ngohuythanh_112
New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện thị trấn Kiện Khê huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam (trong bối cảnh xây dựng đời sống văn hóa mới) : Luận văn ThS. Khu vực học : 60 31 60
Nhà xuất bản: Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển
Ngày: 2013
Chủ đề: Việt Nam học
Giáo xứ
Công giáo
Hà Nam
Miêu tả: 123 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Việt Nam học -- Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, 2013. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Tìm hiểu lịch sử hình thành và đặc điểm của giáo xứ Sở Kiện. Chỉ ra những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện qua giáo lý, nghi lễ, hội đoàn và các phương diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục. Chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế nhất định của lối sống đạo đó đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phương, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao lối sống đạo ấy
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU ...........................................................................................................8
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................8
2. Lịch sử nghiên cứu ..........................................................................................9
3. Mục tiêu, nhiêṃ vu.̣ ....................................................................................... 11
4. Phạm vi nghiên cứu. ...................................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 12
6. Đóng góp của luận văn................................................................................... 12
7. Cấu trúc luận văn. .......................................................................................... 13
B. NỘI DUNG...................................................................................................... 14
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO XỨ SỞ KIỆN............................ 14
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển giáo xứ Sở Kiện........................................ 14
1.1.1. Tên gọi của giáo xứ .............................................................................. 14
1.1.2. Cơ sở vật chất tôn giáo của giáo xứ. ..................................................... 15
1.1.3. Dòng tu của giáo xứ ............................................................................. 23
1.2. Đặc điểm giáo xứ Sở Kiện .......................................................................... 29
1.2.1. Cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện ................................................... 29
1.2.2. Đời sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện ........................ 36
Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN SỐNG ĐẠO CỦA CỘNG ĐỒNG GIÁO
DÂN GIÁO XỨ SỞ KIỆN .................................................................................. 41
2.1. Giáo lý Công giáo và đời sống đạo ......................................................... 41
2.1.1. Bí tích Công giáo và đời sống đạo ........................................................ 42
2.1.2. Giới răn Công giáo và đời sống đạo . ....................................................... 52
2.2. Nghi lễ Công giáo và đời sống đạo ............................................................. 70
2.2.1. Nghi thức thánh lễ ngày chúa nhật và đời sống đạo ............................ 71
2.2.2. Nghi thức thánh lễ các ngày lễ trọng và đời sống đạo .......................... 73
2.2.3. Thánh lễ ngày lễ quan thầy và đời sống đạo ........................................ 836
2.3. Hội đoàn Công giáo và đời sống đạo .......................................................... 84
2.3.1. Hội đoàn đạo đức và đời sống đạo........................................................ 85
2.3.2. Hội đoàn phục vụ lễ nghi tôn giáo và đời sống đạo............................... 87
2.3.3. Hội đoàn bác ái xã hội và đời sống đạo................................................. 91
2.4. Phương diện kinh tế, văn hóa – xã hội, giáo dục và đời sống đạo ................ 92
2.4.1. Khía cạnh kinh tế và đời sống đạo ........................................................ 92
2.4.2. Khía cạnh văn hóa – xã hội và đời sống đạo...........................................89
2.4.3. Khía cạnh giáo dục và đời sống đạo...................................................... 97
Chương 3: SỐNG ĐẠO VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CỘNG ĐỒNG GIÁO
DÂN GIÁO XỨ SỞ KIỆN: GIÁ TRỊ - HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP................... 99
3.1. Sống đạo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây dựng đời sống văn
hóa mới ở các thôn làng..................................................................................... 99
3.1.1. Giáo lý Công giáo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây dựng
đời sống văn hóa mới ở các thôn làng............................................................. 99
3.1.2. Nghi lễ Công giáo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây dựng
đời sống văn hóa mới ở các thôn làng........................................................... 109
3.1.3. Hội đoàn Công giáo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây
dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng.................................................. 110
3.1.4. Phương diện kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục và những giá trị tích cực
đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng. ............. 112
3.2. Sống đạo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa
mới ở các thôn làng.......................................................................................... 112
3.2.1. Giáo lý Công giáo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở các thôn làng................................................................. 112
3.2.2. Nghi lễ Công giáo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở các thôn làng................................................................. 115
3.2.3. Hội đoàn Công giáo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở các thôn làng................................................................. 115
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
3.2.4. Phương diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục và những hạn chế đối với
công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng. ......................... 117
3.3. Một số giải pháp góp phần nâng cao đời sống đạo của cộng động giáo dân . 118
3.3.1. Giải pháp từ phía địa phương.............................................................. 118
3.3.2. Giải pháp từ phía giáo xứ ................................................................... 121
C. KẾT LUẬN................................................................................................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC8
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, ra đời cùng với sự ra đời của xã hội
loài ngƣời, còn tồn tại và còn có ảnh hƣởng lâu dài tới xã hội loài ngƣời. Dù tôn
giáo là “bông hoa tƣởng tƣợng”, là “mặt trời hƣ ảo”, phản ánh hƣ ảo thế giới khách
quan nhƣng tôn giáo luôn có kỳ vọng đáp ứng nhu cầu của một bộ phận con ngƣời
về nhận thức thế giới tự nhiên, xã hội và chính con ngƣời. Tôn giáo còn là “liều
thuốc phiện của nhân dân” có tác dụng hiện thực: an ủi, xoa dịu những nỗi đau,
những mất mát, những lo sợ; nuôi một niềm hy vọng cho con ngƣời trong một xã
hội có sự hiện diện của sự bất công, sự bất bình đẳng, sự bất lực, sự đột ngột, bất
ngờ, ngẫu nhiên. Và với hệ thống các giá trị văn hóa vật chất hữu hình, vô hình tồn
tại qua nhiều thế kỷ qua tôn giáo còn có tác dụng đặc biệt đối với sự phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội loài ngƣời.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Công giáo là tôn giáo có số lƣợng tín đồ
lớn thứ hai sau Phật giáo. Tuy không có sự ăn sâu bám rễ và chi phối mạnh mẽ,
dai dẳng vào đời sống dân tộc nhƣ Nho giáo, không có lịch sử tồn tại lâu đời và
gần gũi với đông đảo đời sống nhân dân nhƣ Phật giáo, song Công giáo với hệ
thống văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm dấu ấn phƣơng Tây kết hợp với
truyền thống dân tộc đƣợc tạo dựng trong nửa thiên niên kỷ qua cũng đã tạo ra
một ảnh hƣởng sâu sắc đối với các mặt của đời sống xã hội Việt Nam truyền thống
cũng nhƣ hiện đại.
Trong hệ thống các giá trị văn hóa Công giáo, sống đạo của cộng đồng giáo
dân hiện là một trong những vấn đề đƣợc quan tâm hàng đầu không chỉ của giới
nghiên cứu tôn giáo mà còn của chính giáo hội Công giáo các nƣớc nói chung, Việt
Nam nói riêng. Đời sống đạo của ngƣời tín hữu giáo dân đã và đang có những biến
đổi sâu sắc. Ở Việt Nam, trƣớc những biến đổi mạnh mẽ của của đời sống xã hội,
trƣớc những cải cách của Công đồng Vatican II và đặc biệt là sau thƣ chung 1980,
ngày nay lối sống đạo của cộng đồng giáo dân Công giáo các giáo xứ giáo họ cũng
đã và đang có những biến đổi to lớn, ảnh hƣởng không nhỏ đến công cuộc đổi mới
ở Việt Nam.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
Trong hệ thống các giáo xứ ở nƣớc ta, Sở Kiện là một trong những mảnh đất
khắc ghi đậm nét dấu ấn lịch sử phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam. Nếu lấy năm
xây dựng nhà thờ Chính tòa (1877) làm mốc thì cho đến nay giáo xứ Sở Kiện đã có
tuổi đời hơn một thế kỷ. Ngƣợc dòng lịch sử, Sở Kiện xƣa không những là thủ phủ
hành chính về mặt tôn giáo cho địa phận Tây Đàng Ngoài (khoảng hơn 60 năm), mà
còn là một trung tâm văn hóa Công giáo cho toàn Đàng Ngoài. Và hiện nay ở Việt
Nam, khi Sở Kiện đƣợc Hội đồng giám mục thế giới chỉ định là tiểu vƣơng cung
thánh đƣờng thứ ba thì tầm quan trọng về mặt tôn giáo và văn hóa của giáo xứ này
càng không thể phủ nhận. Có thể nói, ở Việt Nam Sở Kiện là một trong những
thánh địa tôn giáo có vai trò quan trọng.
Là một trong những giáo xứ có bề dày lịch sử, cũng là giáo xứ lớn của tổng
giáo phận Hà Nội, cũng nhƣ đời sống đạo của các cộng đồng xứ họ đạo trong tổng
giáo phận Hà Nội và trong cả nƣớc, ngày nay đời sống đạo của cộng đồng giáo dân
giáo xứ Sở Kiện cũng đã và đang có nhiều thay đổi. Tìm hiểu những thay đổi ấy và
những tác động của nó đến công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phƣơng
là việc làm có ý nghĩa thực tiễn.
Với tất cả những lý do trên chúng tui đã chọn đề tài là “Sống đạo của cộng
đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện thị trấn Kiện Khê huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam
(trong bối cảnh xây dựng đời sống văn hóa mới)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Viết về những ảnh hƣởng của đạo Công giáo đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội đã có các công trình nhƣ: “Góp phần tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong
Kinh thánh" của Trƣơng Nhƣ Vƣơng, "Khía cạnh nhân văn của giáo lý Thiên chúa
và công tác xây dựng nếp sống mới ở vùng đồng bào Thiên chúa giáo"; “Đời sống
đạo của người dân Công giáo ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh”
(Nguyễn Hồng Dƣơng)...
Về vấn đề sống đạo và ảnh hƣởng qua lại giữa lối sống đạo và văn hóa
truyền thống của dân tộc, đã có nhiều công trình, bài viết đáng kể nhất là những
tham luận trong cuộc hội thảo về nếp sống đạo của Viện Nghiên cứu tôn giáo năm
2009. Quan tâm đến nếp sống đạo của tầng lớp linh mục có bài “Ý nghĩa đời sống10
độc thân linh mục” của tác giả Lê Thị Ngọc Hạnh. Tìm hiểu về đời sống đạo của
các nữ tu có bài “Bước đầu tìm hiểu về đời sống tu trì của nữ tu Công giáo ở giáo
phận Xuân Lộc hiện nay” của tác giả Đinh Thị Xuân Trang. Và đặc biệt về nếp sống
đạo của cộng đồng giáo dân cũng đã có nhiều bài viết. Quan tâm đến nếp sống cá
nhân, nếp sống gia đình, nếp sống cộng đoàn của cộng đồng giáo dân tác giả Phạm
Huy Thông có bài “Nếp sống Công giáo – sự giao thoa giữa đức tin và văn hóa dân
tộc”. Cùng mối quan tâm về nếp sống gia đình, tác giả Trần Công có bài “Một số
nét về nếp sống gia đình Công giáo Việt Nam”. Đi sâu vào khía cạnh thờ cúng tổ
tiên trong gia đình ngƣời Việt Công giáo có bài “Người Công giáo Việt Nam với tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên” của tác giả Nguyễn Đức Lữ. Gần đây nhất có công trình
chuyên sâu về hôn nhân Công giáo trong gia đình ngƣời Việt: “Hôn nhân và nếp
sống đạo trong gia đình người Việt Công giáo ở giáo họ Nỗ Lực tỉnh Phú Thọ” của
tác giả Lê Đức Hạnh. Cùng mối quan tâm về nếp sống cộng đoàn có bài “Đời sống
cộng đồng của người Công giáo (Tản mạn qua một số xứ họ, đạo ở thủ đô Hà Nội)
của tác giả Văn Đức Thu. Năm 2011, có công trình “Tổ chức xứ họ đạo Công giáo
ở Việt Nam, lịch sử, hiện tại và những vấn đề đặt ra” của tác giả Nguyễn Hồng
Dƣơng. Ở một góc độ khác, với mối quan tâm tập trung vào những ảnh hƣởng của
văn hóa truyền thống đến nếp sống đạo của ngƣời giáo dân có bài “Những ảnh
hưởng của truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo đối với
nếp sống đạo của giáo dân ở giáo xứ Tử Nê ” của tác giả Nguyễn Quang Khải,
“Dấu ấn truyền thống trong nếp sống của người Công giáo giáo phận Đà Nẵng”
của tác giả Đoàn Triệu Long. Dƣới góc nhìn đời sống đạo ở một giáo xứ cụ thể có
các bài: “Giáo xứ chính tòa Phủ Cam với nếp sống đạo của người Công giáo” của
tác giả Nguyễn Hữu Toàn, “Vài nét đơn sơ về sống đạo ở xứ Trung Lao” của tác giả
Mai Thanh Hải. Gần đây nhất, bên ngoài cuộc hội thảo có công trình “Sống đạo
trong đời sống văn hóa của đồng bào Công giáo xứ đạo Hoàng Xá, Thanh Thủy,
Phú Thọ” của tác giả Nguyễn Thị Minh Phƣơng. Nhấn mạnh về nếp sống đạo ở
cộng đồng các dân tộc thiểu số có bài: “Nếp sống đạo của người H’Mông theo đạo
Công giáo ở giáo họ Hầu Thào, Lao Chải (giáo xứ Sa Pa) hiện nay thể hiện qua
việc tham gia các phép bí tích” của tác giả Thu Giang; “Lễ tục vòng đời của người
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
Rơngao (Bana) theo đạo Công giáo” của tác giả Đặng Luận. Nhấn mạnh đến khía
cạnh giáo lý, bí tích, nghi lễ cũng có nhiều bài. Thông qua giáo lý để tìm hiểu cung
cách sống và diễn tả đức tin của ngƣời Công giáo Việt Nam đƣơng thời, tác giả
Khổng Thành Ngọc có bài “Người Công giáo Việt Nam sống tám mối phúc thật”.
Tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng có bài “Giới trẻ Công giáo Việt Nam và việc học tập
giảng dạy giáo lý hiện nay”. Thông qua các bí tích để tìm hiểu đời sống đạo của
cộng đồng ngƣời Việt Công giáo có bài “Sống trong bí tích thánh thể của người
Công giáo Việt Nam”, “Tội – chuộc tội – giải tội”. Tìm hiểu nếp sống đạo của
ngƣời Công giáo thông qua các lễ nghi và việc thực hành các lễ nghi ngoài lễ nghi
Công giáo, có bài “Tìm hiểu nếp sống của người Công giáo Việt Nam qua hương
ước vùng đồng bằng Bắc Bộ” của tác giả Nguyễn Quế Hƣơng. Trƣớc đó năm 2001,
vấn đề này cũng đã đƣợc tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng đề cập trong công trình
“Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam”...
Mỗi tác giả, với những chiều cạnh, góc độ tiếp cận khác nhau đã đặt ra và
giải quyết những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Tuy nhiên viết về
ảnh hƣởng của lối sống đạo đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở
cộng đồng ngƣời Công giáo mà cụ thể là ở cộng động ngƣời Công giáo giáo xứ Sở
Kiện- thị trấn Kiện Khê – huyện Thanh Liêm – tỉnh Hà Nam thì chƣa có một công
trình nào nghiên cứu.
3. Mục tiêu, nhiêṃ vu.̣
3.1. Mục tiêu.
Từ trƣớc đến nay, đạo Công giáo thƣờng đƣợc xem xét nhìn nhận nhiều ở
khía cạnh chính trị. Tuy nhiên ở góc độ văn hóa, đạo Công giáo đã có những đóng
góp về văn hóa vật thể, phi vật thể, văn hóa đời sống, văn hóa tinh thần. Thông qua
một giáo xứ cụ thể đề tài hƣớng đến mục tiêu tìm hiểu những đóng góp trong lĩnh
vực văn hóa của tôn giáo này đối với công cuộc xây dựng đời sống mới ở địa
phƣơng chủ yếu qua lối sống đạo của cộng đồng giáo dân Kiện Khê và Ninh Phú.
3.2. Nhiệm vụ.
- Tìm hiểu lịch sử hình thành và đặc điểm của giáo xứ Sở Kiện12
- Chỉ ra những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện
qua giáo lý, nghi lễ, hội đoàn và các phƣơng diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục
- Chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế nhất định của lối sống đạo đó đối
với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phƣơng, đề xuất một số giải
pháp góp phần nâng cao lối sống đạo ấy.
4.Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu nội dung giáo lý, nội dung lề luật, lễ
nghi... mà chủ yếu chỉ nêu những ảnh hƣởng của nó đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở cộng đồng ngƣời Công giáo.
Giáo xứ Sở Kiện hiện có 8 cộng đồng họ đạo phân bổ rải rác ở 4 xã, thị trấn
của huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam gồm Thanh Thủy, Thanh Tân, Thanh Tuyền
và thị trấn Kiện Khê trong đó 2/3 giáo dân tập trung trên địa bàn thị trấn Kiện, cụ
thể là ở hai làng Ninh Phú và Kiện Khê - hai làng Công giáo có lịch sử lâu đời. Đề
tài tập trung ở không gian nghiên cứu tiêu biểu Ninh Phú và Kiện Khê.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ
bản sau:
Phƣơng pháp điền dã với các kĩ năng quan sát, miêu tả, tham dự, phỏng vấn
(phỏng vấn nhanh, phỏng vấn sâu)
- Phƣơng pháp điều tra xã hội học với bảng hỏi (gồm 14 câu, số phiếu phát ra
106, thu về 100).
- Phƣơng pháp thu thập thông tin từ sách báo, tạp chí và các nguồn tài liệu
trên internet.
6. Đóng góp của luận văn.
Viết về đời sống đạo của cộng đồng giáo dân thông qua giáo lý, nghi lễ, hội
đoàn, kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục đã có sự quan tâm của nhiều tác giả. Tuy
nhiên các bài viết ở đây thƣờng khuôn ở một số khía cạnh nhất định, chƣa có công
trình nào tìm hiểu một cách hệ thống về vấn đề sống đạo của cộng đồng giáo dân ở
tất cả các khía cạnh trên.
Viết về các giáo xứ giáo họ Việt Nam hiện nay có rất ít công trình. Viết về
giáo xứ Sở Kiện – một giáo xứ lớn của tổng giáo phận Hà Nội, tiểu vƣơng cung
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
thánh đƣờng thứ ba của Việt Nam thì cũng mới chỉ có một số bài viết nhỏ lẻ đăng
tải trên các mạng xã hội, chƣa có một công trình hệ thống nào nghiên cứu về giáo
xứ này. Trong bốn tiểu vƣơng cung thánh đƣờng mang nhiều giá trị văn hóa tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay, Sở Kiện là tiểu vƣơng cung thánh đƣờng đầu tiên đƣợc
tìm hiểu một cách hệ thống.
Cụ thể luận văn đã có những đóng góp nhƣ sau:
- Luận văn tìm hiểu khái quát về lịch sử đạo Công giáo ở giáo xứ Sở Kiện
- Nêu rõ những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện
trong bối cảnh xây dựng đời sống văn hóa mới qua giáo lý, nghi lễ, hội đoàn và
phƣơng diện kinh tế,văn hóa- xã hội, giáo dục.
- Chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế của lối sống đạo đối với công cuộc
xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phƣơng. Bƣớc đầu đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao đời sống đạo của cộng đồng giáo dân trong quá trình xây
dựng đời sống văn hóa mới.
Những vấn đề đặt ra và giải quyết trong luận văn, hi vọng trở thành nguồn tài
liệu tham khảo hữu ích cho cán bộ văn hoá và chính quyền địa phƣơng. Đồng thời
luận văn cũng hy vọng là nguồn tài liệu hữu ích cho cộng đồng ngƣời Công giáo ở
giáo xứ Sở Kiện.
7. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 3 chƣơng chính:
Chương 1: Khái quát chung về giáo xứ Sở Kiện
Chương 2: Những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứSởKiện
Chương 3: Sống đạo và đời sống văn hóa của cộng đồng giáo dân giáo xứ
Sở Kiện: giá trị, hạn chế và giải pháp.14
B. NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO XỨ SỞ KIỆN
Từ Hà Nội xuôi về phía Nam dọc theo trục quốc lộ xƣơng sống 1A, qua thị
xã Phủ Lý khoảng 3 km là đến Cầu Gừng, bên tay phải là con đƣờng đê trải đá dẫn
vào lò vôi Chu Hà – cũng là con đƣờng chính để dẫn vào địa bàn thị trấn Kiện Khê
– nơi tòa lạc của giáo xứ Sở Kiện. Xƣa hai bên đƣờng là ao hồ, lau sậy, dân cƣ thƣa
thớt nay là nơi tụ cƣ đông đúc của ngƣời dân xã Thanh Tuyền. Đi hết con đƣờng
nhỏ dài khoảng 4 km này là vào vùng đất thánh. Ngoài con đƣờng ấy, hàng trăm
năm trƣớc, ngƣời ta cũng có thể đi vào giáo xứ bằng đƣờng thủy qua con sông Đáy.
Con sông Đáy chảy qua thành phố Phủ Lý rồi chảy vào địa bàn thị trấn. Ngày nay
vào giáo xứ còn có một con đƣờng lớn mới làm vắt ngang cánh đồng làng.
Giáo xứ Sở Kiện có khuôn viên nằm trên mảnh đất khoảng 9-10 ha (1) .Với
địa thế gần trục giao thông xƣơng sống, lại sát núi, gần sông, đa dạng địa hình mảnh
đất này từ thuở xa xƣa đã rất thích hợp cho các hoạt động tôn giáo.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển giáo xứ Sở Kiện
Sở Kiện là giáo xứ có lịch sử lâu đời. Tuy nhiên cũng nhƣ nhiều giáo xứ giáo
họ khác ở Việt Nam việc tìm hiểu lịch sử giáo xứ thông qua sự hình thành các họ
đạo là việc làm khó bởi sự hạn chế của nguồn tƣ liệu. Các họ đạo ở Sở Kiện đƣợc
hình thành cụ thể nhƣ thế nào qua các thời kỳ thì đến nay cũng chƣa đƣợc rõ. Chỉ
biết rằng cho đến nay giáo xứ từng trải qua hai tên gọi một là Kẻ Sở và hai là Sở
Kiện. Cách đặt tên giáo xứ cũng nhƣ cách đặt tên của nhiều giáo xứ giáo họ khác ở
Việt Nam lấy tên làng để làm thành tên xứ.
1.1.1. Tên gọi của giáo xứ
Sở Kiện là tên gọi ngày nay của giáo xứ. Khi mà giáo xứ có 8 giáo họ (Ninh
Phú, Kiện Khê, Khắc Cần, Yên Xá, Ô Giang, Trung Thứ, Thủy Cơ, Ô Cách). Trong
các văn bản, giấy tờ hiện dùng để trao đổi giữa giáo xứ và giáo phận Hà Nội thƣờng
dùng danh xƣng này. Giáo dân hay chính quyền địa phƣơng cũng dùng tên gọi này.
(1) Theo Trương Công Ứng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
Danh xƣng Sở Kiện bắt đầu có từ khoảng năm 1980 thời linh mục Nguyễn Khắc
Quế. Khi về quản xứ tại đây linh mục Quế đã đệ trình lên tổng giáo phận Hà Nội
cho chuyển tên gọi cũ Kẻ Sở thành Sở Kiện.
Còn từ khoảng năm 1980 trở về trƣớc, giáo xứ đƣợc biết đến với tên gọi Kẻ
Sở. Khi đó giáo xứ có 17 giáo họ (Ninh Phú, Kiện Khê, Khắc Cần, Yên Xá, Ô
Giang, Trung Thứ, Thủy Cơ, Ô Cách, Mậu Chử, Thƣợng Tổ, Hƣơng Kiều, Phạm,
Do Nha, Thịnh Châu, Tân Lâm, Lại Xá, Lan Mát). Tên gọi Kẻ Sở chính thức có
trong văn bản của giáo hội từ khi nào thì hiện nay cũng chƣa đƣợc biết. Chỉ biết
rằng từ sau năm 1862 khi thủ phủ của địa phận Tây Đàng Ngoài chính thức đƣợc
chuyển từ Kẻ Vĩnh (cũng gọi là Vĩnh Trị - Nam Định) về mảnh đất Sở Kiện ngày
nay thì tên gọi Kẻ Sở bắt đầu xuất hiện nhiều trên các sách kinh, sách học, bia mộ
hay các công trình kiến trúc tôn giáo. Tên gọi Kẻ Sở lấy theo tên làng Sở cũng là
làng Ninh Phú.
