồ riêng. Để củng cố địa vị của mình, trước
hết họ lo tạo lập phe cánh, lợi dụng chức quyền đưa người thân, người cùng cánh vào
giữ các cương vị cần thiết thông qua bầu cử cũng như các khâu khác của công tác cán
bộ. Dần dần, những "ê kíp" được hình thành. Đây chính là tiền đề của nạn tham nhũng tập
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:

 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top