HEHE_BLOG

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhượng quyền thương mại - Franchising - đã ra đời và phát triển trong hơn sáu thập kỷ qua tại nhiều nước Âu - Mỹ. Còn tại Việt Nam, dù đã manh nha hình thành cách đây gần chục năm, nhưng hiện nay nhượng quyền thương mại vẫn là cách kinh doanh hoàn toàn khá mới mẻ. Với việc chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới thì vấn đề này càng phải được quan tâm nhiều hơn, nó đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan quản lý phải đưa ra được những quy định, chính sách để cho loại hình này phát triển phù hợp với thông lệ của quốc tế và phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi đó pháp luật Việt Nam đã có một số quy định về vấn đề nhượng quyền thương mại, qua bài niên luận này em xin đi sâu vào việc tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề nhượng quyền thương mại.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại , đồng thời nghiên cứu một số nét cơ bản về hệ thống pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại, kết hợp với việc xem xét thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam và trên thế giới. Trên cơ sở đó đưa ra một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Niên luận lấy phương pháp duy vật Mac- Lênin làm phương pháp chủ đạo trong quá trình nghiên cứu đề tài. Ngoài ra niên luận còn sử dụng một số phương pháp khác không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học pháp lý như phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp liệt kê…các phương pháp này được sử dụng đan xen lẫn nhau để có thể xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng nhượng quyền thương mại.

4. Cơ cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại
Chương 2: Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại và thực tiễn áp dụng.








NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm
1.1. Một số khái niệm trên thế giới
Khái niệm nhượng quyền của Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise Association):
Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise Association) là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế giới đã nêu ra Khái niệm nhượng quyền thương mại như sau:
"Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hay phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, cách, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hay kiểm soát; và Bên nhận đang, hay sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình".
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU):
EC Khái niệm quyền thương mại là một "tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hay sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hay cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng". Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được Khái niệm ở trên.
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Mêhicô:
Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy định:
"Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hay hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hay bán sản phẩm, hay cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương mại, hay hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng (prestige), hình ảnh của sản phẩm, hay dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó."
Khái niệm nhượng quyền thương mại của Nga:
Chương 54, Bộ luật dân sự Nga Khái niệm bản chất pháp lý của "sự nhượng quyền thương mại" như sau:
"Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ,.."
Tất cả các Khái niệm về nhượng quyền thương mại trên đây đều dựa trên quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại mỗi nước. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các điểm chung trong tất cả những Khái niệm này là việc một Bên độc lập (Bên nhận) phân phối (marketing) sản phẩm, hay dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ, và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một Bên khác (Bên giao) phát triển và sở hữu; để được phép làm việc này, Bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn chế do Bên giao quy định.
1.2. Theo pháp luật Việt Nam
Theo Điều 284 Luật Thương mại 2005
“ Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1.Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2.Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
2. Đặc điểm
Theo như định nghĩa ở trên thì nhượng quyền thương mại có những đặc điểm sau:
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện, tham gia vào hoạt động nhượng quyền thương mại gồm có bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại. Hai bên này đều phải là các thương nhân và có tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau. Sau khi nhận quyền thương mại, bên nhận quyền thương mại được tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên cơ sở sự cho phép của bên nhượng quyền thương mại để khai thác lợi ích cho chính mình.
- Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại có sự chuyển giao “ quyền thương mại” gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ đó là “ cách thức tổ chức kinh doanh… nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo” của bên nhượng quyền cho bên nhận quyền.
- Bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại luôn tồn tại “ quyền kiểm soát và trợ giúp” rất gắn bó và mật thiết. Đây được coi là một đặc điểm nổi bật của nhượng quyền thương mại so với các hoạt động thương mại khác. Nhượng quyền thương mại thực chất là việc mở rộng mô hình kinh doanh đã thành công trên thị trường bằng cách chia sẻ quyền kinh doanh thương mại cho các thương nhân nhận quyền. Tuy nhiên việc mở rộng mô hình kinh doanh, bên nhượng quyền thương mại luôn phải đối mặt với nguy cơ giảm uy tín thương mại nếu bên nhận quyền không thực hiện đúng cam kết. Điều này đòi hỏi bên nhượng quyền phải kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền, khiến bên nhận quyền phải tuân thủ chặt chẽ mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền, qua đó bảo vệ được thương hiệu của mình.
- Cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ nhượng quyền thương mại chính là hợp đồng nhượng quyền thương mại, chính hợp đồng thương mại thể hiện việc thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoậc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Theo Điều 285 Luật Thương mại 2005 thì “ hợp đồng thương mại phải được lập thành văn bản hay bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”
Tuy theo tiêu chí xem xét, người ta có thể chia ra làm nhiều loại hợp đồng nhượng quyền.
Căn cứ vào quy mô và tính phân quyền:
a) Hợp đồng nhượng quyền đơn lẻ (Single franchise contract):
Là hợp đồng nhượng quyền cơ bản mà bên nhượng quyền ký với bên nhượng quyền, theo đó, bên nhận quyền được thành lập một đơn vị kinh doanh theo cách nhượng quyền, và không được phép nhượng quyền lại.
b) Hợp đồng tái nhượng quyền (master franchise contract):
Là hợp đồng nhượng quyền mà bên nhận quyền được phép nhượng quyền lại thêm lần nữa trong phạm vi cho phép của bên nhượng quyền về số lần được tái nhượng quyền trong một khu vực, lãnh thổ nhất định. Theo hợp đồng này, bên nhận quyền ban đầu sẽ trở thành bên nhượng quyền thứ cấp, bên nhượng quyền ban đầu vẫn tiếp tục được hưởng lợi từ việc tái nhượng quyền của bên nhượng quyền thứ cấp.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Gold999

New Member

Download Đề tài Pháp luật về nhượng quyền thương mại miễn phí





MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài 1
3. Phương pháp nghiên cứu 1
4. Cơ cấu của niên luận 2
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 3
1. Khái niệm 3
1.1. Một số khái niệm trên thế giới 3
1.2. Theo pháp luật Việt Nam 4
2. Đặc điểm 5
3. Bản chất 7
4. Ý nghĩa của hoạt động nhượng quyền thương mại(NQTM) 8
4.1. Đối với bên nhượng quyền 8
4.2. Đối với bên nhận quyền 9
5. Phân biệt nhượng quyền thương mại và các hình thức kinh doanh khác 11
5.1. NQTM và lisence đối tượng sở hữu trí tuệ 11
5.2. NQTM và chuyển giao công nghệ 12
5.3. NQTM và đại lý thương mại 13
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG. 15
1. Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại 15
1.1. Quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại trong Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn 16
1.2. Quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại trong các văn bản khác 24
2. Thực tiễn của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới và Việt Nam 25
2.1. Trên thế giới 25
2.2. Tại Việt Nam 27
3. Đánh giá chung về các quy định pháp luật 30
3.1.Về thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại 30
3.2 Vấn đề xây dựng, cung cấp bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại 31
3.3. Những quy định đối kháng, giữa các văn bản liên quan 33
4. Một số kiến nghị 34
KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ghê từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ. Như vậy giữa NQTM và chuyển giao công nghệ có đặc điểm chung chính là ở nội dung chuyển giao quy trình kỹ thuật và bí quyết kinh doanh, vì thế giữa hai cách này nhiều khi vẫn có sự nhầm lẫn, Tuy nhiên đây là hai hình thức kinh doanh khác nhau về bản chất, trong chuyển giao công nghệ, bên có quyển chuyển giao có thể chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng công nghệ, nhưng trong hợp đồng NQTM, đối tượng chuyển giao chỉ có thể là quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ. Mặt khác, khi tham gia quan hệ chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao chỉ nhằm mục đích ứng dụng nó vào quá trình sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm; còn mục đích tham gia quan hệ nhượng quyền của bên nhận quyền là việc tìm kiếm lợi nhuận bằng cách khai thác giá trị thương hiệu đã thành công của bên nhượng quyền.
Sau khi được chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao có thể sử dụng theo bất kỳ tên thương mại, kiểu dáng, thương hiệu nào mà họ muốn. Ngược lại, bên nhận quyền chỉ được sử dụng công nghệ mà mình nhận được để sản xuất hàng hoá và cung ứng các loại dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức, dưới nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại của bên nhượng quyền.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa các chủ thể trong hai hình thức kinh doanh này cũng khác nhau. Nếu như trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, giữa các bên không có quan hệ gì sau khi công nghệ được chuyển giao thì ngược lại, quan hệ giữa các chủ thể trong hợp đồng NQTM rất chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau.
5.3. NQTM và dại lý thương mại
Đại lý thương mại là hoạt đông thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá, hay cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý để hưởng thù lao.
Về hình thức, NQTM và đại lý thương mại đều là việc cùng phân phối hàng hoá, dịch vụ trên thương hiệu doanh nghiệp khác, tuy nhiên về bản chất thì NQTM và đại lý thương mại tương đối khác nhau:
Thứ nhất, bên nhận quyền trong quan hệ NQTM là một pháp nhân độc lập, tiến hành phân phối hàng hoá, dịch vụ cho chính mìnhvà tự hạch toán tài chính trong hoạt động kinh doanh của mình. Còn bên nhận đại lý trong đại lý thương mại chỉ là thay mặt của doanh nghiệp trong việc phân phối, cung ứng dịch vụ theo mức giá quy định của doanh nghiệp đó, bên nhận đại lý sẽ nhận được khoản hoa hồng từ phía doanh nghiệp tính trên doanh số bán được của đại lý đó
Thứ hai, trong quan hệ đại lý thương mại bên nhận đại lý không phải trả khoản phí nào cho doanh nghiệp khi trở thành đại lý của doanh nghiệp, không chỉ vậy, trong suốt quá trình kinh doanh, bên nhận đại lý còn được hưởng thù lao do bên giao đại lý trả (gọi là hoa hồng) cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngược lại, bên nhận quyền trong NQTM muốn than gia vào mạng lưới nhượng quyền phải trả cho bên nhượng quyền khoản phí ban đầu để mua "quyền thương mại", đồng thời trong suốt qúa trình kinh doanh, bên nhận quyền còn phải đóng các khoản phí hàng tháng để tiếp tục duy trì sử dụng các đối tượng .
Một điểm phân biệt khá quan trọng giữa NQTM và đại lý thương mại chính là cách bài trí cửa hàng. Đối với các cửa hàng nhượng quyền bên nhận quyền bắt buộc phải bố trí thiết kế cửa hàng theo đúng quy định của bên nhượng quyền. Nhưng với các cửa hàng đại lý, bên nhận đại lý được toàn quyền quyết định việc bài trí cửa hàng, không chịu bất kỳ sức ép nào từ bên giao đại lý.
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
1. Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản điều chỉnh quan hệ nhượng quyền thương mại. Quan hệ nhượng quyền thương mại rất phức tạp, phụ thuộc vào đối tượng “ quyền thương mại” được chuyển giao đến mức độ như thế nào mà mỗi hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể có những đặc trưng riêng và đặt ra những yêu cầu riêng cho việc áp dụng pháp luật. Vì vậy pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại cũng rất đa dạng và phong phú.
Trong những năm 90, khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được luật hóa. Năm 1998, lần đầu tiên thông tư 1254/BKHCN/1998 hướng dẫn Nghị định 45/CP/1998 về chuyển giao công nghệ, tại mục 4.1.1, có nhắc đến cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng Anh gọi là franchise...”.
Tháng 02/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ, trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh doanh cũng được xem là chuyển giao công nghệ, do đó chịu sự điều chỉnh của nghị định này. Tiếp đến, tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định rằng hành vi cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển giao công nghệ.
Kể từ năm 2006, franchise chính thức được luật hoá và công nhận. Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực từ 01/01/2006) đã dành nguyên Mục 8 Chương VI để quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, đến ngày 25/5/2006 thì Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ bản nhất, tương đối đầy đủ để điều chỉnh và tạo điều kiện cho franchise phát triển tại Việt Nam.
Năm 2004, Hội đồng Nhượng quyền thương mại Thế giới (WFC) đã tiến hành một cuộc điều tra với kết quả khẳng định rằng: đã tồn hơn 65 hệ thống franchise hoạt động tại Việt Nam, đa số là các thương hiệu nước ngoài. Mặc dù còn khá ít so với các quốc gia láng giềng, nhưng với tình thế hiện nay, khi franchise đã được luật hóa, Việt Nam chính thức bước qua cửa WTO, đã có nhiều nhận định rằng hoạt động franchise sẽ phát triển như vũ bão.
1.1. Quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại trong Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn
- Trong Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thì điều chỉnh trực tiếp hoạt động nhượng quyền thương mại và vấn đề nhượng quyền thương mại được ghi nhận từ Điều 284 đến Điều 291 trong Luật thương mại. Luật Thương mại mới chỉ đề cập những vấn đề chung nhất về nhượng quyền thương mại, đó là các quyền và nghĩa vụ của thương nhân nhượng quyền và thương nhân nhận quyền; nhượng quyền lại cho bên thứ 3; đăng ký nhượng quyền thương mại.
Khi thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại thì tại điều 286 và điều 287 có quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân nhượng quyền như sau:
*“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các quyền sau đây:
1. Nhận tiền nhượng quyền;
2. Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới nhượng quyền thương mại;
3. Kiểm tra định kỳ hay đột xuất hoạt động của bên nh
Bài viết quá tuyệt vời
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top