1.1.2. Cơ sở vật chất tôn giáo của giáo xứ.
Theo Sở thảo lƣợc sử giáo họ Kiện Khê, trong khoảng cuối thế kỷ XVIII thị
trấn Kiện ngày nay cũng nhƣ các vùng lân cận đƣợc biết đến là một vùng đất lau
sậy thƣa thớt dân cƣ, làng đã có nhƣng ngƣời chƣa đông đúc. Tuy nhiên thời kỳ này
đã có sự xuất hiện của các hoạt động tôn giáo. Theo truyền khẩu trong khoảng thời
gian này đã có một số nhà truyền giáo đến rao giảng Phúc âm bằng đƣờng sông.
Theo các thuyền buôn từ vùng biển Nam Định chở gạo, muối lên đây bán các nhà
truyền giáo đã đi lẫn trong các thuyền rồi tranh thủ khi ngƣời dân đến mua hàng
đông thì ra mặt giảng đạo. Ban đầu ngƣời dân trong vùng đến nghe theo tính hiếu
kỳ sau nhờ lời giảng đạo chân phƣơng, thấm đẫm đạo đời mà số lƣợng ngƣời dân
trong vùng đến dự đông hơn. Trong thời buổi đó, các hoạt động rao giảng đƣợc thực
hiện chủ yếu trên thuyền. Chủ thuyền đã dành cho các nhà truyền giáo một khoang
thuyền riêng để cầu nguyện và giảng đạo. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, để tiện cho việc
rao giảng dạy dỗ bổn đạo mới ngƣời dân trong làng Kiện đã dựng lên trên đất liền
những ngôi nhà tranh tre nứa lá cho các nhà truyền giáo ở và làm nhà cầu nguyện.
“Trong quãng thời gian 1820 – 1840 mặc dù có sắc chỉ cấm đạo nhưng các đấng
vẫn thường xuyên cầu nguyện, rao giảng, rửa tội, làm các phép bí tích cho các giáo16
dân tân tòng” [1]. Năm 1862 hòa ƣớc Nhâm Tuất làm tình hình cấm đạo tại Việt
Nam tạm thời lắng xuống, khi thủ phủ của địa phận Tây Đàng Ngoài đã bị phá bình
địa thì các giáo sĩ Hội Truyền giáo Nƣớc ngoài Paris (MEP) đã quyết định di dời
Tòa giám mục và các cơ sở đào tạo cũng nhƣ in ấn từ Vĩnh Trị lên mảnh đất Sở
Kiện ngày nay thì từ đây đời sống tôn giáo của vùng chuyển sang một giai đoạn mới.
Từ 1862 đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, nơi đây trở thành thủ phủ
hành chính của địa phận Tây Đàng Ngoài. Và để xứng tầm là thủ phủ hành chính về
mặt tôn giáo cho toàn địa phận Tây Đàng Ngoài và là một trung tâm văn hóa Công
giáo cho toàn Đàng Ngoài thời ấy, một hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt
động tôn giáo đã đƣợc gây dựng lên bao gồm: cơ sở in ấn, cơ sở thờ tự, cơ sở đào
tạo linh mục, cơ sở phát triển đời sống giáo dân. Có thể coi đây là giai đoạn đặt nền
móng cho sự phát triển của giáo xứ.
Nhà in Kẻ Sở có nguồn gốc là nhà in Kẻ Vĩnh chuyển qua (nhà in Kẻ Vĩnh ra
đời từ năm 1855, dƣới sự điều hành của một thừa sai ngƣời Pháp tên tiếng Việt là
Chiêu) do đó nhà in Kẻ Sở sau này đƣợc kế thừa thành tựu của nhà in cũ. Khi về Kẻ
Sở cha Phƣớc cũng đã gửi mua thêm công cụ in từ Pháp (máy in chữ rời, máy in
thạch, máy đóng sách). Do vậy mà nhà in Kẻ Sở đã trở thành một nhà in lớn và
tƣơng đối hiện đại.
Chức năng chính của nhà in Kẻ Sở là in sách nhà đạo. Nhiều tác phẩm nhà
đạo đã ra đời tại nhà in này hiện nay vẫn chƣa thể thống kê đƣợc hết. Tiêu biểu có
các sách nhƣ: Sách Kính tháng Lái tim Đức Chúa Giêsu, Kẻ Sở, 1883; Đạo đức
châm huấn (hay sách Selva) dịch, Kẻ Sở, 1887; Sách dẫn đàng cho đấng làm thày,
Kẻ Sở, 1889; Thiên Chúa thánh mẫu I, II, Kẻ Sở, 1890; Sách ngắm các ngày trong
năm I,II, Kẻ Sở, 1900; Lộ đức thánh mẫu, Kẻ Sở, 1892; Lộ đức thánh mẫu lượng
ký, Kẻ Sở, 1896; Yên ủi kẻ liệt cùng lễ phép tống táng kẻ đã qua đời, Kẻ Sở, 1896;
Đức Chúa Giêsu truyền sự kính thờ Lái Tim Người cho bà thánh Maria, Kẻ Sở,
1908; Những thu chung, từ 1895 đến 1901, Kẻ Sở, 1901; Sách thuật các thư chung,
Kẻ Sở, 1908; 22 đấng thánh tử vì đạo, Kẻ Sở, 1909; Sách cấm phòng cho những trẻ
em dọn mình chịu lễ lần đầu, Kẻ Sở, 1913; Tháng cầu cho các linh hồn luyện ngục,
Kẻ Sở, 1922; Phụng vụ khoa học (Rituale), Kẻ Sở, 1926
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Ngoài chức năng in sách đạo, nhà in Kẻ Sở còn có chức năng in cả sách học,
thuộc khoa học phổ thông nhƣ nhà in Tân Định tại Sài Gòn cũng vào thời điểm này.
Theo lƣợc tính, nhà in Kẻ Sở đã xuất bản trên 100 đầu sách thuộc các loại: học tiếng
Pháp, học tiếng La-tinh, triết học, thần học, giáo sử. Các loại sách giáo khoa dùng
cho các trƣờng học liên quan đến các bộ môn nhƣ: vật lý học, văn chƣơng, văn
phạm, toán học, địa lý. Các sách tiêu biểu in tại nhà in Kẻ Sở nhƣ: Tự vị An Nam–
Latin, J.S. Theurel, Kẻ Sở, 1887, Phép địa dư, Ninh Phú đƣờng, 1881; Địa dư trung
học, năm phương địa cầu: thiên văn địa lý, địa dư hình thể, bang giao chính trị, lý
tài, Kẻ Sở, 1932 ;
Với nhà in ấy, tòa giám mục Kẻ Sở đã có một phƣơng tiện hữu hiệu để
truyền bá Tin mừng. Nhƣng đồng thời cũng quan trọng không kém là đã đem lại
cho ngƣời giáo dân nơi đây một đời sống mới. Ngƣời dân sớm đƣợc tiếp xúc với
những thành tựu kỹ thuật hiện đại của Châu Âu cũng nhƣ những tri thức quý báu
của văn minh nhân loại.
Cơ sở thờ tự đƣợc tạo dựng trong giai đoạn này quan trọng nhất là ngôi nhà
thờ ông Thánh Giu se, nhà thờ Chính tòa Kẻ Sở và nhà thờ Trại
Nhà thờ ông Thánh Giu se
Nhà thờ ông Thánh Giu se đƣợc biết đến nhƣ là ngôi nhà thờ kiên cố đầu tiên
của giáo xứ. Năm 1874 khi vua Tự Đức có phần buông lỏng việc cấm đạo thì một
ngôi nhà thờ tƣờng xây, cột gỗ, ngói đất nung lợp mái đã ra đời thay thế cho các cơ
sở bằng tranh tre nứa lá. Ngôi nhà thờ đƣợc xây trên diện tích 187 m2 và có thánh
quan thầy là thánh cả Giu se. Có nhà thờ, có thánh quan thầy, lại đƣợc các giám
mục quan tâm đời sống tinh thần của ngƣời giáo dân thêm phần vững chắc, ngƣời
theo đạo ngày một đông hơn [1].
Để củng cố hơn nữa cơ sở thờ tự tại trung tâm truyền giáo, để đáp ứng nhu
cầu tâm linh của giáo dân ngày một đông hơn, ba năm sau trên mảnh đất làng Ninh
Phú các giáo sĩ đã tiến hành xây dựng một ngôi nhà thờ mới mang tầm vóc quy mô
lớn hơn đó chính là nhà thờ chính tòa Kẻ Sở.
Nhà thờ chính tòa Kẻ Sở18
Năm 1877, trên một mảnh đầm của làng Ninh Phú, cha Phƣớc đã cho nạo vét
toàn bộ đầm lầy rồi cho chôn dƣới đó hàng ngàn phiến gỗ lim để xây dựng nhà thờ.
Vật liệu xây cất nhà thờ đƣợc sử dụng là gạch nung đỏ và vôi trộn với cát, mật mía.
Tƣơng truyền khi chọn điểm để đặt ngôi nhà thờ này, giám mục Phƣớc một ngƣời
nƣớc ngoài nhƣng rất quan tâm đến phong thủy, địa lý phƣơng Đông đã xem rất kỹ
thế đất và hƣớng quay của nhà thờ. Theo truyện kể của ngƣời già trong làng thì nơi
đặt nhà thờ trong lịch sử ngƣời Tàu đã có ý định lấy làm nơi cất giấu vàng. Về
hƣớng quay của nhà thờ, để mong thuận lợi cho đời sống giáo dân sau này, giám
mục Phƣớc đã cố ý thiết kế hậu của nhà thờ về đằng đông. Còn mặt tiền của nhà thờ
nhìn ra sông Đáy, chếch về phía Tây Bắc. Tƣơng truyền hƣớng này thẳng với
hƣớng của quả núi có hình rồng chầu mặt nguyệt. Tính theo đƣờng chim bay, nhà
thờ cách núi con rồng chƣa đầy 2 km. Đỡ lƣng cho núi con rồng, nằm ngay phía sau
là núi đồng cân với hai quả đồ sộ vững chãi nhƣ hai trụ cột.
Cũng theo lời ngƣời già kể lại, khi xây ngôi nhà thờ này đã phải huy động sự
đóng góp của rất nhiều nơi. Giáo phận Thanh Hóa chuyên cung cấp gỗ lim, giáo dân
sở tại chuyên nung vôi, đóng gạch,.... nhìn chung khi ấy ngƣời ta đã phải huy động
toàn thể sức ngƣời và của của cộng đồng dân chúa: “Từ các nơi, người ta đổ tới góp
công, lấy đá, lấy gỗ bên kia sông đem về, nung gạch, nung ngói, bắc giàn, đóng
móng, nghĩa là làm hết các việc kể cả đẽo, đục, khắc, dưới sự điều khiển của Đức
Cha”.(2). Ngoài ra nhà thờ còn có sự giúp đỡ tiền của của hội truyền giáo Ba lê (Pa -
ri) [1]. Tuy nhiên, cũng theo ông Trƣơng Công Ứng thì còn một nguồn của cải quan
trọng nữa để xây nhà thờ khi ấy là kho vàng của một ngƣời Tàu:“Năm ấy, trong
một chuyến tàu đi Hồng Kông đức cha Phước đã có cuộc gặp gỡ với một người Tàu
không gia đình đang trong cơn hấp hối. Biết đây là người có khả năng cứu rỗi linh
hồn mình người Tàu đã cầu xin cha giúp cho được chết an lành và sau khi lên đất
liền thì an táng hộ. Đổi lại người Tàu trao cho cha bí mật về một kho vàng còn chôn
giấu ở nước ta.
