suzuki_vn

New Member
Đầu To Bằng Cái Bồ


Chuyện kể rằng lúc Quỳnh còn nhỏ, mới bảy tám tuổi, Quỳnh vừa tỏ ra thông minh đỉnh ngộ nhưng cũng là một đứa trẻ chúa nghịch. Hồi ấy bọn trẻ thường chơi trò xước xách, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng. Trong trò chơi, Quỳnh bao giờ cũng lấn lướt.


Một đêm mùa thu, trăng tháng tám sáng vằng vặc, đang chơi với đám trẻ ở sân nhà, Quỳnh bảo:


- Chúng bay làm kiệu cho tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người mà cái đầu to bằng cái bồ!


Lũ trẻ tưởng thật, liền tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi vòng vòng quanh sân, mệt thở muốn đứt hơi. Xong, chúng nhất định bắt Quỳnh phải giữ lời hứa. Lúc ấy trăng vừa mờ, Quỳnh bảo:


- Tụi bây đứng đợi cả ở đây, tui đi đốt lửa soi cho mà xem!


Bọn trẻ nhỏ hơi sợ, bất dám ở lại, chỉ những đứa lớn hơn, bạo dạn đứng chờ. Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn đèn, bảo:


- Kìa, trông trên vách kìa. Ông to đầu vừa ra đấy!


Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, anchorage ra bắt Quỳnh làm kiệu đền, Quỳnh chạy vào buồng đóng cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.

 

Meirion

New Member
Đất Nứt Con Bọ Hung

Từ thuở bé, ngoài tính nghịch ngợm, hiếu động, Quỳnh còn tỏ ra thông minh xuất chúng khi học rất giỏi và đối đáp hay, nhất là khi ứng khẩu.


Trong làng cậu bé Quỳnh có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu ngạo, đi đâu cũng khoe khoang, tên gọi là ông Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ Quỳnh vừa ghét những người có bản tính như vậy. Một hôm, Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về thần cùng này, Tú Cát bất ưa gì Quỳnh, ông ta ra vẻ kẻ cả gọi Quỳnh đến bảo:


- Ta nghe trời hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi. Bây giờ ta ra cho mày một vế đối, nếu mà bất đối được thì sẽ biết tay. Nhất định ta sẽ đánh đòn cho chừa các tật láo, nghe chưa!


Nói xong, bất đợi Quỳnh thưa lại, Tú Cát liền gật gù đọc:


- "Lợn cấn ăn cám tốn."


Đây là một câu đối rất hắc búa bởi "Cấn" và "Cám" vừa chỉ lợn và thức ăn của lợn, lại vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều còn thấy khó. Thế nhưng, bất nao núng, Quỳnh đọc lại ngay:


- "Chó khônss chớ cắn càn."


Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. "Khôn" và "Càn" cũng là hai quẻ trong kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm, hầm hầm bảo:


- Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì tao phục!


Nói xong Tú Cát đọc ngay:


- "Trời sinh ông Tú Cát!"


Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối. Nào ngờ, Quỳnh chỉ ngay xuống đất, dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp:


- "Đất nứt con bọ hung!"


Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng.

 

di_vui_ve

New Member
Chuyện Dê Đực Chửa


Tiếng tăm về một thần cùng nhanh chóng được truyền tụng khắp nơi, ngày càng lan rộng lớn và đến hết kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thực ra sao, nhưng là người chuộng nhân tài, sau khi suy nghĩ, vua bèn ban lệnh: Cả phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một con dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào bất có sẽ bị trị tội. Cái lệnh chéo ngoe ấy tất nhiên làm dân chúng phủ Thanh Hóa shốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Mà từ xưa đến giờ vừa nghe ai nói cái chuyện lạ lùng ấy đâu! Thế nhưng, khi biết chuyện đó, Quỳnh nói với bố:


- Chuyện gì chớ chuyện này xin bố đừng lo. Bố cứ bảo dân làng chuẩn bị cho con một trăm quan trước và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê đực chửa cho làng. Nghe Quỳnh nói vậy, ông bố bất tin, nhưng cũng thưa lại vơi dân làng. Người tin kẻ nghi nhưng bất còn có cách nào khác, tất cả người đành làm theo yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm sau, hai cha con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô khi nhà vua có chuyện đi qua cửa Đông. Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần, Quỳnh khóc rống lên. Nghe tiếng khóc có vẻ lạ, vua sai lính lôi đứa trẻ đang khóc lên hỏi nguyên do. Quỳnh vờ như bất biết đấy là vua, càng gào to, kể lể:


- Mẹ tui đã chết mấy năm nay, tui nói mãi mà bố tui không chịu đẻ em bé cho tui bế...


Vua nghe nói câu ấy, bật cười bảo rằng:


- Ôi chao quả là một thằng bé đần độn. Ba mày là đàn ông mà đẻ làm sao được?


Chỉ đợi cho vua nói vậy, Quỳnh liền nín ngay, rồi đứng chắp hai tay lại, nói thật trang nghiêm:


- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tui phải nộp dê đực chửa!


Nghe nói vậy, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé thần cùng mà bấy lâu mình vẫn nghe đồn.

 

Beornheard

New Member
Miệng Kẻ Sang


Bấy giờ Quỳnh vừa hơi lớn, đang độ thiếu niên. Trên đường từ phủ về khát quá, Quỳnh vào một quán nước bên đường. Trong quán có một viên quan, dáng oai vệ, đang ngồi nhai trầu bỏm bẻm. Cạnh đó, có một lính vệ đứng hầu. Quan nhai xong, hách dịch vứt miếng bã trầu ra đất.


Quỳnh đang ngồi uống nước, thấy ngứa mắt liền bước lại cuối nhặt lên, ngắm nghía như muốn tìm kiếm cái gì, rồi đút vào túi.


Quan thấy lạ, hỏi:


- Mày là ai? Làm gì vậy?


Quỳnh làm bộ khúm núm đáp:


- Bẩm, con là học trò nghèo, lâu nay thường nghe người ta nói "Miệng nhà quan có assemblage có thép" muốn nhặt lên đem về coi thử có đúng thế không?


Biết mình bị xỏ, lại bất biết tên học trò xấc xược này là Quỳnh, quan liền bảo:


- Đã xưng là học trò thì người phải đối ngay câu tục ngữ mà người vừa nói đó đi, hay thì ta thưởng, dở sẽ đánh đòn. Mà nhớ là tục ngữ phải đối bằng tục ngữ, nghe chưa!


Quỳnh giả bộ rụt rè, thưa thưa bẩm bẩm:


- Con sợ mang tiếng xấc xược... Không dám đối.s


Tưởng anh chàng học trò đang bí, quan bảo:


- Ta cho người cứ nói, còn đối bất được thì nằm xuống để ta đánh đòn.


- Nếu thế thì con xin đối ạ.


- Được. Đối ngay đi, ta nghe thử!


Quỳnh thong thả đọc vế đối:


- "Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm."


Nghe xong, mặt quan xám lại như tro bếp. Câu đối lại đúng là câu tục ngữ, bất thể bắt bẻ vào đâu được.


Biết ngồi lâu bất tiện, quan giục lính hầu ra đi, quên bẵng lời hứa thưởng trước cho anh học trò nghèo.


Chẳng bao lâu, chuyện ấy lan ra khắp vùng, tên quan kia thì xấu hổ vì làm miệng cười cho trời hạ còn tiếng tăm của Quỳnh thì nổi như cồn.

 

Brocleah

New Member
Phơi Sách, Phơi Bụng


Quỳnh có một lão trọc phú. Lão này vừa dốt lại thích học làm sang, thỉnh thoảng mò đến nhà Trạng, đòi mượn sách. Tất nhiên lão có mượn được sách về thì cũng biết gì đâu đọc. Quỳnh bực lắm, một bận, thấy lão lấp ló đầu cổng, Quỳnh vội vác ngay chiếc chõng tre ra sân, cởi áo nằm phơi bụng. Lão trọc phú bước vào, thấy lạ, hỏi:


- Thầy làm gì thế?


Quỳnh đáp:


- À! Có gì đâu! Hôm nay được cái nắng tui đem phơi sách cho khỏi khô mốc


- Sách ở đâu?


Quỳnh chỉ vào bụng:


- Sách chứa đầy trong này!


Biết mình bị đuổi khéo, trọc phú lủi thủi ra về.


Bận khác, lão cho người mời Quỳnh đến nhà. Để rửa mối nhục cũ, lão bắt chước, đánh trần, nằm giữa sân đợi khách...


Quỳnh vừa bước vào, lão cất giọng con vẹt, bắt chước...


- Hôm nay được cái nắng tui nằm phơi sách cho khỏi mốc


Bất ngờ Quỳnh cười toáng, lấy tay vỗ bình bịch vào cái bụng phệ mà nói;


- Ruột nhà ông toàn chứa những của ngon chưa tiêu hết phải đem phơi, chứ làm cóc gì có sách mà phơi!


Lão trố mắt kinh ngạc:


- Sao thầy biết?


Quỳnh lại cười toáng lên, lấy tay lắc lắc cái bụng béo ụ ị của lão:


- Ông nghe rõ chứ? Bụng ông nó đang kêu "Ong óc" đây này! Tiếng cơm, tiếng gà, tiếng cá, lợn... Chứ có phải tiếng chữ, tiếng sách đâu. Thôi ngồi dậy, mặc áo vào nhà đi.


Lão trọc phú lủi thủi làm theo lời Quỳnh, và ngồi tiếp khách một cách miễn cưỡng.

 

Venjamin

New Member
Chúa Liễu Mắc Lỡm


Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền Sòng xin cấy rẽ. Đền Sòng quê ông là nơi thờ Bà Chúa Liễu nổi tiếng rất linh thiên, bất ai là bất kinh sợ. Chúa Liễu có nhiều ruộng và bà cũng cho cấy rẽ để lấy lợi. Lần ấy, Quỳnh vào đền khấn mượn đất xong thì khấn quẻ âm dương hỏi Chúa là bà lấy gốc hay lấy ngọn trong vụ thu hoạch tới. Lần đầu Chúa bảo lấy ngọn, thế là vụ ấy Quỳnh trồng khoai lang. Đến khi khoai vừa có củ, đào khoai xong, Quỳnh đem hết củ về nhà còn bao nhiêu dây khoai Quỳnh đem để đền bà chúa.


Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa đòi lấy gốc để ngọn cho Quỳnh. Mùa ấy Quỳnh liền trồng lúa. Đến mùa gặt, Quỳnh cắt hết bông và đem gốc rạ trả cho Bà Chúa!


Chúa Liễu hai lần bị Quỳnh lừa, tức giận lắm xong vừa trót hứa rồi, bất biết làm thế nào được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc lẫn ngọn, còn khúc giữa cho Quỳnh, Quỳnh giả vờ kêu ca:


- Chị lấy thế em còn gì được nữa !


Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định bất nghe, Quỳnh về trồng ngô, đến kỳ bẻ ngô bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn với gốc Quỳnh đem nộp cho Chúa.


Chúa mắc mưu Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ ấy, Quỳnh vừa kiếm cũng được cái vốn kha khá rồi.

 

Syvwkh

New Member
Trả Ơn Bà Chúa Liễu


Gặp khoa thi, Quỳnh ra ứng thí. Đường đi qua đền Sòng, Quỳnh vào yết Chúa Liễu, xin Chúa phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ. Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh quy về, Quỳnh mua một con bò mẹ, một con bò con đem đến lễ. Quỳnh quỳ xuống lạy, rồi dắt con bò mẹ đến buộc vào tay ngài mà khấn rằng:


- Chúa có lòng thương phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay gọi là có một con bò để trả lễ. Xin Chúa nhận cho. Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nhỏ, em xin đem về khao dân


Nói rồi, dắt bò con về. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm ngai Chúa đổ lổng chổng, lộng gãy cả. Quỳnh cười nói:


- Chị thương em nghèo, trả bất lấy, thì em xin đem về vậy.


Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò về.

 

123_letsvi

New Member
Đầu To Tạ Chúa Liễu Ba Bò


Chuyện Quỳnh lừa bà Chúa Liễu chỉ cúng bò bằng lời khấn suông, lại còn làm đổ gãy cả tai ngai, làm Chúa giận lắm, nên Chúa bắt vợ Quỳnh ốm lăn ốm lóc. Theo yêu cầu của vợ, Quỳnh đành phải đến đền khấn, để Chúa Liễu giải hạn cho. Quỳnh đến, khấn:


- Em lỡ đùa với chị, em có lỗi, thì chị quở em, sao chị lại phạt vợ con em bắt phải ốm, mà họ có tội tình gì? Em xin chị tha cho vợ con em, và xin lần này sẽ tạ chị ba bò, em sẽ để ở ngoài sân, chứ bất dám vào đền, chị yên tâm, khỏi phải lo gãy đổ.


Chúa Liễu nghe Quỳnh nói lễ những ba bò thì mừng lắm. Lại hứa cúng ở ngoài sân, như thế, thì Quỳnh cũng tỏ ra biết điều.


Khi vợ con hết ốm, Quỳnh lững thững đến đền với đôi tay không, rồi đứng trước bàn thờ Chúa Liễu, chắp tay khấn:


- Chị vừa phù hộ cho vợ con em tai qua nạn khỏi, biết ơn chị, nay giữ đúng lời hứa, em xin tạ chị đủ "Ba bò" ở ngay tại sân đền.


Nói xong, Quỳnh từ từ lui ra, rồi quỳ xuống, bò đúng ba vòng trước sân. Bò xong, Quỳnh phủi tay, đứng dậy, ngoảnh mặt vào phía bàn thờ Chúa Liễu cười:


- Thế là chị sướng nhá! Em tạ chị lần này những "Ba bò" đấy!


Xong, Quỳnh ung dung bước ra về, để lại nỗi tức giận tràn hông cho Chúa Liễu

 

anh_yeu_vo

New Member
Quỳnh Cúng Thần Hoàng


Lần khác, vợ Quỳnh ốm, thuốc thang chữa mãi bất khỏi, xem bói, thì ra bất phải tại Chúa Liễu mà do động Thành Hoàng bản thổ. Quỳnh ra đình khấn vái, xin Thành Hoàng cho khỏi, sẽ sửa gà lễ tạ. Khấn xong, về đến nhà thì vợ vừa khỏi rồi. Bà vợ giục làm gà lễ tạ, Quỳnh bảo:


- Được, nhà bất có gà ta có cái khác để lễ tạ rồi. Rồi Quỳnh vào ổ gà, thủ hai quả trứng, đem luộc. Người nhà tưởng luộc để đánh gió. Một lúc, Quỳnh khăn áo chững chạc, cầm cái đĩa và hai quả trứng đi. Người nhà lấy làm lạ, đi theo xem, thì thấy Quỳnh vào đình để đĩa trứng lên hương án rồi đứng đọc bài văn tế nôm rằng:


Chú là kẻ cả trong làng,

Ta là người sang trong nước,

Đôi bên chức tước chả kém gì nhau.

Vì trẻ nó đau, phải ra khấn vái.

Phiên chợ thì trái, bất mua được gì.

Nhà có con ri nó vừa nhảy ổ,

Bắt ra mà mổ, nghĩ cũng thương tình,

Chú có anh linh, xơi hai trứng vậy.


Khấn xong, chẳng lễ, chẳng vái gì trở ra về nói với vợ là yên tâm dưỡng cho thật lành bệnh bởi Thần hoàng vừa nhận lễ mà bằng lòng rồi.

 

Eoforwic

New Member
Bà Banh Hết Cả Linh Thiên


Hồi ấy, gần xứ Quỳnh ở, có một pho tượng đá rất kỳ lạ, trần truồng đứng giữa đồng, miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống chỗ kín, gọi là tượng bà Banh.


Pho tượng kỳ cục vậy nhưng linh lắm, ai đi qua trông thấy, nhếch mép cười thì bất xếch mồm cũng méo miệng. Đồn rằng đó là chỗ người Tàu giấu của, thiêng lắm. Quỳnh nghe đồn, đi xem. Đến nơi thấy tượng trần truồng mà chân lại đi giày, cổ đeo hạt. Quỳnh bất cười bất nói, cầm bút đề ngay vào ngực tượng một bài thơ nôm rằng:


Khen ai đẽo đá tạc nên thầy!

Khéo đứng ru mà đứng mãi đây?

Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt.

Dưới chân đứng chéo một đôi giày,

Ấy vừa phất cờ trêu ghẹo tiểu,

Hay là bốc gạo thử thanh thầy?

Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa,

Phô phang chi ở đám quân này.


Quỳnh đề thơ xong, bỏ đi. Tượng đá bỗng toát mồ hôi ra từ đó mất thiêng.

 

Arryo

New Member
Phật Say


Làng Thụy Chương xưa là một làng nổi tiếng về nấu rượu. Rượu ở đây thơm ngon đặc biệt.


Mé trước làng ở ven hồ Tây có một ngôi chùa nhỏ. Thời Lê Trung Hưng, chùa đổ nát chỉ còn trơ một pho tượng tay chống gậy, xiêu vẹo, nghiêng ngả.


Một hôm Quỳnh vào làng mua rượu, thấy pho tượng như vậy, mới làm mấy câu thơ

đùa:


Ông đứng chi mà đứng mãi đây?

Dập dềnh như tỉnh lại như say,

Vãi nào vừa chuốc cho ông rượu?

Còn có cho vay một nậm đầy?


Tương truyền từ đó, dân làng ai cũng gọi tượng là "Phật say".

 

Kirkland

New Member
Dòm Nhà Quan Bảng


Tương truyền rằng Quỳnh sinh cùng thời (gian) với nữ sĩ nổi tiếng, người vừa dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn ra thơ Nôm là Đoàn Thị Điểm.


Ngày ấy, Quỳnh vừa thành niên, nhà quan Bảng sinh ra thị Điểm, dạy học trò đông lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem bình văn, để ngấp nghé cô Điểm. Học trò biết ý, vào thưa với quan Bảng, ngài liền cho bắt vào hỏi:


- Anh kia, anh muốn gì mà cứ thậm thò thậm thụt vào ra nơi đây?


Quỳnh thưa:


- tui là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tui đến nghe trộm.


Quan Bảng nói:


- Ta biết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học trò thì ta ra cho một câu đối, bất đối được thì đánh đòn!


Quỳnh vâng.


Quan Bảng ra một câu:


- "Thằng quỷ ôm cái dấu đứng cửa khôi nguyên."


Quỳnh ứng khẩu đối ngay:


- "Con mộc phụ thuộc cây bàng dòm nhà Bảng nhãn."


Quan Bảng ngạc nhiên không cùng. Câu đối phải nói vào loại "Hóc" thế mà Quỳnh đọc ngay bất cần nghĩ ngợi gì chứng tỏ phải là người thông minh xuất chúng. Ông có bụng yêu, bèn giữ Quỳnh lại nuôi cho ăn học. Từ ngày đó, như rồng gặp mây, Quỳnh học tấn tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc mẫu. Từ ngày trường quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh là tài giỏi hơn cả.


Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Điểm cho, mà cô Điểm nghe cũng thuận.


Quỳnh biết rằng cô Điểm chắc vào tay mình rồi, thỏa được ước nguyền, song tính tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Điểm đứng đắn, thùy mị lại bất ưa kiểu chớt nhả, Quỳnh lại càng ghẹo dai. Chính vì vậy mới có những cuộc đối đáp lý thú về sau này...

 

Rambert

New Member
Đối Đáp Với Đoàn Thị Điểm


Thuở còn đi học, Quỳnh càng ngày càng mê cô con gái thầy học là Đoàn Thị Điểm là người vừa xinh đẹp, đoan trang lại giỏi văn thơ.


Nhưng trêu chọc với nàng bất dễ bởi ngoài tính tình đoan trang, Thị Điểm còn rất giỏi văn thơ nhất là ứng đối. Có lần Quỳnh từ phố Mía về, Thị Điểm thấy Quỳnh đang ngồi, liền ra ngay một vế đối có ý trêu:


"Lên phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường." (kẹo tiếng đất phương còn có nghĩa là kéo lại).


Gặp câu đối ra toàn mía, mật (an ninh) kẹo, đường, Quỳnh nghĩ mãi bất ra vế đối, bí quá,

đành phải đánh bài chuồn.


Một hôm, thấy cô Điểm vào buồng tắm, nhà vắng, Quỳnh nghịch ngợm gõ cửa đòi vào. Cô Điểm vốn hay chữ, tức cảnh, ra ngay một vế đối, bảo Quỳnh đối được thì cho vào. Câu đối như sau:


- "Da trắng vỗ bì bạch!". (Bì bạch, chữ hán cũng có nghĩa là da trắng).


Quỳnh nghĩ nát óc cũng bất tìm ra câu để đối, đành lủi thủi bỏ đi nhưng nghĩ bụng sẽ tìm dịp lỡm lại Thị Điểm.


Một lần khác, Quỳnh ngồi đối diện với Thị Điểm qua cửa sổ Thị Điểm lại đọc một câu:


"Hai người ngồi song song hai cửa sổ." (Song là hai, song cũng có nghĩa là song cửa). Lại một lần nữa, gặp câu quá hóc búa, Quỳnh bí quá đành lảng ra chỗ khác.


Một hôm tối trời, thừa lúc Thị Điểm ra ngoài, Quỳnh lẻn vào giường Thị Điểm nằm trước. Thị Điểm bất biết, vào buồng sờ soạng, không tình quờ ngay tay vào... Thị Điểm biết ngay là Quỳnh nghịch ngợm, liền ra cho một vế đối, bảo bất đối được sẽ mách thầy học về tội sàm sỡ.


Vế đối ra như sau:


"Trướng nội không phong phàm tự lập."


(Trongphòng chốngkhông có gió mà cột buồm lài dựng lên)


Lần này Quỳnh đối được ngay:


"Hưng trung bất vũ thủy trường lưu"


(Trong bụng bất có mưa mà nước vẫn chảy dài).


Lần đó Quỳnh thoát tội.


Nhân ngày xuân, thầy sai Thị Điểm đem lễ lên chùa. Quỳnh được thầy cho theo cùng. Trên đường, Thị Điểm chỉ cây xương rồng bảo Quỳnh:


- Cây xương rồng, trồng đất rắn, continued vẫn trả continued (Long là lỏng lẻo, chữ Hán continued nghĩa là rồng, mà chữ rồng vừa dùng ở trên).


Về ý, Thị Điểm nói bóng, Quỳnh ngang ngạnh, có dạy dỗ thế nào cũng bất chuyển được.


Chữ đối vừa khó, ý lại sâu xa. Thế mà Quỳnh đối lại được rất chỉnh, lại tỏ được cái ý nhất quyết giữ cái tính ấy và còn thách thức Thị Điểm nữa. Quỳnh đối mhư sau:


- Quả dưa chuột, tuột thẳng gang, thử chơi thì thử (Thử chữ hán nghĩa là chuột, mà chữ chuột cũng vừa dùng trên).


Cũng qua lần đối đáp này, hai người thấy tư tưởng bất hợp nhau nên từ đấy thôi xướng họa.

 

suzuki_vn

New Member
Tất Cả Đều Câm Điếc


Sinh thời, lúc còn thanh niên, nổi tiếng là người thông thái, hiểu rộng, biết nhiều, nhưng Quỳnh bất ưa gì chuyện cử nghề bởi chính ông là người luôn châm chọc cái cảnh phải luồn cúi của các "Bậc công hầu". Vì vậy, mỗi lần triều đình mở khoa thi, nhiều người giục chàng lều chõng ứng thí, chàng đều gạt phăng, tìm cách nói lãng sang chuyện khác. Lần ấy vì nể thầy học, lời khuyên của bạn bè, và lòng kỳ vọng của dân làng, Quỳnh đành đi thi cho phải phép. Năm đó, nhà chúa mừng sinh nhật con trai, các quan trường bèn nảy ra ý định nịnh hót chúa, bàn nhau ra đề thi nói về điềm lành của đất nước. Đoán được ý ấy, Quỳnh nghĩ ra cách làm một bài văn phải hàm được hai nghĩa: Bề ngoài, đọc lên nghe như lời ca công đức của chúa và sự an vui của tất cả người, nhưng nghĩa ẩn của nó lại là một sự phủ định. Trong bài văn ấy có hai câu khái quát hiện trạng đất nước như sau:


"Quan tắc cổ, dân tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân".


(Nghĩa là: Quan cũng theo phép xưa, dân cũng theo phép xưa, đội ơn quan, dân được sống đời Nghiêu Thuấn) và đối lại:


"Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lai Đường ngu chi đức".


(Nghĩa là: Trên cũng vui vậy thay, dưới cũng vui vậy thay, phụ thuộc vào đám đầu lại có đức độ thời (gian) Đường Ngu).


Mới nghe đọc lên lần đầu chúa Trịnh vừa khen: Hay quá, người làm hai câu này thật xứng đáng cho giải nhất!


Quan chủ tiềmo đứng bên cạnh cũng vừa từng nghe danh tiếng của Quỳnh, liền tâu với chúa:


- Khải chúa? Trong hai câu ấy, thần thấy có ẩn cái ý bất thuận.


- Quan thật (nhiều) đa nghi quá. Ca tụng công đức của chúa như vậy có gì mà bất thuận?


- Khải chúa, cứ theo cái nghĩa chữ Hán thì hai câu ấy đúng là hay thật, nhưng Quỳnh là loại thâm nho, từng vừa dùng chữ nghĩa chơi khâm nhiều người và chắc hắn bất bao giờ bằng lòng thứ văn chương một nghĩa. Theo sự hiểu biết cạn hẹp của thần, thì hai câu ấy xướng theo nghĩa cùng âm trực tiếp nghe ra ngại lắm, bất dám đọc lên để chúa thưởng lãm.


- Ta cho phép quan cứ nói.


- Khải chúa, nếu vậy thần xin nói, hai câu ấy có dụng ý phỉ báng, táo tợn. Nếu đọc theo kiểu nôm, thì rõ ràng là câu chưởi tục.


- Chưởi tục cũng bất sao, mà người cứ trình bày ta nghe thử!


- Vậy thần mạo muội thưa:


"Quan tắc cổ, dân tắc cổ"


Nghĩa là "Trên cũng câm, dưới cũng câm" (thưa tắc cổ là câm bất dám nói đấy ạ!). Còn " đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân" tức là "đái vào hàm bọn quan lại dám bảo rằng dân chúng đang sống dưới thời (gian) Nghiêu Thuấn".


- Nếu quả vậy thì Quỳnh láo thật!


- Khải chúa, chưa hết đâu. Câu sau này còn hàm ý báng bổ tệ hại hơn. "Thượng ung tai, hạ ung tai", nghĩa là "Đứa trên thối tai, đứa dưới cũng thối tai".


(Ung tai tức thối tai, là cả trên dưới đều là một lũ điếc đấy ạ). Vì điếc hết nên bất biết rằng "ỷ đầu lai Đường ngu chi đức" nghĩa là hắn bảo " ỉa vào đầu lũ nha lại dám bảo rằng kẻ sĩ đang mở mặt giữa đời Đường Ngu".


- Lão quát! Thật láo quá! Vậy thì nên xử lý như thế nào?


- Khải chúa! Đối với Quỳnh phải hết sức thận trọng. Không thể bắt bẻ hắn ta, vì trên giấy trắng mực đen bất thể luận tội được. Chí có một cách bí mật (an ninh) đánh hỏng y. Thần là chủ tiềmo, nên điều ấy bất khó, xin chúa hãy yên lòng.


- Mà đánh hỏng Quỳnh có nghĩa là làm theo đúng ý của Quỳnh đâu có cần đỗ đạt. Quỳnh đi thi là để đáp lại tấm thịnh tình của tất cả người thân, lại có thời cơ đả kích vào thói xu nịnh của đám quan trường và "Chọc" nhà chúa một trận nên thân, còn mình thì vẫn giữ tròn khí tiết.

 

Breandan

New Member
Ăn Trộm Mèo


Nhà vua có nuôi một con mèo tam thể quý lắm, xích bằng xích vàng và cho ăn toàn những đồ cao lương mỹ vị.


Quỳnh vào chầu, trông thấy, liền tìm cách bắt trộm về, cất xích vàng đi buộc bằng xích sắt, nhốt lại. Đến bữa đợi cho con mèo thật đói, Quỳnh để hai cái đĩa, một đĩa cơm trộn thịt cá và một đĩa cơm trộn rau. Mèo nhà vua quen ăn miếng ngon chạy đến chỗ thịt cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn đĩa cơm rau. Dạy như vậy được một thời (gian) gian, mèo quen dần, bất bao giờ dám gì ngoài rau nữa mới thả ra. Vua mất mèo, tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con mèo tam thể tương tự như hệt, nghi lắm, bắt Quỳnh mang mèo vào chầu. Vua xem mèo, hỏi:


- Sao nó tương tự mèo của Trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của Trẫm đẹp bắt về, nói cho thật!


- Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử thì biết.


- Thử thế nào? Nói cho Trẫm nghe.


- Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ phú quý thì mèo ăn thịt ăn cá, còn hạ thần cùng kiệt túng thì mèo ăn cơm trộn với đầu tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào thì biết ngay.


Vua sai làm thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch. Quỳnh nói:


- Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú qúy thì cao lương mỹ vị, bần tiện thì cơm hẩm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ.


Rồi lạy tạ, đem mèo về.

 

sep_truong

New Member
Bà Chúa Mắc Lõm


Một bà Chúa nhan sắc mặn mà nhưng tính kiêu ngạo, hễ đi ra chơi phố phường thấy ai trái ý là sai lính bắt liền. Một lần, Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu Chúa. Gần đấy có cái ao bèo, Quỳnh vội vàng chạy xuống cầu ao đá nước chơi.


Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới hỏi:


- Ông làm gì đó?


Quỳnh ngẩn lên thưa:


- tui ở nhà buồn quá, ra "đá bèo" chơi!


Bà Chúa đỏ mặt tía tai, tức lắm nhưng chẳng dám nói gì.

 

Kenn

New Member
Cây Nhà Lá Vườn


Quỳnh nhiều lần dùng trí thông minh, tài đối đáp để trêu chọc chúa Trịnh, nên trước chúa quý trọng bao nhiêu thì sau lại ghét bấy nhiêu. Chúa càng ghét, Quỳnh càng trêu tợn.


Một lần, chúa sai lính tới kéo đổ nhà Quỳnh. Thấy lính đến Quỳnh bảo:


- Chúa sai các anh đến kéo đổ nhà ta, các anh cứ làm, nhưng bất được reo, cười, ai mà reo cười ta cắt lưỡi.


Ở đời, hễ kéo nặng thì phải reo hò, bất dô ta, hò khoan sao mà kéo nổi? Bọn lính

đ ành chịu thua về trình báo lại. Lần khác chúa sai bọn lính đến ỉa vào vườn nhà Quỳnh, Quỳnh thản nhiên cầm dao ra bảo:


- Chúa sai các anh đến ỉa thì cứ ỉa nhưng ta cấm đái. Thằng nào đái thì dao đây, ta cắt.... Ngay!


Ỉa ai bất đái bao giờ?


Bọn lính lại phải về tâu lại. Chúa truyền cho chúng mang gáo dừa theo và đái vào đó. Quỳnh đ ành chịu thua nhưng vẫn nghĩ cách chơi lại chúa. Một tháng sau, Quỳnh ra chợ, thấy người ta bán cải tốt, liền mua thật nhiều về, mang lên biếu chúa. Chúa thấy cải ngon, sai đầu bếp nấu canh, và quên chuyện cũ liền hỏi Quỳnh cải đâu mà ngon vậy. Quỳnh thưa ngay:


- Dạ, đó là cải nhà trồng. Trước nó bất tốt lắm nhưng từ khi chúa sai lính "Bón phân" vườn nhà thần, nên nó tốt tươi như vật. Cây nhà lá vườn thôi, thần mới dám dâng cho chúa xơi!

 

Osbert

New Member
Chửi......Vua


Một hôm, Quỳnh cho người ra bảo các hàng thịt là ngày mai Trạng đặt tiệc đãi các quan, cần mỗi hàng bán cho mấy cân, nhưng phải thái sẵn cho đỡ mắc công người nhà. Các hàng thịt mừng rỡ, sáng sớm vừa thái thịt để đấy chờ người nhà Trạng đến lấy. Ai ngờ đợi mãi đến trưa mà cũng chẳng thấy ai, họ bèn tới nhà Trạng thì nhà vắng tanh, chẳng có khách khứa gì cả. Hỏi trạng thì Trạng bảo bất biết: "Chắc là có đứa nào muốn lõm bà con đấy. Cứ gọi thằng nào bảo thái mà chửi":


Bọn hàng thịt tức mình về cứ gọi thằng bảo thái mà chửi:


- Tiên sư thằng "Bảo thái"! Tiên sư thằng "Bảo thái".


Bảo Thái là niên hiệu nhà vua. Thành thử vua bị dân hàng thịt chửi một bữa inh cả phố. Đương nhiên ai cũng biết cái chuyện xỏ xiên này chỉ có Trạng Quỳnh mới nghĩ ra được nhưng cũng đ ành làm thinh vì biết lấy bằng cớ gì mà bắt tội Quỳnh?

 

Bromleah

New Member
Đá Gà Với Quan Thị


Bọn quan thị, nơi phủ chúa "Gà" thật bất có mà lại cứ hay đá gà. Chúng bỏ ra nhiều tiền, lùng cho được những con gà hay đem về nuôi rồi đem ra đá độ với nhau. Nghe nói Quỳnh chọi gà với sứ Tàu thắng, họ liền mang gà đến nhà Quỳnh, đá thử một vài cựa chơi. Quỳnh vốn ghét bọn quan thị, từ chối nói là bất có gà, nhưng họ nhiễu mãi, phải ừ và hẹn đến mai đi bắt gà về chọi. Bên láng giềng có một con gà trống thiến, Quỳnh liền qua mượn mang về.


Sáng sớm, mở mắt dậy, vừa thấy quan thị đem gà lại rồi. Quỳnh sai bắt gà trống thiến đem ra chọi. Tất nhiên, vừa so cựa được một vài nước, thì gà quan thị đá cho gà trống thiến một cựa lăn cổ ra chết ngay còn gà bọn hoạn quan thì vỗ cánh phành phạch lấy uy, gáy vang cả sân nhà. Bọn chúng khoái chí vỗ tay reo:


- Thế mà đồn rằng gà của Trạng hay, chọi được gà Tàu, giờ mới biết đồn láo cả!


Quỳnh chẳng cãi lại, chỉ ôm gà trống thiến mà rằng:


- Các ngài nói phải, trước con gà này đá hay lắm, nhưng từ khi tui thiến nó đi, thì nó đốn đời ra thế!


Rồi ôm gà mà than thở: "Khốn nạn thân mầy, gà ôi! Tao vừa bảo phận mày bất dái thì chịu trước đi cho thoát đời, lại còn ngứa nghề là gì cho đến nỗi thế này! Thôi mày chết cũng đáng đời, còn ai thường nữa, gà ôi!".


Các quan thị nghe thế, xấu hổ, ôm gà cút thẳng.

 

Moran

New Member
Đơn Trình Bò Chết Của Cô Gái Kẻ Nghì


Giai thoại này kể về lúc Quỳnh chưa ra làm quan. Trên đường từ huyện về Kẻ Nghì, quỳnh gặp một cô gái từ Kẻ Nghì lên huyện. Đường đi phải qua một quãng đường cùng lầy lội. Hỏi chuyện Quỳnh biết cô gái lên huyện để đưa đơn trình quan về chuyện con bò bị chết, xin được đem chôn. Quỳnh hỏi mượn đơn xem, rồi giả vờ lở tay đánh rơi đơn xuống bùn. Cô gái Kẻ Nghì bắt đền, Quỳnh làm ngay đơn khác để cô trình quan. Lá đơn ấy, Quỳnh viết:


tui là con gái Kẻ Nghì

Có con bò chết đem đi trình người

Lội đồng, váy ướt, đơn rơi

tui phải mượn người làm cái đơn ni

Đem vào trình với chú Tri

Mong chú chấp lấy đơn ni làm bằng

Nếu mà chú nói mần răng

Thì chú bú c... Cho thằng mần đơn.

Cô gái đến cửa quan thì nộp đơn, hầu chờ phán xét.

Đọc xong, mặt tím bầm, quan quát:


- Thằng nào viết này cho mày?


- Bẩm quan một người đi đường ạ!


- Sao lại một người đi đường?


Bẩm quan người ấy biết con làm đơn trình quan về chuyện bò chết, người ấy mượn đọc, bất may lỡ tay, làm rơi lá đơn của con xuống nước, người ấy sợ quan quở, phải viết lại lá đơn này cho con đến trình quan.


- Hình dạng người ấy ra sao?


- Dạ, bẩm quan, người to bụng hơi phệ, mặc áo năm thân, quần lá làn, và...


- Và cái mả cha mày à, lần sau đơn có rơi cũng bất để cho người ấy viết lại nữa nghe không?


Nói rồi, quan gọi lính đuổi cô gái ra khỏi công đường.

 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top