Darel

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối


A.MỞ ĐẦU:
Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của dân luật các nước.
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển với 4000 năm lịch sử,có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật.
Việt Nam đang trên bước đường hội nhập thế giới đồng thời xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ .Vì vậy tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết. Phương pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tốt nhất cho pháp luật Việt Nam có rất nhiều phương pháp,nhưng phương pháp chính và chủ yếu chính là nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt nam với pháp luật các nước trên thế giới để tìm ra những yếu tố đặc sắc, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử,điều kiện kinh tế-xã hội-văn hoá của nước ta từ đó có những sửa đổi,bổ sung tốt nhất để áp dụng vào thực tiễn nước ta.
Từ những lí do nêu trên ta thấy nghiên cứu vấn đề thừa kế theo qui định của pháp luật ở một số nước trên thế giới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.

B.NỘI DUNG:

I.Vấn đề chung về thừa kế:
1.Khái niệm về thừa kế:
-Theo Từ Điển Tiếng Việt:
-Theo Từ Điển Luật Học: Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hay theo qui định của pháp luật.
Quyền thừa kế:cá nhân có quyền để lại di sản cho người thừa kế và người thừa kế có quyền nhận di sản đó.
Quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu của cá nhân.
- Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống”. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật quy định. Pháp luật cho phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết.
- Theo pháp luật thực định: Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự bao gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành qui định về thừa kế,về việc bảo vệ và điều chỉnh chuyển giao tài sản của người đã chết cho những người còn sống là người thừa kế.
2.Các hình thức thừa kế:
-Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
-Hiện nay đa số pháp luật các nuớc trên thế giới đều qui định có hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
+Thừa kế theo pháp luật:là thừa kế theo hàng thừa kế,điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định.
+Thừa kế theo di chúc;là việc để lại di sản và việc huởng di sản theo ý chí của người chết được thể hiên bằng văn bản hay bằng lời nói của người đó trước khi chết. Đây là hình thức thừa kế nhằm bảo đảm cho cá nhân truớc khi chết định đoạt tài sản của mình theo ý muốn của người đó,tuy nhiên sự định đoạt đó chỉ hợp pháp khi đảm bảo các điều kiện luật định.
II. Pháp luật về thừa kế của một số nước trên thế giới.
2.1. pháp luật thừa kế ở Việt Nam
2.1.1. Diện thừa kế:
Theo pháp luật Việt Nam, diện những người thừa kế được dựa trên 3 mối quan hệ chính với người chết:
+ Thứ nhất, quan hệ hôn nhân: xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng.
+ Thứ hai, theo quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (cụ với ông, bà; ông bà với cha mẹ; cha mẹ với các con; Anh chị em ruột…)
+ Thứ ba, theo quan hệ nuôi dưỡng: xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (cha mẹ nhận nuôi con nuôi).
2.1.2. Hàng thừa kế:
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gủi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.
Theo khoản 1 điều 678 BLDS 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra làm 3 hàng:
+ Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
+ Hàng thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội, ngoại.
+ Hàng thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, gì ruột, cậu ruột; cháu ruột của người chết mà người chết là chú, bác, cô, dì, cậu (ruột), chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, ngoại.
2.2. Pháp luật thừa kế của nước Nga
Ở nước Nga cũng như VN chế định về thừa kế được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Trước hết, ta xem xét trên phương diện thừa kế theo pháp luật.
Nga là nước đầu tiên bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó việc nghiên cứu pháp luật của Nga là rất phù hợp cho việc phát triển pháp luật Việt Nam.
2.2.1. thừa kế theo pháp luật
Hàng thừa kế
Bộ luật dân sự Nga chia diện những người thừa kế ra 7 hàng với các qui định tương đối giống với Việt Nam (điều 1141-BLDS Nga): Hàng trên thừa kế trước, hàng dưới thừa kế sau; nhưng điều này vẫn có khác so với pháp luật thừa kế ở VN. Vì theo khoản 1 điều 676 BLDS 2005 thì chia diện những người thừa kế ra 3 hàng. Theo pháp luật nước Nga thì tại các điều 1142, điều 1143, điều 1144 thì những người thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước hưởng di sản thừa kế ( giống khoản 2 điều 676 BLDS 2005 của VN).
Những người thừa kế cùng hàng được chia phần bằng nhau (điều 1146 BLDS LIÊN BANG NGA)
Cũng áp dụng các qui định về thừa kế thế vị đối với các hàng thừa kế.(điêu 1146 blds LIÊN BANG NGA), đồng thời khi quy định về thừa kế thế vị thì pháp luật nước nga quy định người thừa kế hợp pháp bị tước quyền thừa kế thì không được thừa kế thế vị (khoản 2 điều 1446 BLDS LIÊN BANG NGA). Ba hàng thừa kế đầu bao gồm những người theo trình tự ưu tiên hưởng di sản tương tự như điều 679 của nước ta (điều 1142-1144). Những hàng thừa kế sau họ áp dụng phương pháp tính bậc tương tự như của nước cộng hòa Pháp để xác định mối quan hệ thân thuộc của những người thân thích khác đối với người chết.
Qua đó họ xác định những người thừa kế ở ba hàng sau bao gồm: (điều 1145-BLDS Nga- Hàng thừa kế thứ 4 bao gồm những thân thích bậc 3
- Hàng thừa kế thứ 5 bao gồm những thân thích bậc 4
- Hàng thừa kế thứ 6 bao gồm những thân thích bậc 5
- Hàng thừa kế thứ bảy là những người không có mối quan hệ huyết thống với người chết là : Con riêng, bố dượng, mẹ kế.
Pháp luật Nga cũng có những qui định về trường hợp nuôi con nuôi nhưng khác với Việt Nam, luật pháp Nga không công nhận quyền thừa kế của con nuôi đối với cha mẹ nuôi và ngược lại (khoản 2 điều 1147).
Diện thừa kế
theo pháp luật VN dựa trên 3 quan hệ là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Và theo pháp luật Nga thì diện thừa kế cũng tương tự như VN.
Đặc biệt trong chế định thừa kế theo pháp luật của Liên Bang Nga còn quy định về người nhận di sản (người hưởng thừa kế) là trẻ em (điều 1147) và người tàn tật (điều 1148).
2.2.2. THỪA KẾ THEO DI CHÚC
Cũng như các nước khác trên thế giới thì nước Nga cũng quy định ngoài chế định thừa kế theo pháp luật còn có thừa kế theo di chúc.
Giống như pháp luật VN mà cụ thể là tại điều 652 BLDS 2005 quy định các điều kiện để 1di chúc được coi là hợp pháp. Thì pháp luật nước Nga quy định các trường hợp di chúc hợp pháp là di chúc phải được lập thành văn bản và phải có công chứng bởi một công chứng viên. Nếu không thỏa mãn điều kiện này thì di chúc sẽ vô hiệu ( theo điều 1124 BLDS Liên Bang Nga) trừ trường hợp bất thường quy định tại điều 1129 (Một công dân người đang ở trong một tình huống mà rõ ràng là đe dọa cuộc sống của mình và những người, do đức hạnh của hoàn cảnh bất thường hiện hành) thì không cần theo quy định tại điều 1124.
Luật cũng xác định những người không được làm chứng, chứng thực di chúc gồm có: người liên quan đến di chúc như vợ chồng, cha mẹ, con cái của người lập di chúc; công dân mà không có năng lực dân sự đầy đủ;
người mù chữ;
công dân có khuyết tật về thể chất…(khoản 2 điều 1124).
Theo pháp luật VN thì có 3 loại di chúc đó là di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc có công chứng hay chứng thực. còn theo pháp luật liên Bang Nga thì di chúc gồm có những loại sau: di chúc được xác nhận bởi 1 công chứng viên, di chúc bố trí nguồn kinh phí trong ngân hàng và di chúc dưới những trường hợp bất thường.
Pháp luật VN có quy định tuổi lập di chúc (điều 647 BLDS 2005) nhưng BLDS Liên Bang Nga thì không quy định tuổi lập di chúc.
Hình thức di chúc của theo pháp luật VN là bằng miệng hay bằng văn bản còn theo pháp luật Nga thì hình thức chỉ bằng văn bản.
Pháp luật nước Nga cũng như pháp luật VN đều quy định các trường hợp sửa đổi, hủy bỏ di chúc.(điều 1130 BLDS Liên Bang Nga và điều 662 BLDS 2005 của VN).
Tuy nhiên BLDS Liên Bang Nga không quy định về di chúc chung của vợ chồng như BLDS VN. Và di sản dung vào việc thờ cúng và di tặng theo pl VN không được quy định trong pl LBN.
2.2.3. So sánh với pháp luật Việt Nam
Như vậy, thông qua việc tìm hiểu về chế định thừa kế theo pl các nước trong đó có nước Nga để đối chiếu, so sánh với pl VN chúng ta nhận thấy chế định thừa kế giữa 2 nước có một số điểm tương đồng nhưng phần lớn là khác nhau. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì 2 nước VN và Nga là 2 nước có chế độ chính trị khác nhau là XHCN và TBCN. Do đó pl chịu ảnh hưởng bởi chế độ chính trị là điều tất yếu.
2.3. Thừa kế theo pháp luật cộng hoà Pháp
2.3.1. Diện và hàng thừa kế
*Diện thừa kế
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản được xác định trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng giữa người thừa kế và người để lại di sản. So với pháp luật thừa kế của Việt Nam thì diện thừa kế được xác định trên ba cơ sở là quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng và quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế và người để lại di sản, mặt khác pháp luật Pháp quy định về diện thừa kế chủ yếu là thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống.
* Hàng thừa kế
Trên cơ sở diện thừa kế, bộ luật dân sự cộng hòa Pháp chia thành các hàng thừa kế :
- Hàng thừa kế thứ nhất: Những người bề dưới (con của người chết, không phân biệt độ tuổi, giới tính, không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ)
- Hàng thừa kế thứ hai: Những người thừa kế phía trên. Nếu như không có những người thừa kế trực hệ phía dưới thì những người thừa kế trực hệ phía trên sẽ thừa kế di sản theo nguyên tắc người ở bậc gần nhất sẽ loại trừ người ở bậc xa hơn và mỗi người hưởng một suất bằng nhau.

điều này cũng cần được ghi nhận rõ ngay trong BLDS.
Thứ ba: Quyền thừa kế của các tổ chức (pháp nhân) đã sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản.
- Theo quy định của pháp luật dân sự, các pháp nhân cùng loại có thể bị chấm dứt khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách. Nhưng trong những trường hợp này, pháp nhân không chấm dứt tuyệt đối mà quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho các pháp nhân khác. Vậy những pháp nhân này có được thừa kế không?
- Pháp nhân cũng có thể bị chấm dứt theo quy định về giải thể hay phá sản. Khi này, pháp nhân
chấm dứt “tuyệt đối”. Sau khi pháp nhân chấm dứt, một thời gian sau mới phát sinh vụ việc tranh
chấp thừa kế mà pháp nhân đó được chỉ định là người thừa kế và tại thời điểm mở thừa kế pháp
nhân chưa bị giải thể hay phá sản thì ai, cơ quan nào sẽ thay mặt pháp nhân để nhận di sản hay khi này tài sản được coi là tài sản vô chủ và thuộc về nhà nước?
- Mặt khác, theo quy định của pháp luật dân sự, pháp nhân đã bị giải thể, bị tuyên bố phá sản có thể được thành lập lại theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy, trường hợp pháp nhân đó bị giải thể, bị tuyên bố phá sản trước thời điểm mở thừa kế, nhưng sau thời điểm mở thừa kế lại được thành lập lại thì pháp nhân đó có được quyền thừa kế di sản không?
2. Từ chối nhận di sản
Điều 645 BLDS quy định: ” 1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người
thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công chứng nhà nước hay Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế “.
Điều luật dành cho người thừa kế một quyền năng quan trọng: quyền từ chối nhận di sản.
Về hình thức, việc từ chối phải lập thành văn bản, phải thông báo cho một số chủ thể có liên quan.
Quy định này đặt ra một số vấn đề:
Thứ nhất: trong trường hợp người thừa kế vì những lý do khác nhau (không nhằm trốn tránh thực
hiện nghĩa vụ tài sản) mà từ chối nhận di sản, nhưng việc từ chối này chỉ bằng lời nói. Khi phân
chia di sản thừa kế, họ nhất quyết không nhận phần thừa kế của mình thì giải quyết như thế nào? Có hai phương án lựa chọn;
- Phương án 1: dùng kỷ phần thừa kế đó tiếp tục chia đều cho những người thừa kế còn lại (cùng
hàng thừa kế của người để lại di sản).
- Phương án 2: coi đây là một trường hợp từ bỏ quyền sở hữu, kỷ phần thừa kế đó là tài sản vô chủ và thuộc về nhà nước.
Thứ hai: điều luật quy định người từ chối nhận di sản phải thông báo cho một số người, cơ quan có liên quan. Vậy trong trường hợp người từ chối nhận di sản đã thông báo nhưng không thông báo đủ cho những người này (Ví dụ: chỉ thông báo cho những người thừa kế, không thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế…), sau đó người này lại thay đổi ý kiến, yêu cầu được nhận di sản thừa kế thì có cho phép hay không? BLDS cũng chưa quy định cụ thể vấn đề này.
Thứ ba: điều luật quy định thời hạn từ chối là 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Như vậy, theo tinh thần của điều luật, nếu người thừa kế từ chối nhận di sản sau thời hạn trên thì không chấp nhận việc từ chối đó. Vậy hậu quả pháp lý đối với phần thừa kế của người đó được giải quyết như thế nào trong trường hợp họ nhất quyết từ chối nhận di sản? Thêm nữa, trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản đúng thời hạn trên, nhưng sau đó họ lại thay đổi ý kiến, xin nhận di sản thì giải quyết như thế nào, chấp nhận hay không chấp nhận cho họ nhận di sản?
Đây là những vấn đề hết sức bức thiết cần sửa đổi, bổ sung trong BLDS. Quan điểm của chúng tui là: trong trường hợp di sản chưa chia thì cho phép người từ chối nhận di sản có quyền thay đổi ý kiến; trường hợp di sản đã phân chia thì để bảo vệ quyền lợi cho những người thừa kế khác, thúc đẩy quan hệ dân sự phát triển, thì không cho phép người đã từ chối nhận di sản thay đổi ý kiến.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

THANHTHUY460

New Member

Download Tiểu luận Pháp luật về thừa kế của một số nước trên thế giới miễn phí





Yêu cầu quan trọng nhất của chúc thư là phải tuân thủ đủ 3 nguyên tắc: người lập di chúc phải có năng lực chủ thể, tức là phải đạt đến một độ tuổi nhất định, có sự phát triển hoàn toàn bình thường về thể chất và tinh thần.; người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện, không chịu sự tác động từ bất cứ người nào, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép; nội dung của bản di chúc không đi trái lại các quy định của pháp luật, không chống lại các nguyên tắc đạo đức chung của cả xã hội.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
B.NỘI DUNG:
I.Vấn đề chung về thừa kế:
1.Khái niệm về thừa kế:
-Theo Từ Điển Tiếng Việt:
-Theo Từ Điển Luật Học: Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hay theo qui định của pháp luật.
Quyền thừa kế:cá nhân có quyền để lại di sản cho người thừa kế và người thừa kế có quyền nhận di sản đó.
Quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu của cá nhân.
- Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống”. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật quy định. Pháp luật cho phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết.
- Theo pháp luật thực định: Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự bao gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành qui định về thừa kế,về việc bảo vệ và điều chỉnh chuyển giao tài sản của người đã chết cho những người còn sống là người thừa kế.
2.Các hình thức thừa kế:
-Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
-Hiện nay đa số pháp luật các nuớc trên thế giới đều qui định có hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
+Thừa kế theo pháp luật:là thừa kế theo hàng thừa kế,điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định.
+Thừa kế theo di chúc;là việc để lại di sản và việc huởng di sản theo ý chí của người chết được thể hiên bằng văn bản hay bằng lời nói của người đó trước khi chết. Đây là hình thức thừa kế nhằm bảo đảm cho cá nhân truớc khi chết định đoạt tài sản của mình theo ý muốn của người đó,tuy nhiên sự định đoạt đó chỉ hợp pháp khi đảm bảo các điều kiện luật định.
II. Pháp luật về thừa kế của một số nước trên thế giới.
2.1. pháp luật thừa kế ở Việt Nam
2.1.1. Diện thừa kế:
Theo pháp luật Việt Nam, diện những người thừa kế được dựa trên 3 mối quan hệ chính với người chết:
+ Thứ nhất, quan hệ hôn nhân: xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng.
+ Thứ hai, theo quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (cụ với ông, bà; ông bà với cha mẹ; cha mẹ với các con; Anh chị em ruột…)
+ Thứ ba, theo quan hệ nuôi dưỡng: xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (cha mẹ nhận nuôi con nuôi).
2.1.2. Hàng thừa kế:
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gủi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.
Theo khoản 1 điều 678 BLDS 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra làm 3 hàng:
+ Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
+ Hàng thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội, ngoại.
+ Hàng thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, gì ruột, cậu ruột; cháu ruột của người chết mà người chết là chú, bác, cô, dì, cậu (ruột), chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, ngoại.
2.2. Pháp luật thừa kế của nước Nga
Ở nước Nga cũng như VN chế định về thừa kế được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Trước hết, ta xem xét trên phương diện thừa kế theo pháp luật.
Nga là nước đầu tiên bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó việc nghiên cứu pháp luật của Nga là rất phù hợp cho việc phát triển pháp luật Việt Nam.
2.2.1. thừa kế theo pháp luật
Hàng thừa kế
Bộ luật dân sự Nga chia diện những người thừa kế ra 7 hàng với các qui định tương đối giống với Việt Nam (điều 1141-BLDS Nga): Hàng trên thừa kế trước, hàng dưới thừa kế sau; nhưng điều này vẫn có khác so với pháp luật thừa kế ở VN. Vì theo khoản 1 điều 676 BLDS 2005 thì chia diện những người thừa kế ra 3 hàng. Theo pháp luật nước Nga thì tại các điều 1142, điều 1143, điều 1144 thì những người thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước hưởng di sản thừa kế ( giống khoản 2 điều 676 BLDS 2005 của VN).
Những người thừa kế cùng hàng được chia phần bằng nhau (điều 1146 BLDS LIÊN BANG NGA)
Cũng áp dụng các qui định về thừa kế thế vị đối với các hàng thừa kế.(điêu 1146 blds LIÊN BANG NGA), đồng thời khi quy định về thừa kế thế vị thì pháp luật nước nga quy định người thừa kế hợp pháp bị tước quyền thừa kế thì không được thừa kế thế vị (khoản 2 điều 1446 BLDS LIÊN BANG NGA). Ba hàng thừa kế đầu bao gồm những người theo trình tự ưu tiên hưởng di sản tương tự như điều 679 của nước ta (điều 1142-1144). Những hàng thừa kế sau họ áp dụng phương pháp tính bậc tương tự như của nước cộng hòa Pháp để xác định mối quan hệ thân thuộc của những người thân thích khác đối với người chết.
Qua đó họ xác định những người thừa kế ở ba hàng sau bao gồm: (điều 1145-BLDS Nga- Hàng thừa kế thứ 4 bao gồm những thân thích bậc 3- Hàng thừa kế thứ 5 bao gồm những thân thích bậc 4- Hàng thừa kế thứ 6 bao gồm những thân thích bậc 5- Hàng thừa kế thứ bảy là những người không có mối quan hệ huyết thống với người chết là : Con riêng, bố dượng, mẹ kế.Pháp luật Nga cũng có những qui định về trường hợp nuôi con nuôi nhưng khác với Việt Nam, luật pháp Nga không công nhận quyền thừa kế của con nuôi đối với cha mẹ nuôi và ngược lại (khoản 2 điều 1147).
Diện thừa kế
theo pháp luật VN dựa trên 3 quan hệ là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Và theo pháp luật Nga thì diện thừa kế cũng tương tự như VN.
Đặc biệt trong chế định thừa kế theo pháp luật của Liên Bang Nga còn quy định về người nhận di sản (người hưởng thừa kế) là trẻ em (điều 1147) và người tàn tật (điều 1148).
2.2.2. THỪA KẾ THEO DI CHÚC
Cũng như các nước khác trên thế giới thì nước Nga cũng quy định ngoài chế định thừa kế theo pháp luật còn có thừa kế theo di chúc.
Giống như pháp luật VN mà cụ thể là tại điều 652 BLDS 2005 quy định các điều kiện để 1di chúc được coi là hợp pháp. Thì pháp luật nước Nga quy định các trường hợp di chúc hợp pháp là di chúc phải được lập thành văn bản và phải có công chứng bởi một công chứng viên. Nếu không thỏa mãn điều kiện này thì di chúc sẽ vô hiệu ( theo điều 1124 BLDS Liên Bang Nga) trừ trường hợp bất thường quy định tại điều 1129 (Một công dân người đang ở trong một tình huống mà rõ ràng là đe dọa cuộc sống của mình và những người, do đức hạnh của hoàn cảnh bất thường hiện hành) thì không cần theo quy định tại điều 1124.
Luật cũng xác định những người không được làm c...
download giúp mình với ạ. Mình Thank rất nhiều ạ!
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top