Sau khi trở lại Việt Nam, cha Phước đi tìm kho báu đó. Tương truyền kho báu
ấy được chôn ở Thung Trứng hay còn gọi là Bàn Phết thuộc địa phận huyện Kim
(2)Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên, Lược sử Địa phận Hà Nội 1626 – 1954, 1994, trg. 410
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
Bảng (huyện nằm ở phía Tây huyện Thanh Liêm ngày nay). Chuyến đi thứ nhất cha
đã lấy được một thuyền vàng. Chuyến thứ hai trong lúc về gần đến nơi thì thuyền bị
đắm ở thửa ruộng ngay sau nhà thờ bây giờ do thời điểm đó đang là mùa bão lũ. Sau
đó, có một người dân trong làng khi đi cày đã đụng vào những tráp vàng này và về
dâng lên cha. Cha có ý biếu tiền lão nông này nhưng ông không nhận mà chỉ có một
mong mỏi là sau khi ông và vợ ông mất thì xin cha lo liệu hậu sự cho. Về sau khi các
ông trùm (trong đó có ông Trương Công Ứng) đi đo lại đất nhà thờ rồi dọn cỏ, trồng
cây có động phải 2 cái tiều nằm trong đất của nhà thờ, người ta cho rằng đó là tiểu
của hai ông bà ngày xưa từng dâng vàng cho cha Phước.
Sau khi cha Phước mất, cha Đông tiếp tục lần theo bí mật của người Tàu đi
vào Thung Trứng lấy vàng. Đi với cha là một ông bộ phòng. (Câu chuyện về sau là
do người bộ phòng này kể lại. Ông Trương Công Ứng biết được là do nghe một
người già trong làng hay qua chơi kể lại, khi đó ông đã ở tuổi có trí khôn). Mặc dù
đã bị cấm không được theo vào trong cùng cha nhưng do tò mò mà người bộ phòng
vẫn lẻn đi theo sau. Kho vàng của người Tàu được kí gửi ở Thung Trứng theo
cách thần giữ của. Cha phải đi qua ba thử thách. Cửa đầu tiên được trông
giữ bởi một con trăn, cha quăng xuống một con gà trống. Qua được cửa này cha
đến cửa thứ hai. Cửa này được canh giữ bởi một con hùm cha quăng xuống một cái
xỏ lợn. Đến với thử thách thứ ba, đòi chín người đàn bà chửa, cha chần chừ không
biết đối phó ra sao thì cửa bắt đầu sập xuống. Cha và người bộ phòng vội vã lao ra
ngoài. Về sau khi tìm hiểu lại ở cuối cuốn sách cha mới phát hiện 9 người đàn bà
chửa thực ra là chín cái đòng đòng. Sau này kho vàng ấy vẫn bị người Trung Quốc
núp danh đến khai thác vật tư và đã mang đi hết”
Năm 1882, nhà thờ Chính tòa Kẻ Sở cơ bản đƣợc hoàn thành. Năm 1883
chính thức đƣợc khánh thành và mang tƣớc hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm. Nhà thờ đƣợc
đánh giá là huy hoàng nhất tại Đông Dƣơng lúc ấy.
Về cơ bản nhà thờ có kiến trúc theo kiểu Gô-tíc giống nhƣ nhà thờ Đức Bà
tại Pari. Nguyên tắc cấu trúc nhà thờ vẫn đảm bảo quy định của giáo hội đối với nhà
thờ Công giáo có tiền sảnh, gác chuông, lòng nhà thờ, cung thánh, gian mặc áo lễ.
3.2.4. Phương diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục và những hạn chế đối
với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng.
Trong cộng đồng ngƣời Công giáo Kiện Khê và Ninh Phú cơ cấu chuyển
dịch kinh tế còn chậm, tỷ lệ hộ cùng kiệt mỗi làng còn 5 – 6 %. Thêm vào đó khi tình
trạng đất nông nghiệp đang có chiều hƣớng thu giảm, đất dùng cho xây dựng các
khu công nghiệp vẫn đang ở tình trạng san lấp mặt bằng thì chiều hƣớng thất nghiệp
ở địa bàn hai thôn có nguy cơ tăng, đồng nghĩa với nguy cơ gia tăng các tệ nạn xã
hội gây ảnh hƣởng không nhỏ đến trật tự an ninh xã hội của địa phƣơng trong thời
gian tới.
Con đƣờng dẫn ra cánh đồng làng dù một thời đã đƣợc đổ đá nhƣng vào
những ngày mùa gặt hái nhất là những ngày mƣa vẫn ít nhiều gây khó khăn cho
việc đi lại của ngƣời dân. Với con đƣờng này hiện nay địa phƣơng dù đã nhiều lần
kiến nghị với các cấp lãnh đạo tỉnh nhƣng vẫn chƣa giải quyết đƣợc. Bên cạnh con
đƣờng dẫn ra đồng là hai con đƣờng đang xuống cấp trên địa bàn làng Kiện.
Với rảnh nƣớc thải nằm sát mặt đƣờng đi lại của ngƣời dân bên Ninh Phú
không chỉ làm mất cảnh quan chung cho đƣờng làng ngõ xóm mà còn ảnh hƣởng
đến sức khỏe của những hộ gia đình nằm ngay bên cạnh. Nguy cơ tiềm ẩn những
mầm bệnh cho ngƣời dân là không thể tránh khỏi. Bên làng Kiện với các hộ làm vôi
vẫn còn, không chỉ đe dọa sức khỏe cho chính ngƣời làm mà còn làm mất cảnh
quan môi trƣờng chung. Chợ Kiện nằm ngay trong khu vực sinh sống của ngƣời dân
với nguồn rác thải chất đống không đƣợc dọn ngay sau mỗi buổi chợ cũng là nhân
tố gây mầm bệnh cho ngƣời dân sinh sống trong khu vực đó. Rác ở chân cầu Kiện
cũng chƣa đƣợc xử lý triệt để cộng với ô nhiễm tiếng ồn và bụi làm cho môi trƣờng
cảnh quan địa phƣơng và sức khỏe của ngƣời dân bị đe dọa. Chính những môi
trƣờng sống nhƣ trên là một trong những lý do quan trọng khiến hai làng hạn chế
đƣợc công nhận là làng văn hóa.
Để đƣợc công nhận là làng văn hóa, thì một trong những tiêu chí quan trọng
nữa là phải có nhà văn hóa. Tuy nhiên, cho đến nay Kiện Khê vẫn chƣa xây dựng118
đƣợc. Phong trào văn hóa xã hội trừ câu lạc bộ bóng bàn, bóng chuyền hoạt động
hiệu quả còn phần lớn các hội đoàn khác đều hoạt động ở mức duy trì chƣa có thành
tích nổi bật.
Ý thức tham gia các phong trào văn hóa xã hội, tinh thần tự giác ủng hộ các
chƣơng trình từ thiện bác ái xã hội do thị trấn phát động còn hạn chế. Sự hạn chế về
mặt thành tích cũng là lý do làng xã, thôn xóm hạn chế đƣợc công nhận là làng văn
hóa, cũng có nghĩa là công cuộc đổi mới ở địa phƣơng cũng chƣa thực sự mạnh.
Hai trƣờng của hai nhà dòng Kiện và Ninh Phú do chƣa đƣợc thực sự tạo
điều kiện để phát triển nên chƣa thể có nhiều đóng góp cho việc học tập của con em
trong họ đạo Ninh Phú, Kiện Khê
3.3. Một số giải pháp góp phần nâng cao đời sống đạo của cộng động
giáo dân
Để lối sống đạo của cộng đồng ngƣời Công giáo Việt Nam nói chung, cộng
đồng ngƣời Công giáo Ninh Phú, Kiện Khê nói riêng không chỉ là giữ gìn, là theo
đạo mà là hiểu đạo sâu sắc, hành đạo nhiệt thành, để khẩu hiệu “sống phúc âm giữa
lòng dân tộc” đƣợc thực hành thiết nghĩ cần chú ý giải pháp từ cả hai phía giáo hội
và địa phƣơng
3.3.1. Giải pháp từ phía địa phương
3.3.1.1. Về đội ngũ cán bộ
Tôn giáo là một hiện tƣợng xã hội còn tồn tại và còn ảnh hƣởng không nhỏ
đến xã hội loài ngƣời. Với những hệ giá trị văn hóa chứa đựng những yếu tố tích
cực, tôn giáo có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài ngƣời. Và với thế
giới quan khác nhau cùng những hệ giá trị đối lập với xã hội, tôn giáo cũng phần
nào cản trở sự phát triển của khoa học và xã hội loài ngƣời.
Để lối sống đạo của ngƣời Công giáo Việt Nam nói chung, cộng đồng ngƣời
Công giáo Ninh Phú và Kiện Khê nói riêng thực sự hòa nhập vào xã hội và đời sống
dân tộc, để niềm tin của ngƣời theo tôn giáo vào Đảng và nhà nƣớc đƣợc củng cố và
bền vững, để phát huy hơn nữa vai trò của cộng đồng ngƣời Công giáo, cần chú
trọng vào đội ngũ cán bộ ở địa phƣơng.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi119
Nói đến đội ngũ cán bộ ở địa phƣơng có ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống
đạo của cộng đồng ngƣời Công giáo ở các làng xã là các cán bộ văn hóa xã, thôn,
các ông bà trƣởng thôn, các hội trƣởng các hội đoàn của xã hội... Đội ngũ cán bộ
ngoài sự tâm huyết cần am hiểu sâu hơn về văn hóa Công giáo, nhất là về lề lối
sống đạo của ngƣời Công giáo ở địa phƣơng mình.
Bên cạnh việc đƣợc trang bị về kiến thức văn hóa, ngƣời cán bộ cũng cần
đƣợc trang bị về lý luận chính trị vững vàng. Hiểu sâu sắc đƣờng lối chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa của đảng và nhà nƣớc. Về kỹ năng, ngƣời cán bộ cần chú
trọng vào các khả năng diễn thuyết, đàm đạo và thuyết phục cao do những ngƣời
theo đạo thƣờng có một niềm tin tuyệt đối vào đấng siêu nhiên của mình, đôi khi
niềm tin ấy bị lợi dụng mà họ không hề hay biết.
Ứng xứ với linh mục cũng là vấn đề quan trọng. Ngƣời cán bộ cần xây
dựng mối liên hệ mật thiết với linh mục chính xứ. Ai cũng biết một lời của cha xứ
có sức mạnh to lớn đến thế nào đối với cộng đồng dân Chúa. Thông qua cha xứ có
thể kết hợp đƣợc việc đạo với việc đời. Để có đƣợc sự tin tƣởng và yêu mến thực sự
nơi cha xứ bản thân ngƣời cán bộ ở các địa phƣơng cũng phải thực sự chân thành,
cởi mở và có tinh thần hòa hảo.
Để thực sự hiểu đƣợc các sinh hoạt đạo của ngƣời dân, cũng cần dành thời
gian để tham gia sinh hoạt của các hội đoàn để hiểu hơn nữa về lòng đạo cũng nhƣ
tâm tƣ, tình cảm của đồng bào. Đặc biệt cần gắn bó hơn với hội giới trẻ. Khuyến
khích các em tham gia các hoạt động xã hội.
Để đồng bào tích cực hơn nữa trong các hội đoàn xã hội, bản thân các hội
đoàn cũng cần có biện pháp thu hút ngƣời dân tham gia. Ngƣời hội trƣởng của các
hội đoàn cần phát huy hơn nữa vai trò của ngƣời đi đầu.
Muốn giáo dân tự giác và tự nguyện trong các hoạt động xã hội nhƣ đóng
góp làm đƣờng sá, trƣờng học, ủng hộ các phong trào của xã, thôn cần tăng cƣờng
tuyên truyền mạnh mẽ hơn nữa về lòng yêu nƣớc, lòng tự hào tự tôn dân tộc, ý thức
tự lực tự cƣờng.
Song song với giải pháp về đội ngũ cán bộ cũng cần chú trọng đến vấn đề thể
chế văn hóa xã hội.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển
Ngày: 2013
Chủ đề: Việt Nam học
Giáo xứ
Công giáo
Hà Nam
Miêu tả: 123 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Việt Nam học -- Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, 2013. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Tìm hiểu lịch sử hình thành và đặc điểm của giáo xứ Sở Kiện. Chỉ ra những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện qua giáo lý, nghi lễ, hội đoàn và các phương diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục. Chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế nhất định của lối sống đạo đó đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phương, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao lối sống đạo ấy
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU ...........................................................................................................8
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................8
2. Lịch sử nghiên cứu ..........................................................................................9
3. Mục tiêu, nhiêṃ vu.̣ ....................................................................................... 11
4. Phạm vi nghiên cứu. ...................................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 12
6. Đóng góp của luận văn................................................................................... 12
7. Cấu trúc luận văn. .......................................................................................... 13
B. NỘI DUNG...................................................................................................... 14
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO XỨ SỞ KIỆN............................ 14
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển giáo xứ Sở Kiện........................................ 14
1.1.1. Tên gọi của giáo xứ .............................................................................. 14
1.1.2. Cơ sở vật chất tôn giáo của giáo xứ. ..................................................... 15
1.1.3. Dòng tu của giáo xứ ............................................................................. 23
1.2. Đặc điểm giáo xứ Sở Kiện .......................................................................... 29
1.2.1. Cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện ................................................... 29
1.2.2. Đời sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện ........................ 36
Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN SỐNG ĐẠO CỦA CỘNG ĐỒNG GIÁO
DÂN GIÁO XỨ SỞ KIỆN .................................................................................. 41
2.1. Giáo lý Công giáo và đời sống đạo ......................................................... 41
2.1.1. Bí tích Công giáo và đời sống đạo ........................................................ 42
2.1.2. Giới răn Công giáo và đời sống đạo . ....................................................... 52
2.2. Nghi lễ Công giáo và đời sống đạo ............................................................. 70
2.2.1. Nghi thức thánh lễ ngày chúa nhật và đời sống đạo ............................ 71
2.2.2. Nghi thức thánh lễ các ngày lễ trọng và đời sống đạo .......................... 73
2.2.3. Thánh lễ ngày lễ quan thầy và đời sống đạo ........................................ 836
2.3. Hội đoàn Công giáo và đời sống đạo .......................................................... 84
2.3.1. Hội đoàn đạo đức và đời sống đạo........................................................ 85
2.3.2. Hội đoàn phục vụ lễ nghi tôn giáo và đời sống đạo............................... 87
2.3.3. Hội đoàn bác ái xã hội và đời sống đạo................................................. 91
2.4. Phương diện kinh tế, văn hóa – xã hội, giáo dục và đời sống đạo ................ 92
2.4.1. Khía cạnh kinh tế và đời sống đạo ........................................................ 92
2.4.2. Khía cạnh văn hóa – xã hội và đời sống đạo...........................................89
2.4.3. Khía cạnh giáo dục và đời sống đạo...................................................... 97
Chương 3: SỐNG ĐẠO VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CỘNG ĐỒNG GIÁO
DÂN GIÁO XỨ SỞ KIỆN: GIÁ TRỊ - HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP................... 99
3.1. Sống đạo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây dựng đời sống văn
hóa mới ở các thôn làng..................................................................................... 99
3.1.1. Giáo lý Công giáo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây dựng
đời sống văn hóa mới ở các thôn làng............................................................. 99
3.1.2. Nghi lễ Công giáo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây dựng
đời sống văn hóa mới ở các thôn làng........................................................... 109
3.1.3. Hội đoàn Công giáo và những giá trị tích cực đối với công cuộc xây
dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng.................................................. 110
3.1.4. Phương diện kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục và những giá trị tích cực
đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng. ............. 112
3.2. Sống đạo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa
mới ở các thôn làng.......................................................................................... 112
3.2.1. Giáo lý Công giáo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở các thôn làng................................................................. 112
3.2.2. Nghi lễ Công giáo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở các thôn làng................................................................. 115
3.2.3. Hội đoàn Công giáo và những hạn chế đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở các thôn làng................................................................. 115
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
3.2.4. Phương diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục và những hạn chế đối với
công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng. ......................... 117
3.3. Một số giải pháp góp phần nâng cao đời sống đạo của cộng động giáo dân . 118
3.3.1. Giải pháp từ phía địa phương.............................................................. 118
3.3.2. Giải pháp từ phía giáo xứ ................................................................... 121
C. KẾT LUẬN................................................................................................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC8
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, ra đời cùng với sự ra đời của xã hội
loài ngƣời, còn tồn tại và còn có ảnh hƣởng lâu dài tới xã hội loài ngƣời. Dù tôn
giáo là “bông hoa tƣởng tƣợng”, là “mặt trời hƣ ảo”, phản ánh hƣ ảo thế giới khách
quan nhƣng tôn giáo luôn có kỳ vọng đáp ứng nhu cầu của một bộ phận con ngƣời
về nhận thức thế giới tự nhiên, xã hội và chính con ngƣời. Tôn giáo còn là “liều
thuốc phiện của nhân dân” có tác dụng hiện thực: an ủi, xoa dịu những nỗi đau,
những mất mát, những lo sợ; nuôi một niềm hy vọng cho con ngƣời trong một xã
hội có sự hiện diện của sự bất công, sự bất bình đẳng, sự bất lực, sự đột ngột, bất
ngờ, ngẫu nhiên. Và với hệ thống các giá trị văn hóa vật chất hữu hình, vô hình tồn
tại qua nhiều thế kỷ qua tôn giáo còn có tác dụng đặc biệt đối với sự phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội loài ngƣời.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Công giáo là tôn giáo có số lƣợng tín đồ
lớn thứ hai sau Phật giáo. Tuy không có sự ăn sâu bám rễ và chi phối mạnh mẽ,
dai dẳng vào đời sống dân tộc nhƣ Nho giáo, không có lịch sử tồn tại lâu đời và
gần gũi với đông đảo đời sống nhân dân nhƣ Phật giáo, song Công giáo với hệ
thống văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm dấu ấn phƣơng Tây kết hợp với
truyền thống dân tộc đƣợc tạo dựng trong nửa thiên niên kỷ qua cũng đã tạo ra
một ảnh hƣởng sâu sắc đối với các mặt của đời sống xã hội Việt Nam truyền thống
cũng nhƣ hiện đại.
Trong hệ thống các giá trị văn hóa Công giáo, sống đạo của cộng đồng giáo
dân hiện là một trong những vấn đề đƣợc quan tâm hàng đầu không chỉ của giới
nghiên cứu tôn giáo mà còn của chính giáo hội Công giáo các nƣớc nói chung, Việt
Nam nói riêng. Đời sống đạo của ngƣời tín hữu giáo dân đã và đang có những biến
đổi sâu sắc. Ở Việt Nam, trƣớc những biến đổi mạnh mẽ của của đời sống xã hội,
trƣớc những cải cách của Công đồng Vatican II và đặc biệt là sau thƣ chung 1980,
ngày nay lối sống đạo của cộng đồng giáo dân Công giáo các giáo xứ giáo họ cũng
đã và đang có những biến đổi to lớn, ảnh hƣởng không nhỏ đến công cuộc đổi mới
ở Việt Nam.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
Trong hệ thống các giáo xứ ở nƣớc ta, Sở Kiện là một trong những mảnh đất
khắc ghi đậm nét dấu ấn lịch sử phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam. Nếu lấy năm
xây dựng nhà thờ Chính tòa (1877) làm mốc thì cho đến nay giáo xứ Sở Kiện đã có
tuổi đời hơn một thế kỷ. Ngƣợc dòng lịch sử, Sở Kiện xƣa không những là thủ phủ
hành chính về mặt tôn giáo cho địa phận Tây Đàng Ngoài (khoảng hơn 60 năm), mà
còn là một trung tâm văn hóa Công giáo cho toàn Đàng Ngoài. Và hiện nay ở Việt
Nam, khi Sở Kiện đƣợc Hội đồng giám mục thế giới chỉ định là tiểu vƣơng cung
thánh đƣờng thứ ba thì tầm quan trọng về mặt tôn giáo và văn hóa của giáo xứ này
càng không thể phủ nhận. Có thể nói, ở Việt Nam Sở Kiện là một trong những
thánh địa tôn giáo có vai trò quan trọng.
Là một trong những giáo xứ có bề dày lịch sử, cũng là giáo xứ lớn của tổng
giáo phận Hà Nội, cũng nhƣ đời sống đạo của các cộng đồng xứ họ đạo trong tổng
giáo phận Hà Nội và trong cả nƣớc, ngày nay đời sống đạo của cộng đồng giáo dân
giáo xứ Sở Kiện cũng đã và đang có nhiều thay đổi. Tìm hiểu những thay đổi ấy và
những tác động của nó đến công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phƣơng
là việc làm có ý nghĩa thực tiễn.
Với tất cả những lý do trên chúng tui đã chọn đề tài là “Sống đạo của cộng
đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện thị trấn Kiện Khê huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam
(trong bối cảnh xây dựng đời sống văn hóa mới)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Viết về những ảnh hƣởng của đạo Công giáo đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội đã có các công trình nhƣ: “Góp phần tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong
Kinh thánh" của Trƣơng Nhƣ Vƣơng, "Khía cạnh nhân văn của giáo lý Thiên chúa
và công tác xây dựng nếp sống mới ở vùng đồng bào Thiên chúa giáo"; “Đời sống
đạo của người dân Công giáo ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh”
(Nguyễn Hồng Dƣơng)...
Về vấn đề sống đạo và ảnh hƣởng qua lại giữa lối sống đạo và văn hóa
truyền thống của dân tộc, đã có nhiều công trình, bài viết đáng kể nhất là những
tham luận trong cuộc hội thảo về nếp sống đạo của Viện Nghiên cứu tôn giáo năm
2009. Quan tâm đến nếp sống đạo của tầng lớp linh mục có bài “Ý nghĩa đời sống10
độc thân linh mục” của tác giả Lê Thị Ngọc Hạnh. Tìm hiểu về đời sống đạo của
các nữ tu có bài “Bước đầu tìm hiểu về đời sống tu trì của nữ tu Công giáo ở giáo
phận Xuân Lộc hiện nay” của tác giả Đinh Thị Xuân Trang. Và đặc biệt về nếp sống
đạo của cộng đồng giáo dân cũng đã có nhiều bài viết. Quan tâm đến nếp sống cá
nhân, nếp sống gia đình, nếp sống cộng đoàn của cộng đồng giáo dân tác giả Phạm
Huy Thông có bài “Nếp sống Công giáo – sự giao thoa giữa đức tin và văn hóa dân
tộc”. Cùng mối quan tâm về nếp sống gia đình, tác giả Trần Công có bài “Một số
nét về nếp sống gia đình Công giáo Việt Nam”. Đi sâu vào khía cạnh thờ cúng tổ
tiên trong gia đình ngƣời Việt Công giáo có bài “Người Công giáo Việt Nam với tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên” của tác giả Nguyễn Đức Lữ. Gần đây nhất có công trình
chuyên sâu về hôn nhân Công giáo trong gia đình ngƣời Việt: “Hôn nhân và nếp
sống đạo trong gia đình người Việt Công giáo ở giáo họ Nỗ Lực tỉnh Phú Thọ” của
tác giả Lê Đức Hạnh. Cùng mối quan tâm về nếp sống cộng đoàn có bài “Đời sống
cộng đồng của người Công giáo (Tản mạn qua một số xứ họ, đạo ở thủ đô Hà Nội)
của tác giả Văn Đức Thu. Năm 2011, có công trình “Tổ chức xứ họ đạo Công giáo
ở Việt Nam, lịch sử, hiện tại và những vấn đề đặt ra” của tác giả Nguyễn Hồng
Dƣơng. Ở một góc độ khác, với mối quan tâm tập trung vào những ảnh hƣởng của
văn hóa truyền thống đến nếp sống đạo của ngƣời giáo dân có bài “Những ảnh
hưởng của truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo đối với
nếp sống đạo của giáo dân ở giáo xứ Tử Nê ” của tác giả Nguyễn Quang Khải,
“Dấu ấn truyền thống trong nếp sống của người Công giáo giáo phận Đà Nẵng”
của tác giả Đoàn Triệu Long. Dƣới góc nhìn đời sống đạo ở một giáo xứ cụ thể có
các bài: “Giáo xứ chính tòa Phủ Cam với nếp sống đạo của người Công giáo” của
tác giả Nguyễn Hữu Toàn, “Vài nét đơn sơ về sống đạo ở xứ Trung Lao” của tác giả
Mai Thanh Hải. Gần đây nhất, bên ngoài cuộc hội thảo có công trình “Sống đạo
trong đời sống văn hóa của đồng bào Công giáo xứ đạo Hoàng Xá, Thanh Thủy,
Phú Thọ” của tác giả Nguyễn Thị Minh Phƣơng. Nhấn mạnh về nếp sống đạo ở
cộng đồng các dân tộc thiểu số có bài: “Nếp sống đạo của người H’Mông theo đạo
Công giáo ở giáo họ Hầu Thào, Lao Chải (giáo xứ Sa Pa) hiện nay thể hiện qua
việc tham gia các phép bí tích” của tác giả Thu Giang; “Lễ tục vòng đời của người
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
Rơngao (Bana) theo đạo Công giáo” của tác giả Đặng Luận. Nhấn mạnh đến khía
cạnh giáo lý, bí tích, nghi lễ cũng có nhiều bài. Thông qua giáo lý để tìm hiểu cung
cách sống và diễn tả đức tin của ngƣời Công giáo Việt Nam đƣơng thời, tác giả
Khổng Thành Ngọc có bài “Người Công giáo Việt Nam sống tám mối phúc thật”.
Tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng có bài “Giới trẻ Công giáo Việt Nam và việc học tập
giảng dạy giáo lý hiện nay”. Thông qua các bí tích để tìm hiểu đời sống đạo của
cộng đồng ngƣời Việt Công giáo có bài “Sống trong bí tích thánh thể của người
Công giáo Việt Nam”, “Tội – chuộc tội – giải tội”. Tìm hiểu nếp sống đạo của
ngƣời Công giáo thông qua các lễ nghi và việc thực hành các lễ nghi ngoài lễ nghi
Công giáo, có bài “Tìm hiểu nếp sống của người Công giáo Việt Nam qua hương
ước vùng đồng bằng Bắc Bộ” của tác giả Nguyễn Quế Hƣơng. Trƣớc đó năm 2001,
vấn đề này cũng đã đƣợc tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng đề cập trong công trình
“Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam”...
Mỗi tác giả, với những chiều cạnh, góc độ tiếp cận khác nhau đã đặt ra và
giải quyết những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Tuy nhiên viết về
ảnh hƣởng của lối sống đạo đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở
cộng đồng ngƣời Công giáo mà cụ thể là ở cộng động ngƣời Công giáo giáo xứ Sở
Kiện- thị trấn Kiện Khê – huyện Thanh Liêm – tỉnh Hà Nam thì chƣa có một công
trình nào nghiên cứu.
3. Mục tiêu, nhiêṃ vu.̣
3.1. Mục tiêu.
Từ trƣớc đến nay, đạo Công giáo thƣờng đƣợc xem xét nhìn nhận nhiều ở
khía cạnh chính trị. Tuy nhiên ở góc độ văn hóa, đạo Công giáo đã có những đóng
góp về văn hóa vật thể, phi vật thể, văn hóa đời sống, văn hóa tinh thần. Thông qua
một giáo xứ cụ thể đề tài hƣớng đến mục tiêu tìm hiểu những đóng góp trong lĩnh
vực văn hóa của tôn giáo này đối với công cuộc xây dựng đời sống mới ở địa
phƣơng chủ yếu qua lối sống đạo của cộng đồng giáo dân Kiện Khê và Ninh Phú.
3.2. Nhiệm vụ.
- Tìm hiểu lịch sử hình thành và đặc điểm của giáo xứ Sở Kiện12
- Chỉ ra những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện
qua giáo lý, nghi lễ, hội đoàn và các phƣơng diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục
- Chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế nhất định của lối sống đạo đó đối
với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phƣơng, đề xuất một số giải
pháp góp phần nâng cao lối sống đạo ấy.
4.Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu nội dung giáo lý, nội dung lề luật, lễ
nghi... mà chủ yếu chỉ nêu những ảnh hƣởng của nó đối với công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa mới ở cộng đồng ngƣời Công giáo.
Giáo xứ Sở Kiện hiện có 8 cộng đồng họ đạo phân bổ rải rác ở 4 xã, thị trấn
của huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam gồm Thanh Thủy, Thanh Tân, Thanh Tuyền
và thị trấn Kiện Khê trong đó 2/3 giáo dân tập trung trên địa bàn thị trấn Kiện, cụ
thể là ở hai làng Ninh Phú và Kiện Khê - hai làng Công giáo có lịch sử lâu đời. Đề
tài tập trung ở không gian nghiên cứu tiêu biểu Ninh Phú và Kiện Khê.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ
bản sau:
Phƣơng pháp điền dã với các kĩ năng quan sát, miêu tả, tham dự, phỏng vấn
(phỏng vấn nhanh, phỏng vấn sâu)
- Phƣơng pháp điều tra xã hội học với bảng hỏi (gồm 14 câu, số phiếu phát ra
106, thu về 100).
- Phƣơng pháp thu thập thông tin từ sách báo, tạp chí và các nguồn tài liệu
trên internet.
6. Đóng góp của luận văn.
Viết về đời sống đạo của cộng đồng giáo dân thông qua giáo lý, nghi lễ, hội
đoàn, kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục đã có sự quan tâm của nhiều tác giả. Tuy
nhiên các bài viết ở đây thƣờng khuôn ở một số khía cạnh nhất định, chƣa có công
trình nào tìm hiểu một cách hệ thống về vấn đề sống đạo của cộng đồng giáo dân ở
tất cả các khía cạnh trên.
Viết về các giáo xứ giáo họ Việt Nam hiện nay có rất ít công trình. Viết về
giáo xứ Sở Kiện – một giáo xứ lớn của tổng giáo phận Hà Nội, tiểu vƣơng cung
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
thánh đƣờng thứ ba của Việt Nam thì cũng mới chỉ có một số bài viết nhỏ lẻ đăng
tải trên các mạng xã hội, chƣa có một công trình hệ thống nào nghiên cứu về giáo
xứ này. Trong bốn tiểu vƣơng cung thánh đƣờng mang nhiều giá trị văn hóa tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay, Sở Kiện là tiểu vƣơng cung thánh đƣờng đầu tiên đƣợc
tìm hiểu một cách hệ thống.
Cụ thể luận văn đã có những đóng góp nhƣ sau:
- Luận văn tìm hiểu khái quát về lịch sử đạo Công giáo ở giáo xứ Sở Kiện
- Nêu rõ những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứ Sở Kiện
trong bối cảnh xây dựng đời sống văn hóa mới qua giáo lý, nghi lễ, hội đoàn và
phƣơng diện kinh tế,văn hóa- xã hội, giáo dục.
- Chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế của lối sống đạo đối với công cuộc
xây dựng đời sống văn hóa mới ở địa phƣơng. Bƣớc đầu đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao đời sống đạo của cộng đồng giáo dân trong quá trình xây
dựng đời sống văn hóa mới.
Những vấn đề đặt ra và giải quyết trong luận văn, hi vọng trở thành nguồn tài
liệu tham khảo hữu ích cho cán bộ văn hoá và chính quyền địa phƣơng. Đồng thời
luận văn cũng hy vọng là nguồn tài liệu hữu ích cho cộng đồng ngƣời Công giáo ở
giáo xứ Sở Kiện.
7. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 3 chƣơng chính:
Chương 1: Khái quát chung về giáo xứ Sở Kiện
Chương 2: Những biểu hiện sống đạo của cộng đồng giáo dân giáo xứSởKiện
Chương 3: Sống đạo và đời sống văn hóa của cộng đồng giáo dân giáo xứ
Sở Kiện: giá trị, hạn chế và giải pháp.14
B. NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO XỨ SỞ KIỆN
Từ Hà Nội xuôi về phía Nam dọc theo trục quốc lộ xƣơng sống 1A, qua thị
xã Phủ Lý khoảng 3 km là đến Cầu Gừng, bên tay phải là con đƣờng đê trải đá dẫn
vào lò vôi Chu Hà – cũng là con đƣờng chính để dẫn vào địa bàn thị trấn Kiện Khê
– nơi tòa lạc của giáo xứ Sở Kiện. Xƣa hai bên đƣờng là ao hồ, lau sậy, dân cƣ thƣa
thớt nay là nơi tụ cƣ đông đúc của ngƣời dân xã Thanh Tuyền. Đi hết con đƣờng
nhỏ dài khoảng 4 km này là vào vùng đất thánh. Ngoài con đƣờng ấy, hàng trăm
năm trƣớc, ngƣời ta cũng có thể đi vào giáo xứ bằng đƣờng thủy qua con sông Đáy.
Con sông Đáy chảy qua thành phố Phủ Lý rồi chảy vào địa bàn thị trấn. Ngày nay
vào giáo xứ còn có một con đƣờng lớn mới làm vắt ngang cánh đồng làng.
Giáo xứ Sở Kiện có khuôn viên nằm trên mảnh đất khoảng 9-10 ha (1) .Với
địa thế gần trục giao thông xƣơng sống, lại sát núi, gần sông, đa dạng địa hình mảnh
đất này từ thuở xa xƣa đã rất thích hợp cho các hoạt động tôn giáo.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển giáo xứ Sở Kiện
Sở Kiện là giáo xứ có lịch sử lâu đời. Tuy nhiên cũng nhƣ nhiều giáo xứ giáo
họ khác ở Việt Nam việc tìm hiểu lịch sử giáo xứ thông qua sự hình thành các họ
đạo là việc làm khó bởi sự hạn chế của nguồn tƣ liệu. Các họ đạo ở Sở Kiện đƣợc
hình thành cụ thể nhƣ thế nào qua các thời kỳ thì đến nay cũng chƣa đƣợc rõ. Chỉ
biết rằng cho đến nay giáo xứ từng trải qua hai tên gọi một là Kẻ Sở và hai là Sở
Kiện. Cách đặt tên giáo xứ cũng nhƣ cách đặt tên của nhiều giáo xứ giáo họ khác ở
Việt Nam lấy tên làng để làm thành tên xứ.
1.1.1. Tên gọi của giáo xứ
Sở Kiện là tên gọi ngày nay của giáo xứ. Khi mà giáo xứ có 8 giáo họ (Ninh
Phú, Kiện Khê, Khắc Cần, Yên Xá, Ô Giang, Trung Thứ, Thủy Cơ, Ô Cách). Trong
các văn bản, giấy tờ hiện dùng để trao đổi giữa giáo xứ và giáo phận Hà Nội thƣờng
dùng danh xƣng này. Giáo dân hay chính quyền địa phƣơng cũng dùng tên gọi này.
(1) Theo Trương Công Ứng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
Danh xƣng Sở Kiện bắt đầu có từ khoảng năm 1980 thời linh mục Nguyễn Khắc
Quế. Khi về quản xứ tại đây linh mục Quế đã đệ trình lên tổng giáo phận Hà Nội
cho chuyển tên gọi cũ Kẻ Sở thành Sở Kiện.
Còn từ khoảng năm 1980 trở về trƣớc, giáo xứ đƣợc biết đến với tên gọi Kẻ
Sở. Khi đó giáo xứ có 17 giáo họ (Ninh Phú, Kiện Khê, Khắc Cần, Yên Xá, Ô
Giang, Trung Thứ, Thủy Cơ, Ô Cách, Mậu Chử, Thƣợng Tổ, Hƣơng Kiều, Phạm,
Do Nha, Thịnh Châu, Tân Lâm, Lại Xá, Lan Mát). Tên gọi Kẻ Sở chính thức có
trong văn bản của giáo hội từ khi nào thì hiện nay cũng chƣa đƣợc biết. Chỉ biết
rằng từ sau năm 1862 khi thủ phủ của địa phận Tây Đàng Ngoài chính thức đƣợc
chuyển từ Kẻ Vĩnh (cũng gọi là Vĩnh Trị - Nam Định) về mảnh đất Sở Kiện ngày
nay thì tên gọi Kẻ Sở bắt đầu xuất hiện nhiều trên các sách kinh, sách học, bia mộ
hay các công trình kiến trúc tôn giáo. Tên gọi Kẻ Sở lấy theo tên làng Sở cũng là
làng Ninh Phú.
1.1.2. Cơ sở vật chất tôn giáo của giáo xứ.
Theo Sở thảo lƣợc sử giáo họ Kiện Khê, trong khoảng cuối thế kỷ XVIII thị
trấn Kiện ngày nay cũng nhƣ các vùng lân cận đƣợc biết đến là một vùng đất lau
sậy thƣa thớt dân cƣ, làng đã có nhƣng ngƣời chƣa đông đúc. Tuy nhiên thời kỳ này
đã có sự xuất hiện của các hoạt động tôn giáo. Theo truyền khẩu trong khoảng thời
gian này đã có một số nhà truyền giáo đến rao giảng Phúc âm bằng đƣờng sông.
Theo các thuyền buôn từ vùng biển Nam Định chở gạo, muối lên đây bán các nhà
truyền giáo đã đi lẫn trong các thuyền rồi tranh thủ khi ngƣời dân đến mua hàng
đông thì ra mặt giảng đạo. Ban đầu ngƣời dân trong vùng đến nghe theo tính hiếu
kỳ sau nhờ lời giảng đạo chân phƣơng, thấm đẫm đạo đời mà số lƣợng ngƣời dân
trong vùng đến dự đông hơn. Trong thời buổi đó, các hoạt động rao giảng đƣợc thực
hiện chủ yếu trên thuyền. Chủ thuyền đã dành cho các nhà truyền giáo một khoang
thuyền riêng để cầu nguyện và giảng đạo. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, để tiện cho việc
rao giảng dạy dỗ bổn đạo mới ngƣời dân trong làng Kiện đã dựng lên trên đất liền
những ngôi nhà tranh tre nứa lá cho các nhà truyền giáo ở và làm nhà cầu nguyện.
“Trong quãng thời gian 1820 – 1840 mặc dù có sắc chỉ cấm đạo nhưng các đấng
vẫn thường xuyên cầu nguyện, rao giảng, rửa tội, làm các phép bí tích cho các giáo16
dân tân tòng” [1]. Năm 1862 hòa ƣớc Nhâm Tuất làm tình hình cấm đạo tại Việt
Nam tạm thời lắng xuống, khi thủ phủ của địa phận Tây Đàng Ngoài đã bị phá bình
địa thì các giáo sĩ Hội Truyền giáo Nƣớc ngoài Paris (MEP) đã quyết định di dời
Tòa giám mục và các cơ sở đào tạo cũng nhƣ in ấn từ Vĩnh Trị lên mảnh đất Sở
Kiện ngày nay thì từ đây đời sống tôn giáo của vùng chuyển sang một giai đoạn mới.
Từ 1862 đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, nơi đây trở thành thủ phủ
hành chính của địa phận Tây Đàng Ngoài. Và để xứng tầm là thủ phủ hành chính về
mặt tôn giáo cho toàn địa phận Tây Đàng Ngoài và là một trung tâm văn hóa Công
giáo cho toàn Đàng Ngoài thời ấy, một hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt
động tôn giáo đã đƣợc gây dựng lên bao gồm: cơ sở in ấn, cơ sở thờ tự, cơ sở đào
tạo linh mục, cơ sở phát triển đời sống giáo dân. Có thể coi đây là giai đoạn đặt nền
móng cho sự phát triển của giáo xứ.
Nhà in Kẻ Sở có nguồn gốc là nhà in Kẻ Vĩnh chuyển qua (nhà in Kẻ Vĩnh ra
đời từ năm 1855, dƣới sự điều hành của một thừa sai ngƣời Pháp tên tiếng Việt là
Chiêu) do đó nhà in Kẻ Sở sau này đƣợc kế thừa thành tựu của nhà in cũ. Khi về Kẻ
Sở cha Phƣớc cũng đã gửi mua thêm công cụ in từ Pháp (máy in chữ rời, máy in
thạch, máy đóng sách). Do vậy mà nhà in Kẻ Sở đã trở thành một nhà in lớn và
tƣơng đối hiện đại.
Chức năng chính của nhà in Kẻ Sở là in sách nhà đạo. Nhiều tác phẩm nhà
đạo đã ra đời tại nhà in này hiện nay vẫn chƣa thể thống kê đƣợc hết. Tiêu biểu có
các sách nhƣ: Sách Kính tháng Lái tim Đức Chúa Giêsu, Kẻ Sở, 1883; Đạo đức
châm huấn (hay sách Selva) dịch, Kẻ Sở, 1887; Sách dẫn đàng cho đấng làm thày,
Kẻ Sở, 1889; Thiên Chúa thánh mẫu I, II, Kẻ Sở, 1890; Sách ngắm các ngày trong
năm I,II, Kẻ Sở, 1900; Lộ đức thánh mẫu, Kẻ Sở, 1892; Lộ đức thánh mẫu lượng
ký, Kẻ Sở, 1896; Yên ủi kẻ liệt cùng lễ phép tống táng kẻ đã qua đời, Kẻ Sở, 1896;
Đức Chúa Giêsu truyền sự kính thờ Lái Tim Người cho bà thánh Maria, Kẻ Sở,
1908; Những thu chung, từ 1895 đến 1901, Kẻ Sở, 1901; Sách thuật các thư chung,
Kẻ Sở, 1908; 22 đấng thánh tử vì đạo, Kẻ Sở, 1909; Sách cấm phòng cho những trẻ
em dọn mình chịu lễ lần đầu, Kẻ Sở, 1913; Tháng cầu cho các linh hồn luyện ngục,
Kẻ Sở, 1922; Phụng vụ khoa học (Rituale), Kẻ Sở, 1926
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Ngoài chức năng in sách đạo, nhà in Kẻ Sở còn có chức năng in cả sách học,
thuộc khoa học phổ thông nhƣ nhà in Tân Định tại Sài Gòn cũng vào thời điểm này.
Theo lƣợc tính, nhà in Kẻ Sở đã xuất bản trên 100 đầu sách thuộc các loại: học tiếng
Pháp, học tiếng La-tinh, triết học, thần học, giáo sử. Các loại sách giáo khoa dùng
cho các trƣờng học liên quan đến các bộ môn nhƣ: vật lý học, văn chƣơng, văn
phạm, toán học, địa lý. Các sách tiêu biểu in tại nhà in Kẻ Sở nhƣ: Tự vị An Nam–
Latin, J.S. Theurel, Kẻ Sở, 1887, Phép địa dư, Ninh Phú đƣờng, 1881; Địa dư trung
học, năm phương địa cầu: thiên văn địa lý, địa dư hình thể, bang giao chính trị, lý
tài, Kẻ Sở, 1932 ;
Với nhà in ấy, tòa giám mục Kẻ Sở đã có một phƣơng tiện hữu hiệu để
truyền bá Tin mừng. Nhƣng đồng thời cũng quan trọng không kém là đã đem lại
cho ngƣời giáo dân nơi đây một đời sống mới. Ngƣời dân sớm đƣợc tiếp xúc với
những thành tựu kỹ thuật hiện đại của Châu Âu cũng nhƣ những tri thức quý báu
của văn minh nhân loại.
Cơ sở thờ tự đƣợc tạo dựng trong giai đoạn này quan trọng nhất là ngôi nhà
thờ ông Thánh Giu se, nhà thờ Chính tòa Kẻ Sở và nhà thờ Trại
Nhà thờ ông Thánh Giu se
Nhà thờ ông Thánh Giu se đƣợc biết đến nhƣ là ngôi nhà thờ kiên cố đầu tiên
của giáo xứ. Năm 1874 khi vua Tự Đức có phần buông lỏng việc cấm đạo thì một
ngôi nhà thờ tƣờng xây, cột gỗ, ngói đất nung lợp mái đã ra đời thay thế cho các cơ
sở bằng tranh tre nứa lá. Ngôi nhà thờ đƣợc xây trên diện tích 187 m2 và có thánh
quan thầy là thánh cả Giu se. Có nhà thờ, có thánh quan thầy, lại đƣợc các giám
mục quan tâm đời sống tinh thần của ngƣời giáo dân thêm phần vững chắc, ngƣời
theo đạo ngày một đông hơn [1].
Để củng cố hơn nữa cơ sở thờ tự tại trung tâm truyền giáo, để đáp ứng nhu
cầu tâm linh của giáo dân ngày một đông hơn, ba năm sau trên mảnh đất làng Ninh
Phú các giáo sĩ đã tiến hành xây dựng một ngôi nhà thờ mới mang tầm vóc quy mô
lớn hơn đó chính là nhà thờ chính tòa Kẻ Sở.
Nhà thờ chính tòa Kẻ Sở18
Năm 1877, trên một mảnh đầm của làng Ninh Phú, cha Phƣớc đã cho nạo vét
toàn bộ đầm lầy rồi cho chôn dƣới đó hàng ngàn phiến gỗ lim để xây dựng nhà thờ.
Vật liệu xây cất nhà thờ đƣợc sử dụng là gạch nung đỏ và vôi trộn với cát, mật mía.
Tƣơng truyền khi chọn điểm để đặt ngôi nhà thờ này, giám mục Phƣớc một ngƣời
nƣớc ngoài nhƣng rất quan tâm đến phong thủy, địa lý phƣơng Đông đã xem rất kỹ
thế đất và hƣớng quay của nhà thờ. Theo truyện kể của ngƣời già trong làng thì nơi
đặt nhà thờ trong lịch sử ngƣời Tàu đã có ý định lấy làm nơi cất giấu vàng. Về
hƣớng quay của nhà thờ, để mong thuận lợi cho đời sống giáo dân sau này, giám
mục Phƣớc đã cố ý thiết kế hậu của nhà thờ về đằng đông. Còn mặt tiền của nhà thờ
nhìn ra sông Đáy, chếch về phía Tây Bắc. Tƣơng truyền hƣớng này thẳng với
hƣớng của quả núi có hình rồng chầu mặt nguyệt. Tính theo đƣờng chim bay, nhà
thờ cách núi con rồng chƣa đầy 2 km. Đỡ lƣng cho núi con rồng, nằm ngay phía sau
là núi đồng cân với hai quả đồ sộ vững chãi nhƣ hai trụ cột.
Cũng theo lời ngƣời già kể lại, khi xây ngôi nhà thờ này đã phải huy động sự
đóng góp của rất nhiều nơi. Giáo phận Thanh Hóa chuyên cung cấp gỗ lim, giáo dân
sở tại chuyên nung vôi, đóng gạch,.... nhìn chung khi ấy ngƣời ta đã phải huy động
toàn thể sức ngƣời và của của cộng đồng dân chúa: “Từ các nơi, người ta đổ tới góp
công, lấy đá, lấy gỗ bên kia sông đem về, nung gạch, nung ngói, bắc giàn, đóng
móng, nghĩa là làm hết các việc kể cả đẽo, đục, khắc, dưới sự điều khiển của Đức
Cha”.(2). Ngoài ra nhà thờ còn có sự giúp đỡ tiền của của hội truyền giáo Ba lê (Pa -
ri) [1]. Tuy nhiên, cũng theo ông Trƣơng Công Ứng thì còn một nguồn của cải quan
trọng nữa để xây nhà thờ khi ấy là kho vàng của một ngƣời Tàu:“Năm ấy, trong
một chuyến tàu đi Hồng Kông đức cha Phước đã có cuộc gặp gỡ với một người Tàu
không gia đình đang trong cơn hấp hối. Biết đây là người có khả năng cứu rỗi linh
hồn mình người Tàu đã cầu xin cha giúp cho được chết an lành và sau khi lên đất
liền thì an táng hộ. Đổi lại người Tàu trao cho cha bí mật về một kho vàng còn chôn
giấu ở nước ta.
Sau khi trở lại Việt Nam, cha Phước đi tìm kho báu đó. Tương truyền kho báu
ấy được chôn ở Thung Trứng hay còn gọi là Bàn Phết thuộc địa phận huyện Kim
(2)Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên, Lược sử Địa phận Hà Nội 1626 – 1954, 1994, trg. 410
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
Bảng (huyện nằm ở phía Tây huyện Thanh Liêm ngày nay). Chuyến đi thứ nhất cha
đã lấy được một thuyền vàng. Chuyến thứ hai trong lúc về gần đến nơi thì thuyền bị
đắm ở thửa ruộng ngay sau nhà thờ bây giờ do thời điểm đó đang là mùa bão lũ. Sau
đó, có một người dân trong làng khi đi cày đã đụng vào những tráp vàng này và về
dâng lên cha. Cha có ý biếu tiền lão nông này nhưng ông không nhận mà chỉ có một
mong mỏi là sau khi ông và vợ ông mất thì xin cha lo liệu hậu sự cho. Về sau khi các
ông trùm (trong đó có ông Trương Công Ứng) đi đo lại đất nhà thờ rồi dọn cỏ, trồng
cây có động phải 2 cái tiều nằm trong đất của nhà thờ, người ta cho rằng đó là tiểu
của hai ông bà ngày xưa từng dâng vàng cho cha Phước.
Sau khi cha Phước mất, cha Đông tiếp tục lần theo bí mật của người Tàu đi
vào Thung Trứng lấy vàng. Đi với cha là một ông bộ phòng. (Câu chuyện về sau là
do người bộ phòng này kể lại. Ông Trương Công Ứng biết được là do nghe một
người già trong làng hay qua chơi kể lại, khi đó ông đã ở tuổi có trí khôn). Mặc dù
đã bị cấm không được theo vào trong cùng cha nhưng do tò mò mà người bộ phòng
vẫn lẻn đi theo sau. Kho vàng của người Tàu được kí gửi ở Thung Trứng theo
cách thần giữ của. Cha phải đi qua ba thử thách. Cửa đầu tiên được trông
giữ bởi một con trăn, cha quăng xuống một con gà trống. Qua được cửa này cha
đến cửa thứ hai. Cửa này được canh giữ bởi một con hùm cha quăng xuống một cái
xỏ lợn. Đến với thử thách thứ ba, đòi chín người đàn bà chửa, cha chần chừ không
biết đối phó ra sao thì cửa bắt đầu sập xuống. Cha và người bộ phòng vội vã lao ra
ngoài. Về sau khi tìm hiểu lại ở cuối cuốn sách cha mới phát hiện 9 người đàn bà
chửa thực ra là chín cái đòng đòng. Sau này kho vàng ấy vẫn bị người Trung Quốc
núp danh đến khai thác vật tư và đã mang đi hết”
Năm 1882, nhà thờ Chính tòa Kẻ Sở cơ bản đƣợc hoàn thành. Năm 1883
chính thức đƣợc khánh thành và mang tƣớc hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm. Nhà thờ đƣợc
đánh giá là huy hoàng nhất tại Đông Dƣơng lúc ấy.
Về cơ bản nhà thờ có kiến trúc theo kiểu Gô-tíc giống nhƣ nhà thờ Đức Bà
tại Pari. Nguyên tắc cấu trúc nhà thờ vẫn đảm bảo quy định của giáo hội đối với nhà
thờ Công giáo có tiền sảnh, gác chuông, lòng nhà thờ, cung thánh, gian mặc áo lễ.
3.2.4. Phương diện kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục và những hạn chế đối
với công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở các thôn làng.
Trong cộng đồng ngƣời Công giáo Kiện Khê và Ninh Phú cơ cấu chuyển
dịch kinh tế còn chậm, tỷ lệ hộ cùng kiệt mỗi làng còn 5 – 6 %. Thêm vào đó khi tình
trạng đất nông nghiệp đang có chiều hƣớng thu giảm, đất dùng cho xây dựng các
khu công nghiệp vẫn đang ở tình trạng san lấp mặt bằng thì chiều hƣớng thất nghiệp
ở địa bàn hai thôn có nguy cơ tăng, đồng nghĩa với nguy cơ gia tăng các tệ nạn xã
hội gây ảnh hƣởng không nhỏ đến trật tự an ninh xã hội của địa phƣơng trong thời
gian tới.
Con đƣờng dẫn ra cánh đồng làng dù một thời đã đƣợc đổ đá nhƣng vào
những ngày mùa gặt hái nhất là những ngày mƣa vẫn ít nhiều gây khó khăn cho
việc đi lại của ngƣời dân. Với con đƣờng này hiện nay địa phƣơng dù đã nhiều lần
kiến nghị với các cấp lãnh đạo tỉnh nhƣng vẫn chƣa giải quyết đƣợc. Bên cạnh con
đƣờng dẫn ra đồng là hai con đƣờng đang xuống cấp trên địa bàn làng Kiện.
Với rảnh nƣớc thải nằm sát mặt đƣờng đi lại của ngƣời dân bên Ninh Phú
không chỉ làm mất cảnh quan chung cho đƣờng làng ngõ xóm mà còn ảnh hƣởng
đến sức khỏe của những hộ gia đình nằm ngay bên cạnh. Nguy cơ tiềm ẩn những
mầm bệnh cho ngƣời dân là không thể tránh khỏi. Bên làng Kiện với các hộ làm vôi
vẫn còn, không chỉ đe dọa sức khỏe cho chính ngƣời làm mà còn làm mất cảnh
quan môi trƣờng chung. Chợ Kiện nằm ngay trong khu vực sinh sống của ngƣời dân
với nguồn rác thải chất đống không đƣợc dọn ngay sau mỗi buổi chợ cũng là nhân
tố gây mầm bệnh cho ngƣời dân sinh sống trong khu vực đó. Rác ở chân cầu Kiện
cũng chƣa đƣợc xử lý triệt để cộng với ô nhiễm tiếng ồn và bụi làm cho môi trƣờng
cảnh quan địa phƣơng và sức khỏe của ngƣời dân bị đe dọa. Chính những môi
trƣờng sống nhƣ trên là một trong những lý do quan trọng khiến hai làng hạn chế
đƣợc công nhận là làng văn hóa.
Để đƣợc công nhận là làng văn hóa, thì một trong những tiêu chí quan trọng
nữa là phải có nhà văn hóa. Tuy nhiên, cho đến nay Kiện Khê vẫn chƣa xây dựng118
đƣợc. Phong trào văn hóa xã hội trừ câu lạc bộ bóng bàn, bóng chuyền hoạt động
hiệu quả còn phần lớn các hội đoàn khác đều hoạt động ở mức duy trì chƣa có thành
tích nổi bật.
Ý thức tham gia các phong trào văn hóa xã hội, tinh thần tự giác ủng hộ các
chƣơng trình từ thiện bác ái xã hội do thị trấn phát động còn hạn chế. Sự hạn chế về
mặt thành tích cũng là lý do làng xã, thôn xóm hạn chế đƣợc công nhận là làng văn
hóa, cũng có nghĩa là công cuộc đổi mới ở địa phƣơng cũng chƣa thực sự mạnh.
Hai trƣờng của hai nhà dòng Kiện và Ninh Phú do chƣa đƣợc thực sự tạo
điều kiện để phát triển nên chƣa thể có nhiều đóng góp cho việc học tập của con em
trong họ đạo Ninh Phú, Kiện Khê
3.3. Một số giải pháp góp phần nâng cao đời sống đạo của cộng động
giáo dân
Để lối sống đạo của cộng đồng ngƣời Công giáo Việt Nam nói chung, cộng
đồng ngƣời Công giáo Ninh Phú, Kiện Khê nói riêng không chỉ là giữ gìn, là theo
đạo mà là hiểu đạo sâu sắc, hành đạo nhiệt thành, để khẩu hiệu “sống phúc âm giữa
lòng dân tộc” đƣợc thực hành thiết nghĩ cần chú ý giải pháp từ cả hai phía giáo hội
và địa phƣơng
3.3.1. Giải pháp từ phía địa phương
3.3.1.1. Về đội ngũ cán bộ
Tôn giáo là một hiện tƣợng xã hội còn tồn tại và còn ảnh hƣởng không nhỏ
đến xã hội loài ngƣời. Với những hệ giá trị văn hóa chứa đựng những yếu tố tích
cực, tôn giáo có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài ngƣời. Và với thế
giới quan khác nhau cùng những hệ giá trị đối lập với xã hội, tôn giáo cũng phần
nào cản trở sự phát triển của khoa học và xã hội loài ngƣời.
Để lối sống đạo của ngƣời Công giáo Việt Nam nói chung, cộng đồng ngƣời
Công giáo Ninh Phú và Kiện Khê nói riêng thực sự hòa nhập vào xã hội và đời sống
dân tộc, để niềm tin của ngƣời theo tôn giáo vào Đảng và nhà nƣớc đƣợc củng cố và
bền vững, để phát huy hơn nữa vai trò của cộng đồng ngƣời Công giáo, cần chú
trọng vào đội ngũ cán bộ ở địa phƣơng.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi119
Nói đến đội ngũ cán bộ ở địa phƣơng có ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống
đạo của cộng đồng ngƣời Công giáo ở các làng xã là các cán bộ văn hóa xã, thôn,
các ông bà trƣởng thôn, các hội trƣởng các hội đoàn của xã hội... Đội ngũ cán bộ
ngoài sự tâm huyết cần am hiểu sâu hơn về văn hóa Công giáo, nhất là về lề lối
sống đạo của ngƣời Công giáo ở địa phƣơng mình.
Bên cạnh việc đƣợc trang bị về kiến thức văn hóa, ngƣời cán bộ cũng cần
đƣợc trang bị về lý luận chính trị vững vàng. Hiểu sâu sắc đƣờng lối chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa của đảng và nhà nƣớc. Về kỹ năng, ngƣời cán bộ cần chú
trọng vào các khả năng diễn thuyết, đàm đạo và thuyết phục cao do những ngƣời
theo đạo thƣờng có một niềm tin tuyệt đối vào đấng siêu nhiên của mình, đôi khi
niềm tin ấy bị lợi dụng mà họ không hề hay biết.
Ứng xứ với linh mục cũng là vấn đề quan trọng. Ngƣời cán bộ cần xây
dựng mối liên hệ mật thiết với linh mục chính xứ. Ai cũng biết một lời của cha xứ
có sức mạnh to lớn đến thế nào đối với cộng đồng dân Chúa. Thông qua cha xứ có
thể kết hợp đƣợc việc đạo với việc đời. Để có đƣợc sự tin tƣởng và yêu mến thực sự
nơi cha xứ bản thân ngƣời cán bộ ở các địa phƣơng cũng phải thực sự chân thành,
cởi mở và có tinh thần hòa hảo.
Để thực sự hiểu đƣợc các sinh hoạt đạo của ngƣời dân, cũng cần dành thời
gian để tham gia sinh hoạt của các hội đoàn để hiểu hơn nữa về lòng đạo cũng nhƣ
tâm tƣ, tình cảm của đồng bào. Đặc biệt cần gắn bó hơn với hội giới trẻ. Khuyến
khích các em tham gia các hoạt động xã hội.
Để đồng bào tích cực hơn nữa trong các hội đoàn xã hội, bản thân các hội
đoàn cũng cần có biện pháp thu hút ngƣời dân tham gia. Ngƣời hội trƣởng của các
hội đoàn cần phát huy hơn nữa vai trò của ngƣời đi đầu.
Muốn giáo dân tự giác và tự nguyện trong các hoạt động xã hội nhƣ đóng
góp làm đƣờng sá, trƣờng học, ủng hộ các phong trào của xã, thôn cần tăng cƣờng
tuyên truyền mạnh mẽ hơn nữa về lòng yêu nƣớc, lòng tự hào tự tôn dân tộc, ý thức
tự lực tự cƣờng.
Song song với giải pháp về đội ngũ cán bộ cũng cần chú trọng đến vấn đề thể
chế văn hóa xã hội.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: