nangtienca004
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ.
Xã hội học ra đời để đáp ứng nhu cầu thực tiễn và nhu cầu nhận thức các biến đổi xã hội nhằm hướng tới giải quyết những vấn đề cụ thể đang được đặt ra trong đời sống xã hội. Dư luận xã hội là một thuật ngữ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến, nó là hiện tượng đặc biệt thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, dư luận xã hội biểu thị những mối quan tâm, tình cảm, nguyện vọng, được thể hiện dưới dạng ý kiến phán xét, đánh giá của nhiều người về sự kiện, hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội nào đó xảy ra trong xã hội. Với tư cách là một hiện tượng đặc biệt đã và đang tồn tại trong xã hội thì dư luận xã hội cũng có những tính chất cơ bản riêng làm cho nó được phân biệt với tin đồn. Sau đây là bài phân tích của em về các bước hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội kèm theo đó là các ví dụ, đồng thời nhận xét tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1, Khái niệm dư luận xã hội.
Các nhà nghiên cứu về dư luận xã hội luôn bắt đầu công việc nghiên cứu của mình bằng những câu hỏi: Dư luận xã hội thực chất là gì? Công chúng có số lượng bao nhiêu thì được coi là một dư luận xã hội? Bản chất của dư luận xã hội?... Tuy nhiên, sự nhất trí của họ về các vấn đề này chưa cao. Dẫu rằng một khái niệm về dư luận xã hội khó nhận được một sự chấp nhận chung, nhưng điều đó không có nghĩa rằng dư luận xã hội không tồn tại, hay không có ý nghĩa nhất định nào đó trong các hoạt động của xã hội. Các ngành khoa học nói chung, các nhà nghiên cứu nói riêng có thể có những cách tiếp cận khác nhau trong quan niệm hay cách nghiên cứu về dư luận xã hội, song họ vẫn xác định dư luận xã hội là một thực thể tồn tại ở một dạng nhất định (dưới dạng tinh thần và thực tiễn, được thiết chế hóa hay có tính tự phát,...). Dư luận xã hội thực sự tồn tại và ảnh hưởng đến xã hội cũng như từng cá nhân.
Như vậy có thể đưa ra khái niêm về dư luận xã hội như sau : “Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến,thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sư quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hay hành động thực tiễn của họ “.
2, Các bước hình thành dư luận xã hội và các ví dụ cụ thể
Đối tượng của dư luận xã hội là những vấn đề được cộng đồng xã hội quan tâm liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng, có tầm quan trọng và có tính cấp bách, đòi hỏi phải có ý kiến phán xét, đánh giá hay cần đề xuất phương hướng giải quyết cụ thể. Chủ thể của dư luận xã hội chính là cộng đồng người hay nhóm người mang dư luận xã hội. Dư luận xã hội không phải là tổng cộng các ý kiến phán xét, đánh giá của các cá nhân mà phải thông qua trao đổi, bàn bạc, có sự tác động qua lại giữa các ý kiến mới hình thành nên sự phán xét đánh giá chung của số đông trong cộng đồng người.
Trong điều kiện bình thường, quá trình hình thành dư luận xã hội có thể chia thành các bước (giai đoạn) sau:
2.1 Giai đoạn hình thành thuộc ý thức cá nhân.
Các cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, được trực tiếp chứng kiến hay nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong xã hội. Họ tìm kiếm, sưu tập thêm các thông tin, trao đổi với nhau về nó, từ đó nảy sinh các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu về nội dung, tính chất của các sự việc, sự kiện. Nhưng lúc này, các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu đó là thuộc về mỗi người, thuộc lĩnh vực ý thức cá nhân.
2.2 Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người
Các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong nhóm xã hội. Cơ sở cho quá trình thảo luận trong nhóm xã hội là lợi ích chung của cả nhóm và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang chi phối các khuôn mẫu tư duy và khuôn mẫu hành vi của các thành viên trong nhóm. Thông qua quá trình trao đổi, bàn luận các suy nghĩ, các ý kiến xung quanh đối tượng của dư luận mà ý kiến đã được trao đổi chuyển dần từ lĩnh vực ý thức cá nhân sang lĩnh vực ý thức xã hội.
2.3. Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng.
Ở giai đoạn này, các thông tin, vấn đề không quan trọng. không phù hợp hay những thông tin nhiễu về đối tượng sẽ bị loại bỏ. Các nhóm trao đổi, tranh luận với nhau về những nội dung quan trọng, đưa ra các loại ý kiến khác nhau và thống nhất lại xung quanh các quan điểm cơ bản, cùng tìm đến những điểm chung trong quan điểm và ý kiến. Từ đó mà hình thành cách phán xét, đánh giá chung thỏa mãn được ý chí của đại đa số các thành viên trong cộng đồng người. Cơ sở cho quá trình tranh luận này vẫn là lợi ích chung và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội chung cùng được các nhóm xã hội chia sẻ và thừa nhận.
2.4 Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn
Nếu như luồng dư luận xã hội chỉ hình thành một cách thuần túy rồi để đấy, chẳng có vai trò, tác dụng gì đối với cộng đồng thì có lẽ nó chỉ là hiện tượng vô nghĩa. Trên thực tế, vấn đề không phải chỉ dừng lại ở đấy. Từ sự phán xét đánh giá chung, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành động thống nhất, nêu lên những kiến nghị, những biện pháp về hoạt động thực tiễn của họ trước thực tiễn của họ trước thực tế cuộc sống nhất định.
Như vậy, dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Không có sự trao đổi, bàn bạc, thảo luận, thậm chí va đập các ý kiến với nhau thì không thể có ý kiến phán xét, đánh giá chung được đông đảo mọi người chia sẻ, tán thành và ủng hộ.
Ví dụ: Vụ án nữ sinh đánh hội đồng bạn ở một trường cấp 3, Quảng Ninh cuối năm 2010 đã gây chấn động dư luận.
- Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người: Khi vụ việc diễn ra đã có một nhóm học sinh quay phim lén rồi tung lên mạng. Đoạn phim đã được đưa lên các trang web, Facebook, Twitter…Những người biết về vụ việc này tiếp tục tìm kiếm thông tin rồi lan truyền cho những người khác, họ tự tìm kiếm thông tin, tự đánh giá, từ đó nảy sinh suy nghĩ của mỗi người về hành vi đánh bạn dã man của nhóm nữ sinh, song đó chỉ là những ý kiến của riêng mỗi người, ở trong ý thức của mỗi người.
- Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người: Khi nắm bắt được đầy đủ thông tin về vụ việc nữ sinh đánh bạn và có những ý kiến của riêng mình thì mọi người bắt đầu trao đổi, bàn luận với nhau. Đi ra đường đâu đâu người ta cũng nhắc đến sự việc này. Ở trường học, các học sinh truyền tay nhau clip ấy rồi bàn tán xem nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của vụ việc đến đâu, các giáo viên thì cùng nhau nhận xét đánh giá hành vi của nhóm nữ sinh ấy, ở các sạp báo, quán café báo mọi người đọc rồi bàn tán xôn xao, các bậc phụ huynh trao đổi, lấy sự việc ấy ra làm gương để răn dạy con cái,…Câu chuyện nữ sinh đánh bạn dã man đã được thảo luận sôi nổi và nhanh chóng trở thành chủ đề nóng trong xã hội đặc biệt là ở các trường học. Thậm chí các bạn học sinh còn thêm thắt nhiều yếu tố mới vào câu chuyện như: nguyên nhân bị đánh là cướp người yêu của bạn, hay chỉ vì một cái lườm nguýt, hay đây là hai nhóm nữ sinh vốn đã gườm mặt nhau từ lâu…
- Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng: sau khi câu chuyện về nữ sinh đánh hội đồng bạn được trao đổi, bàn tán khá rộng rãi thì các nhóm đi đến tranh luận với nhau về hành vi này. Trên các trang báo mạng, bình luận (comment) của độc giả tràn ngập. Một số người tỏ ra khá thản nhiên với sự việc này vì họ cho rằng đây là “chuyện bình thường ở huyện” hay “trường tớ cứ mấy ngày lại có một vụ như thế ở cổng trường, có gì đâu”, một số khác (đặc biệt là các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo) vô cùng bất ngờ, phẫn nộ và bày tỏ sự thất vọng với tư cách của học sinh ngày nay…Mặc dù thái độ với sự việc trên của mọi người là khác nhau song đại đa số mọi người đều nhận ra sự xuống cấp nghiêm trọng của ý thức của nữ sinh bây giờ, họ cho rằng trách nhiệm này thuộc về bản thân các em, gia đình, nhà trường và cả xã hội..
- Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn: Sau khi nhận ra sư suy đồi đạo đức trong một bộ phận học sinh, họ mong muốn các cơ quan có trách nhiệm phải vào cuộc để hạn chế những hành vi bạo lực học đường đang xảy ra như thế này và quan tâm giáo dục các em hơn nữa...Trước sức ép của dư luận xã hội, công an tỉnh Quảng Ninh đã vào cuộc điều tra, các bậc phụ huynh của nhóm nữ sinh này đã trao đổi với nhau để tìm ra giải pháp hòa giải, nhà trưởng lên tiếng hứa sẽ quản lý chặt chẽ và quan tâm đến học sinh hơn nữa không chỉ ở trong trường mà còn cả các hành vi của các em ngoài xã hội, các học sinh cũng coi đó là tấm gương để rút ra bài học cho bản thân…
Tuy nhiên, khi nghiên cứu sự hình thành dư luận xã hội cần chú ý tới hai khía cạnh sau đây:
Một là không phải trong bất kỳ trường hợp nào sự hình thành dư luận xã hội cũng phải trải qua bốn giai đoạn hình thành như trình bày trên. Thông thường sự tuân thủ cả bốn giai đoạn nêu trên chỉ diễn ra khi đối tượng của dư luận xã hội là các sự kiện, hiện tượng xã hội mới và phức tạp. Khi đa số người dân chưa có hay chưa xác định được thái độ, cách ứng xử phù hợp với thực tế cuộc sống thì khi đó, sự hình thành dư luận xã hội có thể kéo dài hàng tháng, hàng năm, thậm chí lâu hơn. Cũng có nhiều trường hợp dư luận xã hội hình thành một cách tức thời, nhanh chóng, phổ biến, lan truyền mạnh mẽ trước những biến cố đặc biệt như thiên tai, chiến tranh, các vụ giết người dã man…
Hai là việc duy trì sự quan tâm của người dân đối với các vấn đề đang diễn ra trong xã hội là một trong những điều kiện tiên quyết cho việc hình thành dư luận xã hội. Không phải sự việc, sự kiện nào cũng thu hút được sự quan tâm, chú ý hay gây tranh luận cho tất cả các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội. Sở dĩ, như vậy là do thiếu các thông tin về sự việc, sự kiện. Các cá nhân hay nhóm xã hội, nếu không được tiếp nhận thông tin thì không thể có bất cứ ý kiến chủ động nào. hay có những cá nhân hay nhóm xã hội sẽ rút ra khỏi các cuộc thảo luận khi phát hiện ra rằng lợi ích của họ không có quan hệ gì với vấn đề đang diễn ra. Do đó, cần có cách nhìn nhận và hoạt động thực tế nghiêm túc để đảm bảo cung cấp thông tin một cách rộng rãi tới đông đảo các tầng lớp nhân dân.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội
Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố khác nhau, cả chủ quan và khách quan về kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ nhận thức…Dưới đây là những yếu tố chính tác động đến sự hình thành dư luận xã hội:
3.1 Tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã hội đang diễn ra trong xã hội.
Dư luận xã hội là hiện tượng tinh thần phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó trước hết phụ thuộc vào qui mô, cường độ và tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội mà nó phản ánh; đồng thời phụ thuộc vào ý nghĩa của các sự việc, sự kiện đó đối với các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay tinh thần của cộng đồng người mang dư luận. Khuynh hướng chung trong các ý kiến đánh giá và thái độ của công chúng là bày tỏ sự tán thành, ủng hộ đối với những sự việc, sự kiện phù hợp với các nhu cầu, lợi ích của mình và lên tiếng phê phán hay phản đối những sự việc, sự kiện đi ngược lại, xâm hại tới lợi ích của họ.
Trong thực tế xã hội có những sự việc, sự kiện xảy ra ban đầu chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của nhóm xã hội nhất định, nhưng sự phát triển tiếp theo đã cho thấy sự liên quan của chúng tới lợi ích của các nhóm xã hội khác. Trong bối cảnh đó các nhóm xã hội sẽ bước vào cuộc trao đổi ý kiến, thảo luận tại các thời điểm khác nhau.
Như vậy, muốn nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc phát sinh dư luận xã hội thì phải xuất phát từ chính bản thân các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong thực tế xã hội vơi qui mô, cường độ và tính chất của chúng.
Ví dụ:
Trường hợp tăng giá xăng dầu trong những ngày gần đây. Xăng dầu cung cấp nguyên liệu cho giao thông vận tải, cho gia dụng, các loại máy kỹ thuật…Tăng giá xăng dầu kéo theo nhiều mặt hàng tăng giá, trong đó tiền lương lại không tăng đồng nhất đã gây ra nhiều khó khăn cho người dân. Việc tăng giá xăng ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến quyền lợi của đại số người dân vì thế nó nhanh chóng tạo nên làn sóng dư luận lớn trong xã hội, chiếm được nhiều sự quan tâm của xã hội.
3.2. Hệ tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế xã hội của con người
Hệ tư tưởng, trình độ học vấn của con người cũng ảnh hưởng quan trọng tới khuynh hướng, chiều sâu, tính chất phản ánh đúng hay sai của các ý kiến, các quan điểm phán xét, đánh giá đối với sự việc, sự kiện. Chẳng hạn, ở những nhóm xã hội có trình độ học vấn cao, các cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận nguồn thông tin, phân tích một cách khoa học về nội dung, bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân của các sự việc, sự kiện…từ đó mà đưa ra các phán xét, đánh giá phù hợp về sự việc, góp phần hình thành những dư luận xã hội tích cực, có lợi cho cộng đồng, cho dân tộc hay cho quốc gia. Ngược lại ở những nhóm xã hội có trình độ học vấn thấp, người ta có thể dễ dàng tin tưởng vào những điều nhảm nhí, những tin tức thất thiệt, vô tình tham gia vào việc lan truyền những tin đồn nhảm, gây hậu quả xấu cho các cá nhân, các nhóm xã hội.
Ví dụ:
Báo Dân trí mới đây đưa tin người dân đổ xô đi thu mua thậm chí định nuôi đỉa để bán cho người Trung Quốc. Với nguồn thông tin này này, các nhà báo, nhà kinh tế,xã hội, thầy thuốc cho rằng: nên kiểm soát sự việc này vì đỉa là loại động vật rất nguy hiểm với con người và cây trồng, lại rất khó tiêu hủy, chỉ cần thiêu không hết là đỉa lại có thể sinh trưởng trở lại bằng một tế bào cũ, nếu đổ xô đi nuôi đỉa đến khi các lái buôn Trung Quốc không thu mua nữa thì sẽ rất nguy hiểm,…Trong khi đó những người nông dân có trình độ học vấn thấp không nhìn thấy điều đó họ chỉ tin rằng người Trung Quốc thu mua đỉa với giá rất cao, nuôi đỉa sẽ giàu lên nhanh chóng, họ đổ xô đi bắt đỉa bằng mọi cách, bất chấp đỉa có thể chui vào tai, vào người sinh sôi nảy nở trong người, thậm chí một số người định nuôi đỉa…
3.3 Thông tin đại chúng
- Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải kịp thời và đầy đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội
- Các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai
- Các phương tiện thông tin đại chúng điều chỉnh, định hướng sự phát triển của dư luận xã hội
Ví dụ:
Trước đây chủ yếu là báo in nhưng ngày nay báo mạng phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển nhanh chóng của các tờ báo mạng đã đưa thông tin nhanh chóng đến người dân, họ nắm bắt thông tin, bày tỏ ý kiến rất sôi nổi trên các diễn đàn vì thế mà dư luận xã hội nhanh chóng được tạo ra và lan truyền với tốc độ chóng mặt.
3.4 Những nhân tố thuộc về tâm lý xã hội
Trạng thái tâm lý xã hội thường biểu hiện ở nhiều nhân tố như thói quen, nếp sống, ý chí, tâm trạng hay tình cảm của nhóm xã hội, cộng đồng người đã được hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày hay do tác động của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ảnh hưởng của những nhân tố này có nhiều mặt đôi khi khó nhận biết. Tùy từng thời điểm nhất định, tâm trạng của con người có thể được biểu hiện ở các trạng thái khác nhau, thậm chí đối lập nhau như hưng phấn hay ức chế; tích cực hay tiêu cực; lạc quan hay bi quan; yêu đời hay chán nản; hi vọng hay thất vọng… Khi con người đang ở trong tâm trạng vui vẻ thì nội dung phán xét sẽ khác với khi đang ở trong tâm trạng buồn chán, bi quan.
Ví dụ:
Trước đây người phụ nữ không được coi trọng, dư luận xã hội lúc bấy giờ công khai công nhận “trọng nam khinh nữ”. Nhưng bây giờ tâm lý xã hội đã đổi mới vì thế mà dư luận xã hội cũng thay đổi theo người ta đã công nhận tài năng, sự cố gắng và vai trò to lớn của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội. Như vậy tâm lý xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến dư luận xã hội.
3.5 Hoàn cảnh sinh hoạt chính trị - xã hội
Trong điều kiện xã hội có dân chủ rộng rãi, có thông tin đa dạng, phong phú thì mọi người dân sẵn sang thẳng thắn, cởi mở, bộc lộ ý kiến, quan điểm của mình tham gia bàn bạc các vấn đề chung do vậy dư luận xã hội có điều kiện hình thành thuận lợi. Ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin cùng kiệt nàn, thậm chí bị cắt xén, xuyên tạc thì dư luận xã hội thường hình thành khó khăn, chậm chạp. Dưới các chế độ mà quyền dân chủ bị thủ tiêu thì dư luận xã hội càng khó hình thành và phát huy tác dụng.
Ví dụ:
Trong nhà nước dân chủ của ta hiện nay, người dân được tự do bộc lộ ý kiến. Đặc biệt là trong việc khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên của Chính phủ. Sự việc này đã nhận được những đóng góp đông đảo của người dân đặc biệt là tầng lớp trí thức, họ được quyền phát ngôn rộng rãi ý kiến, được thể hiện thái độ của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, vì thế mà khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên luôn là đề tài nóng hổi và nhận được sự quan tâm đông đảo của dư luận xã hội trong suốt mấy năm nay.
3.6 Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội đang hiện hành trong xã hội.
Về cơ bản các phong tục tập quán, các giá trị, chuẩn mực xã hội hiện hành tạo ra những khuôn mẫu tư duy, khuôn mẫu hành động làm cơ sở cho việc phán xét, đánh giá của dư luận xã hội về các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội đang diễn ra. Tuy nhiên, ngay trong cùng xã hội, các nhóm xã hội có thể đưa ra các phán xét khác nhau về cùng vấn đề. Điều này thể hiện rõ nét qua sự nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ.
Ví dụ:
Về vấn đề sống thử trước hôn nhân, dư luận xã hội về vấn đề này rất phức tạp. Sống thử không được chấp nhận vì nó đi ngược lại phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, quan niệm về trinh tiết của người con gái và những hệ quả tiêu cực “hậu sống thử”. Nhưng với một nhóm người khác lại ủng hộ vấn đề này vì nó giải quyết được nhiều vấn đề rất thiết thực: như bù đắp tình cảm, giải quyết vấn đề tài chính, hay “chạy thử mới biết thật ra sao”…Như vậy các phong tục tập quán, chuẩn mực xã hội có tác động lớn đến sự hình thành dư luận xã hội song trong cùng xã hội không phải ai cũng dựa vào những chuẩn mực ấy để đánh giá vì thế mà dẫn đến sự nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ.
4,Tác dụng của dư luận xã hội học đối với lĩnh vực pháp luật.
Dư luận xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như tâm lý học, chính trị học, sử học và đặc biệt là xã hội học. Nếu như tâm lý học nghiên cứu dư luận xã hội dưới dạng nghiên cứu tâm lý đám đông, vô thức tập thể, các nhà chính trị học, sử học nhấn mạnh tới vai trò của dư luận xã hội trong các quá trình quản lý xã hội, và ảnh hưởng của nó đối với các chính sách của chính phủ, thì xã hội học đi vào bản chất xã hội của dư luận xã hội. Xã hội học tập trung mối quan tâm của mình vào quá trình hình thành - phổ biến - tiếp nhận dư luận xã hội, tác động của dư luận xã hội đối với các mặt hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,...) và từng nhóm xã hội, cũng như chú trọng đến việc đo đạc dư luận xã hội.
Dư luận xã hội tồn tại từ lâu đời cùng với xã hội loài người, được xem là có trước cả luật pháp, có tác dụng là phương tiện giáo dục, định hướng và điều chỉnh hành vi. Khi người ta nói đến dư luận xã hội, thường là người ta nghĩ đến những đánh giá của cộng đồng đối với những sự kiện xã hội nhất định. Những đánh giá này dù có chủ định hay không chủ định nhắm tới một ai, song ai cũng xem đó là một đánh giá mà mình cần xem xét đến mỗi khi hành động. Vì vậy mà dư luận xã hội sẽ góp phần quan trọng và việc tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của người dân.
Thông qua dư luận xã hội, nhân dân có điều kiện bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về các vấn đề kinh tế, chính trị, đạo đức...
Việc hiểu được vai trò của dư luận xã hội sẽ giúp những người làm công tác lãnh đạo và quản lý có được cái nhìn đa chiều. Lắng nghe dư luận cũng có nghĩa là lắng nghe lòng dân để từ đó có những biện pháp xây dựng pháp luật phù hợp xác đáng với mọi công dân đồng thời cũng có những chính sách khắc phục những quyết định, những ý chí biểu hiệu quan liêu, xa rời quần chúng.
Ở nước ta hiện nay pháp luật có ý nghĩa hết sức to lớn đó là công cụ quản lý xã hội, mang lại những thành quả vô cùng to lớn trên con đường hiện đại hóa đất nước. Dư luận cũng góp phần rất tích cực nhằm hoàn thiện, thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay bởi “pháp luật không phải là công cụ quản lý vạn năng” do vậy trong pháp luật sẽ có những lỗ hổng thiếu sót nhất định, dư luận sẽ nêu ra biện pháp khắc phục mà pháp luật mắc phải. Dư luận xã hội luôn hỗ trợ cùng pháp luật trong việc điều chỉnh hành vi của con người, duy trì trật tự trong toàn xã hội cũng như trong mỗi cộng đồng. Mặc dù là công cụ pháp luật nhưng dư luận tồn tại dưới dạng các quan điểm, nhận xét nhiều hơn, do vậy dư luận ít nhiều mang tính chất nhất thời, không bền vững. Thông thường dư luận nổi lên rồi “lắng xuống” vào một thời gian nhất định.
Trong xã hội dư luận tác động mạnh mẽ tới ý thức, tư tưởng, riêng đối với pháp luật nó góp phần giáo dục nhận thức đúng đắn về điều tốt xấu, điều nào đúng pháp luật, điều nào trái pháp luật... Ngoài ra dư luận còn có tác dụng hình thành nhân cách con người.
Dư luận xã hội có thể chào đón, ủng hộ một văn bản pháp luật nào đó, ngược lại cũng có thể phản đối việc ban hành một quy định pháp luật nào đó. Vì vậy các cơ quan nhà nước khi ban hành bất kỳ một quy định pháp luật nào đó mang tính nhạy cảm thì nên thăm dò dư luận xã hội về vấn đề đó nắm bắt được phản ứng xã hội ủng hộ hay phản đối hay cũng có thể nghe những ý kiến đóng góp của dư luận xã hội về văn bản pháp luật đang có ý định ban hành. Từ đó cho thấy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi ban hành cũng như khi bãi bỏ các vấn đề xã hội nhạy cảm thì không thể không quan tâm đến dư luận xã hội.
Đối với việc thực hiên pháp luật thì dư luận xã hội có tác dụng như là cố vấn về mặt tinh thần. Việc thực hiện pháp luật đương nhiên phải dựa trên cơ sở pháp luật, nhưng nếu nhận được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận thì hiệu quả sẽ rất cao. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng pháp luật không phải khi nào cũng lường trước được mọi tình huống hay hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế, do vậy khi tổ chức thực hiện pháp luật các cơ quan nhà nước có chức trách thẩm quyền cần chú ý đến dư luận xã hội xem xã hội đồng tình hay phản đối hoạt động đó của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. . Dư luận xã hội cũng có thể tác động đòi hỏi các cơ quan tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật phải cân nhắc, xem xét lại hành vi, quyết định áp dụng pháp luật hay có thể phải tạm dừng các hoạt động đó.
Tuỳ theo vấn đề quan trọng hay không, tuỳ theo phản ứng của dư luận và kết quả nó mang lại hay hậu quả mà nó có thể gây ra, sẽ làm thay đổi cách ứng xử trong việc thực hiện pháp luật khác nhau. Nếu dư luận đi sai vấn đề, truyền bá tư tưởng, hoạt động sai trái thì việc thực hiện pháp luật cũng không còn nữa. Thay vào đó là những vi phạm pháp luật, và ngược lại. Chính lẽ đó mà việc thấy được, hiểu được dư luận trong tư tưởng của mỗi người luôn phải được chú trọng, quan tâm một cách đầy đủ về cả thông tin lẫn sự hiểu biết.
Việc thực hiện pháp luật một cách công khai sẽ làm cho nhân dân (dư luận) có niềm tin vào các cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ.
Xã hội học ra đời để đáp ứng nhu cầu thực tiễn và nhu cầu nhận thức các biến đổi xã hội nhằm hướng tới giải quyết những vấn đề cụ thể đang được đặt ra trong đời sống xã hội. Dư luận xã hội là một thuật ngữ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến, nó là hiện tượng đặc biệt thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, dư luận xã hội biểu thị những mối quan tâm, tình cảm, nguyện vọng, được thể hiện dưới dạng ý kiến phán xét, đánh giá của nhiều người về sự kiện, hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội nào đó xảy ra trong xã hội. Với tư cách là một hiện tượng đặc biệt đã và đang tồn tại trong xã hội thì dư luận xã hội cũng có những tính chất cơ bản riêng làm cho nó được phân biệt với tin đồn. Sau đây là bài phân tích của em về các bước hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội kèm theo đó là các ví dụ, đồng thời nhận xét tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1, Khái niệm dư luận xã hội.
Các nhà nghiên cứu về dư luận xã hội luôn bắt đầu công việc nghiên cứu của mình bằng những câu hỏi: Dư luận xã hội thực chất là gì? Công chúng có số lượng bao nhiêu thì được coi là một dư luận xã hội? Bản chất của dư luận xã hội?... Tuy nhiên, sự nhất trí của họ về các vấn đề này chưa cao. Dẫu rằng một khái niệm về dư luận xã hội khó nhận được một sự chấp nhận chung, nhưng điều đó không có nghĩa rằng dư luận xã hội không tồn tại, hay không có ý nghĩa nhất định nào đó trong các hoạt động của xã hội. Các ngành khoa học nói chung, các nhà nghiên cứu nói riêng có thể có những cách tiếp cận khác nhau trong quan niệm hay cách nghiên cứu về dư luận xã hội, song họ vẫn xác định dư luận xã hội là một thực thể tồn tại ở một dạng nhất định (dưới dạng tinh thần và thực tiễn, được thiết chế hóa hay có tính tự phát,...). Dư luận xã hội thực sự tồn tại và ảnh hưởng đến xã hội cũng như từng cá nhân.
Như vậy có thể đưa ra khái niêm về dư luận xã hội như sau : “Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến,thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sư quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hay hành động thực tiễn của họ “.
2, Các bước hình thành dư luận xã hội và các ví dụ cụ thể
Đối tượng của dư luận xã hội là những vấn đề được cộng đồng xã hội quan tâm liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng, có tầm quan trọng và có tính cấp bách, đòi hỏi phải có ý kiến phán xét, đánh giá hay cần đề xuất phương hướng giải quyết cụ thể. Chủ thể của dư luận xã hội chính là cộng đồng người hay nhóm người mang dư luận xã hội. Dư luận xã hội không phải là tổng cộng các ý kiến phán xét, đánh giá của các cá nhân mà phải thông qua trao đổi, bàn bạc, có sự tác động qua lại giữa các ý kiến mới hình thành nên sự phán xét đánh giá chung của số đông trong cộng đồng người.
Trong điều kiện bình thường, quá trình hình thành dư luận xã hội có thể chia thành các bước (giai đoạn) sau:
2.1 Giai đoạn hình thành thuộc ý thức cá nhân.
Các cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, được trực tiếp chứng kiến hay nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong xã hội. Họ tìm kiếm, sưu tập thêm các thông tin, trao đổi với nhau về nó, từ đó nảy sinh các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu về nội dung, tính chất của các sự việc, sự kiện. Nhưng lúc này, các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu đó là thuộc về mỗi người, thuộc lĩnh vực ý thức cá nhân.
2.2 Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người
Các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong nhóm xã hội. Cơ sở cho quá trình thảo luận trong nhóm xã hội là lợi ích chung của cả nhóm và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang chi phối các khuôn mẫu tư duy và khuôn mẫu hành vi của các thành viên trong nhóm. Thông qua quá trình trao đổi, bàn luận các suy nghĩ, các ý kiến xung quanh đối tượng của dư luận mà ý kiến đã được trao đổi chuyển dần từ lĩnh vực ý thức cá nhân sang lĩnh vực ý thức xã hội.
2.3. Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng.
Ở giai đoạn này, các thông tin, vấn đề không quan trọng. không phù hợp hay những thông tin nhiễu về đối tượng sẽ bị loại bỏ. Các nhóm trao đổi, tranh luận với nhau về những nội dung quan trọng, đưa ra các loại ý kiến khác nhau và thống nhất lại xung quanh các quan điểm cơ bản, cùng tìm đến những điểm chung trong quan điểm và ý kiến. Từ đó mà hình thành cách phán xét, đánh giá chung thỏa mãn được ý chí của đại đa số các thành viên trong cộng đồng người. Cơ sở cho quá trình tranh luận này vẫn là lợi ích chung và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội chung cùng được các nhóm xã hội chia sẻ và thừa nhận.
2.4 Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn
Nếu như luồng dư luận xã hội chỉ hình thành một cách thuần túy rồi để đấy, chẳng có vai trò, tác dụng gì đối với cộng đồng thì có lẽ nó chỉ là hiện tượng vô nghĩa. Trên thực tế, vấn đề không phải chỉ dừng lại ở đấy. Từ sự phán xét đánh giá chung, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành động thống nhất, nêu lên những kiến nghị, những biện pháp về hoạt động thực tiễn của họ trước thực tiễn của họ trước thực tế cuộc sống nhất định.
Như vậy, dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Không có sự trao đổi, bàn bạc, thảo luận, thậm chí va đập các ý kiến với nhau thì không thể có ý kiến phán xét, đánh giá chung được đông đảo mọi người chia sẻ, tán thành và ủng hộ.
Ví dụ: Vụ án nữ sinh đánh hội đồng bạn ở một trường cấp 3, Quảng Ninh cuối năm 2010 đã gây chấn động dư luận.
- Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người: Khi vụ việc diễn ra đã có một nhóm học sinh quay phim lén rồi tung lên mạng. Đoạn phim đã được đưa lên các trang web, Facebook, Twitter…Những người biết về vụ việc này tiếp tục tìm kiếm thông tin rồi lan truyền cho những người khác, họ tự tìm kiếm thông tin, tự đánh giá, từ đó nảy sinh suy nghĩ của mỗi người về hành vi đánh bạn dã man của nhóm nữ sinh, song đó chỉ là những ý kiến của riêng mỗi người, ở trong ý thức của mỗi người.
- Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người: Khi nắm bắt được đầy đủ thông tin về vụ việc nữ sinh đánh bạn và có những ý kiến của riêng mình thì mọi người bắt đầu trao đổi, bàn luận với nhau. Đi ra đường đâu đâu người ta cũng nhắc đến sự việc này. Ở trường học, các học sinh truyền tay nhau clip ấy rồi bàn tán xem nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của vụ việc đến đâu, các giáo viên thì cùng nhau nhận xét đánh giá hành vi của nhóm nữ sinh ấy, ở các sạp báo, quán café báo mọi người đọc rồi bàn tán xôn xao, các bậc phụ huynh trao đổi, lấy sự việc ấy ra làm gương để răn dạy con cái,…Câu chuyện nữ sinh đánh bạn dã man đã được thảo luận sôi nổi và nhanh chóng trở thành chủ đề nóng trong xã hội đặc biệt là ở các trường học. Thậm chí các bạn học sinh còn thêm thắt nhiều yếu tố mới vào câu chuyện như: nguyên nhân bị đánh là cướp người yêu của bạn, hay chỉ vì một cái lườm nguýt, hay đây là hai nhóm nữ sinh vốn đã gườm mặt nhau từ lâu…
- Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng: sau khi câu chuyện về nữ sinh đánh hội đồng bạn được trao đổi, bàn tán khá rộng rãi thì các nhóm đi đến tranh luận với nhau về hành vi này. Trên các trang báo mạng, bình luận (comment) của độc giả tràn ngập. Một số người tỏ ra khá thản nhiên với sự việc này vì họ cho rằng đây là “chuyện bình thường ở huyện” hay “trường tớ cứ mấy ngày lại có một vụ như thế ở cổng trường, có gì đâu”, một số khác (đặc biệt là các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo) vô cùng bất ngờ, phẫn nộ và bày tỏ sự thất vọng với tư cách của học sinh ngày nay…Mặc dù thái độ với sự việc trên của mọi người là khác nhau song đại đa số mọi người đều nhận ra sự xuống cấp nghiêm trọng của ý thức của nữ sinh bây giờ, họ cho rằng trách nhiệm này thuộc về bản thân các em, gia đình, nhà trường và cả xã hội..
- Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn: Sau khi nhận ra sư suy đồi đạo đức trong một bộ phận học sinh, họ mong muốn các cơ quan có trách nhiệm phải vào cuộc để hạn chế những hành vi bạo lực học đường đang xảy ra như thế này và quan tâm giáo dục các em hơn nữa...Trước sức ép của dư luận xã hội, công an tỉnh Quảng Ninh đã vào cuộc điều tra, các bậc phụ huynh của nhóm nữ sinh này đã trao đổi với nhau để tìm ra giải pháp hòa giải, nhà trưởng lên tiếng hứa sẽ quản lý chặt chẽ và quan tâm đến học sinh hơn nữa không chỉ ở trong trường mà còn cả các hành vi của các em ngoài xã hội, các học sinh cũng coi đó là tấm gương để rút ra bài học cho bản thân…
Tuy nhiên, khi nghiên cứu sự hình thành dư luận xã hội cần chú ý tới hai khía cạnh sau đây:
Một là không phải trong bất kỳ trường hợp nào sự hình thành dư luận xã hội cũng phải trải qua bốn giai đoạn hình thành như trình bày trên. Thông thường sự tuân thủ cả bốn giai đoạn nêu trên chỉ diễn ra khi đối tượng của dư luận xã hội là các sự kiện, hiện tượng xã hội mới và phức tạp. Khi đa số người dân chưa có hay chưa xác định được thái độ, cách ứng xử phù hợp với thực tế cuộc sống thì khi đó, sự hình thành dư luận xã hội có thể kéo dài hàng tháng, hàng năm, thậm chí lâu hơn. Cũng có nhiều trường hợp dư luận xã hội hình thành một cách tức thời, nhanh chóng, phổ biến, lan truyền mạnh mẽ trước những biến cố đặc biệt như thiên tai, chiến tranh, các vụ giết người dã man…
Hai là việc duy trì sự quan tâm của người dân đối với các vấn đề đang diễn ra trong xã hội là một trong những điều kiện tiên quyết cho việc hình thành dư luận xã hội. Không phải sự việc, sự kiện nào cũng thu hút được sự quan tâm, chú ý hay gây tranh luận cho tất cả các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội. Sở dĩ, như vậy là do thiếu các thông tin về sự việc, sự kiện. Các cá nhân hay nhóm xã hội, nếu không được tiếp nhận thông tin thì không thể có bất cứ ý kiến chủ động nào. hay có những cá nhân hay nhóm xã hội sẽ rút ra khỏi các cuộc thảo luận khi phát hiện ra rằng lợi ích của họ không có quan hệ gì với vấn đề đang diễn ra. Do đó, cần có cách nhìn nhận và hoạt động thực tế nghiêm túc để đảm bảo cung cấp thông tin một cách rộng rãi tới đông đảo các tầng lớp nhân dân.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội
Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố khác nhau, cả chủ quan và khách quan về kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ nhận thức…Dưới đây là những yếu tố chính tác động đến sự hình thành dư luận xã hội:
3.1 Tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã hội đang diễn ra trong xã hội.
Dư luận xã hội là hiện tượng tinh thần phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó trước hết phụ thuộc vào qui mô, cường độ và tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội mà nó phản ánh; đồng thời phụ thuộc vào ý nghĩa của các sự việc, sự kiện đó đối với các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay tinh thần của cộng đồng người mang dư luận. Khuynh hướng chung trong các ý kiến đánh giá và thái độ của công chúng là bày tỏ sự tán thành, ủng hộ đối với những sự việc, sự kiện phù hợp với các nhu cầu, lợi ích của mình và lên tiếng phê phán hay phản đối những sự việc, sự kiện đi ngược lại, xâm hại tới lợi ích của họ.
Trong thực tế xã hội có những sự việc, sự kiện xảy ra ban đầu chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của nhóm xã hội nhất định, nhưng sự phát triển tiếp theo đã cho thấy sự liên quan của chúng tới lợi ích của các nhóm xã hội khác. Trong bối cảnh đó các nhóm xã hội sẽ bước vào cuộc trao đổi ý kiến, thảo luận tại các thời điểm khác nhau.
Như vậy, muốn nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc phát sinh dư luận xã hội thì phải xuất phát từ chính bản thân các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong thực tế xã hội vơi qui mô, cường độ và tính chất của chúng.
Ví dụ:
Trường hợp tăng giá xăng dầu trong những ngày gần đây. Xăng dầu cung cấp nguyên liệu cho giao thông vận tải, cho gia dụng, các loại máy kỹ thuật…Tăng giá xăng dầu kéo theo nhiều mặt hàng tăng giá, trong đó tiền lương lại không tăng đồng nhất đã gây ra nhiều khó khăn cho người dân. Việc tăng giá xăng ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến quyền lợi của đại số người dân vì thế nó nhanh chóng tạo nên làn sóng dư luận lớn trong xã hội, chiếm được nhiều sự quan tâm của xã hội.
3.2. Hệ tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế xã hội của con người
Hệ tư tưởng, trình độ học vấn của con người cũng ảnh hưởng quan trọng tới khuynh hướng, chiều sâu, tính chất phản ánh đúng hay sai của các ý kiến, các quan điểm phán xét, đánh giá đối với sự việc, sự kiện. Chẳng hạn, ở những nhóm xã hội có trình độ học vấn cao, các cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận nguồn thông tin, phân tích một cách khoa học về nội dung, bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân của các sự việc, sự kiện…từ đó mà đưa ra các phán xét, đánh giá phù hợp về sự việc, góp phần hình thành những dư luận xã hội tích cực, có lợi cho cộng đồng, cho dân tộc hay cho quốc gia. Ngược lại ở những nhóm xã hội có trình độ học vấn thấp, người ta có thể dễ dàng tin tưởng vào những điều nhảm nhí, những tin tức thất thiệt, vô tình tham gia vào việc lan truyền những tin đồn nhảm, gây hậu quả xấu cho các cá nhân, các nhóm xã hội.
Ví dụ:
Báo Dân trí mới đây đưa tin người dân đổ xô đi thu mua thậm chí định nuôi đỉa để bán cho người Trung Quốc. Với nguồn thông tin này này, các nhà báo, nhà kinh tế,xã hội, thầy thuốc cho rằng: nên kiểm soát sự việc này vì đỉa là loại động vật rất nguy hiểm với con người và cây trồng, lại rất khó tiêu hủy, chỉ cần thiêu không hết là đỉa lại có thể sinh trưởng trở lại bằng một tế bào cũ, nếu đổ xô đi nuôi đỉa đến khi các lái buôn Trung Quốc không thu mua nữa thì sẽ rất nguy hiểm,…Trong khi đó những người nông dân có trình độ học vấn thấp không nhìn thấy điều đó họ chỉ tin rằng người Trung Quốc thu mua đỉa với giá rất cao, nuôi đỉa sẽ giàu lên nhanh chóng, họ đổ xô đi bắt đỉa bằng mọi cách, bất chấp đỉa có thể chui vào tai, vào người sinh sôi nảy nở trong người, thậm chí một số người định nuôi đỉa…
3.3 Thông tin đại chúng
- Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải kịp thời và đầy đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội
- Các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai
- Các phương tiện thông tin đại chúng điều chỉnh, định hướng sự phát triển của dư luận xã hội
Ví dụ:
Trước đây chủ yếu là báo in nhưng ngày nay báo mạng phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển nhanh chóng của các tờ báo mạng đã đưa thông tin nhanh chóng đến người dân, họ nắm bắt thông tin, bày tỏ ý kiến rất sôi nổi trên các diễn đàn vì thế mà dư luận xã hội nhanh chóng được tạo ra và lan truyền với tốc độ chóng mặt.
3.4 Những nhân tố thuộc về tâm lý xã hội
Trạng thái tâm lý xã hội thường biểu hiện ở nhiều nhân tố như thói quen, nếp sống, ý chí, tâm trạng hay tình cảm của nhóm xã hội, cộng đồng người đã được hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày hay do tác động của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ảnh hưởng của những nhân tố này có nhiều mặt đôi khi khó nhận biết. Tùy từng thời điểm nhất định, tâm trạng của con người có thể được biểu hiện ở các trạng thái khác nhau, thậm chí đối lập nhau như hưng phấn hay ức chế; tích cực hay tiêu cực; lạc quan hay bi quan; yêu đời hay chán nản; hi vọng hay thất vọng… Khi con người đang ở trong tâm trạng vui vẻ thì nội dung phán xét sẽ khác với khi đang ở trong tâm trạng buồn chán, bi quan.
Ví dụ:
Trước đây người phụ nữ không được coi trọng, dư luận xã hội lúc bấy giờ công khai công nhận “trọng nam khinh nữ”. Nhưng bây giờ tâm lý xã hội đã đổi mới vì thế mà dư luận xã hội cũng thay đổi theo người ta đã công nhận tài năng, sự cố gắng và vai trò to lớn của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội. Như vậy tâm lý xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến dư luận xã hội.
3.5 Hoàn cảnh sinh hoạt chính trị - xã hội
Trong điều kiện xã hội có dân chủ rộng rãi, có thông tin đa dạng, phong phú thì mọi người dân sẵn sang thẳng thắn, cởi mở, bộc lộ ý kiến, quan điểm của mình tham gia bàn bạc các vấn đề chung do vậy dư luận xã hội có điều kiện hình thành thuận lợi. Ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin cùng kiệt nàn, thậm chí bị cắt xén, xuyên tạc thì dư luận xã hội thường hình thành khó khăn, chậm chạp. Dưới các chế độ mà quyền dân chủ bị thủ tiêu thì dư luận xã hội càng khó hình thành và phát huy tác dụng.
Ví dụ:
Trong nhà nước dân chủ của ta hiện nay, người dân được tự do bộc lộ ý kiến. Đặc biệt là trong việc khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên của Chính phủ. Sự việc này đã nhận được những đóng góp đông đảo của người dân đặc biệt là tầng lớp trí thức, họ được quyền phát ngôn rộng rãi ý kiến, được thể hiện thái độ của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, vì thế mà khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên luôn là đề tài nóng hổi và nhận được sự quan tâm đông đảo của dư luận xã hội trong suốt mấy năm nay.
3.6 Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội đang hiện hành trong xã hội.
Về cơ bản các phong tục tập quán, các giá trị, chuẩn mực xã hội hiện hành tạo ra những khuôn mẫu tư duy, khuôn mẫu hành động làm cơ sở cho việc phán xét, đánh giá của dư luận xã hội về các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội đang diễn ra. Tuy nhiên, ngay trong cùng xã hội, các nhóm xã hội có thể đưa ra các phán xét khác nhau về cùng vấn đề. Điều này thể hiện rõ nét qua sự nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ.
Ví dụ:
Về vấn đề sống thử trước hôn nhân, dư luận xã hội về vấn đề này rất phức tạp. Sống thử không được chấp nhận vì nó đi ngược lại phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, quan niệm về trinh tiết của người con gái và những hệ quả tiêu cực “hậu sống thử”. Nhưng với một nhóm người khác lại ủng hộ vấn đề này vì nó giải quyết được nhiều vấn đề rất thiết thực: như bù đắp tình cảm, giải quyết vấn đề tài chính, hay “chạy thử mới biết thật ra sao”…Như vậy các phong tục tập quán, chuẩn mực xã hội có tác động lớn đến sự hình thành dư luận xã hội song trong cùng xã hội không phải ai cũng dựa vào những chuẩn mực ấy để đánh giá vì thế mà dẫn đến sự nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ.
4,Tác dụng của dư luận xã hội học đối với lĩnh vực pháp luật.
Dư luận xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như tâm lý học, chính trị học, sử học và đặc biệt là xã hội học. Nếu như tâm lý học nghiên cứu dư luận xã hội dưới dạng nghiên cứu tâm lý đám đông, vô thức tập thể, các nhà chính trị học, sử học nhấn mạnh tới vai trò của dư luận xã hội trong các quá trình quản lý xã hội, và ảnh hưởng của nó đối với các chính sách của chính phủ, thì xã hội học đi vào bản chất xã hội của dư luận xã hội. Xã hội học tập trung mối quan tâm của mình vào quá trình hình thành - phổ biến - tiếp nhận dư luận xã hội, tác động của dư luận xã hội đối với các mặt hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,...) và từng nhóm xã hội, cũng như chú trọng đến việc đo đạc dư luận xã hội.
Dư luận xã hội tồn tại từ lâu đời cùng với xã hội loài người, được xem là có trước cả luật pháp, có tác dụng là phương tiện giáo dục, định hướng và điều chỉnh hành vi. Khi người ta nói đến dư luận xã hội, thường là người ta nghĩ đến những đánh giá của cộng đồng đối với những sự kiện xã hội nhất định. Những đánh giá này dù có chủ định hay không chủ định nhắm tới một ai, song ai cũng xem đó là một đánh giá mà mình cần xem xét đến mỗi khi hành động. Vì vậy mà dư luận xã hội sẽ góp phần quan trọng và việc tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của người dân.
Thông qua dư luận xã hội, nhân dân có điều kiện bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về các vấn đề kinh tế, chính trị, đạo đức...
Việc hiểu được vai trò của dư luận xã hội sẽ giúp những người làm công tác lãnh đạo và quản lý có được cái nhìn đa chiều. Lắng nghe dư luận cũng có nghĩa là lắng nghe lòng dân để từ đó có những biện pháp xây dựng pháp luật phù hợp xác đáng với mọi công dân đồng thời cũng có những chính sách khắc phục những quyết định, những ý chí biểu hiệu quan liêu, xa rời quần chúng.
Ở nước ta hiện nay pháp luật có ý nghĩa hết sức to lớn đó là công cụ quản lý xã hội, mang lại những thành quả vô cùng to lớn trên con đường hiện đại hóa đất nước. Dư luận cũng góp phần rất tích cực nhằm hoàn thiện, thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay bởi “pháp luật không phải là công cụ quản lý vạn năng” do vậy trong pháp luật sẽ có những lỗ hổng thiếu sót nhất định, dư luận sẽ nêu ra biện pháp khắc phục mà pháp luật mắc phải. Dư luận xã hội luôn hỗ trợ cùng pháp luật trong việc điều chỉnh hành vi của con người, duy trì trật tự trong toàn xã hội cũng như trong mỗi cộng đồng. Mặc dù là công cụ pháp luật nhưng dư luận tồn tại dưới dạng các quan điểm, nhận xét nhiều hơn, do vậy dư luận ít nhiều mang tính chất nhất thời, không bền vững. Thông thường dư luận nổi lên rồi “lắng xuống” vào một thời gian nhất định.
Trong xã hội dư luận tác động mạnh mẽ tới ý thức, tư tưởng, riêng đối với pháp luật nó góp phần giáo dục nhận thức đúng đắn về điều tốt xấu, điều nào đúng pháp luật, điều nào trái pháp luật... Ngoài ra dư luận còn có tác dụng hình thành nhân cách con người.
Dư luận xã hội có thể chào đón, ủng hộ một văn bản pháp luật nào đó, ngược lại cũng có thể phản đối việc ban hành một quy định pháp luật nào đó. Vì vậy các cơ quan nhà nước khi ban hành bất kỳ một quy định pháp luật nào đó mang tính nhạy cảm thì nên thăm dò dư luận xã hội về vấn đề đó nắm bắt được phản ứng xã hội ủng hộ hay phản đối hay cũng có thể nghe những ý kiến đóng góp của dư luận xã hội về văn bản pháp luật đang có ý định ban hành. Từ đó cho thấy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi ban hành cũng như khi bãi bỏ các vấn đề xã hội nhạy cảm thì không thể không quan tâm đến dư luận xã hội.
Đối với việc thực hiên pháp luật thì dư luận xã hội có tác dụng như là cố vấn về mặt tinh thần. Việc thực hiện pháp luật đương nhiên phải dựa trên cơ sở pháp luật, nhưng nếu nhận được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận thì hiệu quả sẽ rất cao. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng pháp luật không phải khi nào cũng lường trước được mọi tình huống hay hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế, do vậy khi tổ chức thực hiện pháp luật các cơ quan nhà nước có chức trách thẩm quyền cần chú ý đến dư luận xã hội xem xã hội đồng tình hay phản đối hoạt động đó của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. . Dư luận xã hội cũng có thể tác động đòi hỏi các cơ quan tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật phải cân nhắc, xem xét lại hành vi, quyết định áp dụng pháp luật hay có thể phải tạm dừng các hoạt động đó.
Tuỳ theo vấn đề quan trọng hay không, tuỳ theo phản ứng của dư luận và kết quả nó mang lại hay hậu quả mà nó có thể gây ra, sẽ làm thay đổi cách ứng xử trong việc thực hiện pháp luật khác nhau. Nếu dư luận đi sai vấn đề, truyền bá tư tưởng, hoạt động sai trái thì việc thực hiện pháp luật cũng không còn nữa. Thay vào đó là những vi phạm pháp luật, và ngược lại. Chính lẽ đó mà việc thấy được, hiểu được dư luận trong tư tưởng của mỗi người luôn phải được chú trọng, quan tâm một cách đầy đủ về cả thông tin lẫn sự hiểu biết.
Việc thực hiện pháp luật một cách công khai sẽ làm cho nhân dân (dư luận) có niềm tin vào các cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: Dư luận xã hội là gì? Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành dư luận? Việc nghiên cứu các giai đoạn hình thành dư luận xã hội có ý nghĩa gì đối với công tác công an? (Sự kiện nổi bật quan tâm, ví dụ: an ninh quốc phòng -> dư luận xã hội quan tâm đến điều gì). Có phải tất cả các hiện tượng trong xã hội đều trở thành dư luận xã hội hay không hay chỉ là một số? Vai trò của dư luận xã hội (lên án, cổ vũ, khuyến khích. Định hướng, kiểm duyệt,…) vd chiến sĩ Thái Ngô Hiếu., vấn đề được truyền thông quan tâm, phản ánh mạnh mẽ, tạo dư luận xã hội, buộc các cơ quan có thẩm quyền vào cuộc, nghiên cứu vấn đề và khi thấy rõ tầm quan trọng của nó đã nâng lên thành vấn đề chính sách, Nêu các ví dụ về nếp sống nông thôn tại đô thị, và ảnh hưởng của nó tới quản lý đô thị hiện nay., phan tich các giai đoạn hình thành dư luận xã hội, Phân tích các bước hình thành nên dư luận xã hội, Tiểu luận viết về dư luận xã hội và thông tin ở việt nam hiện nay
Last edited by a moderator: