nhok4everinlove
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển. Vì toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược.
1 Lời hứa của các tổ chức toàn cầu:
1.1 Lợi ích của toàn cầu hoá:
Thông qua thương mại quốc tế giúp các quốc gia tăng trưởng nhanh hơn, nhiều người trên thế giới sống lâu hơn và hưởng mức sống cao hơn trước đây, giảm đi tình trạng cô lập mà các nước đang phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức cho nhiều người ở các nước đang phát triển…
1.2 Tác hại của toàn cầu hoá:
Làm gia tăng tình trạng cùng kiệt đói và bất bình đẳng trong xã hội, tự do hoá thị trường tài chính nhanh chóng trong khi chưa có các cơ chế cạnh tranh và kiểm soát đã dẫn tới khủng hoảng tài chính châu Á (1997), việc xoá bỏ các hàng rào thương mại để thị trường tự do cạnh tranh (không có sự điều tiết của chính phủ) đã gây thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển bởi hàng hoá của họ sản xuất ra không thể cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài, việc nới lỏng kểm soát thị trường vốn ở Mỹ Latinh và châu Á đưa đến sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá và sự suy yếu của hệ thống ngân hàng, môi trường bị huỷ hoại, tham nhũng gia tăng…
1.3 Những sai lầm của 3 tổ chức (IMF, WB, WTO) điều phối toàn cầu hoá:
1.3.1 Cơ sở hình thành IMF:
IMF được thành lập trên cơ sở niềm tin thị trường thường là không hoàn hảo nhưng nó lại quá tin vào sự hoạt động hiệu quả của thị trường tự do và cần có áp lực quốc tế buộc các nước theo đuổi chính sách kinh tế tiền tệ -tài khoá mở rộng nhằm kích thích nền kinh tế thì IMF lại thường chỉ chấp nhận cho vay nếu các nước thực hiện chính sách tiền tệ -tài khóa khắc khổ (giảm thâm hụt ngân sách, tăng thuế, tăng lãi suất) dẫn tới sự thu hẹp nền kinh tế. Từ 2 nguyên nhân trên mà từ khi thành lập đến nay các chính sách của IMF đưa ra thường mang lại tác hại nhiều hơn là những lợi ích mà nó đem lại cho nền kinh tế toàn cầu.
1.3.2 Những sai lầm của IMF:
Thứ nhất, do quá tin vào hiệu quả của tự do hoá mà nó thường xem nhẹ vai trò của chính phủ (luôn xem chính phủ là nguồn gốc của mọi vấn đề). Thứ hai, mặc dù IMF và WB – 2 tổ chức được lập ra với những mục đích khác nhau (nhiệm vụ của IMF là tập trung vào các vấn đề khủng hoảng, nhiệm vụ của WB là giải quyết các vấn đề cơ cấu kinh tế các nước) nhưng hoạt động thì ngày càng chồng chéo lên nhau (WB chỉ cho các nước vay khi có sự chấp thuận của IMF. Chính vì thế mà nó đã áp đặt một số điều kiện lên các quốc gia khi các nước này cần sự giúp đỡ của nó). Thứ ba, IMF đã đi quá xa giới hạn và khả năng của nó thay vì tập trung vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế vĩ mô. Nó cho rằng, các vấn đề cơ cấu đều ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và do đó sẽ ảnh hưởng tới ngân sách chính phủ hay thâm hụt thương mại. Vì vậy, nó cảm giác mọi vấn đề đều nằm trong quyền quản lí của mình. Thứ 4, IMF là một tổ chức công thay mặt cho các nước thì nó phải là một tổ chức độc lập và minh bạch nhưng trên thực tế các hoạt động của IMF không những bị chi phối bởi ý chí chung của các nước G7 mà còn bởi giới tư bản thương mại, tài chính ở nước đó. Thứ 5 là sự thiếu minh bạch – dân chủ trong việc thảo luận về các chiến lược giải pháp của tổ chức này cho các quốc gia đang phát triển.
Như vậy, trong suốt nửa thế kỉ kể từ khi thành lập đến nay, IMF gần như đã thất bại trong sứ mệnh của nó. Lẽ ra, khi các nước gặp khó khăn về kinh tế thì nó phải trợ giúp tài chính cho các nước này phục hồi trạng thái gần toàn dụng lao động thì nó lại không thực hiện. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế nổ ra ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Tồi tệ hơn, những chính sách mà IMF áp đặt, đặc biệt là tự do hoá thị trường tài chính quá sớm đã đưa đến sự bất ổn định toàn cầu và khi một nước bị khủng hoảng thì các trợ giúp của các chương trình IMF lại càng làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, đặc biệt là người nghèo.
1.3.3 Thoả thuận Bretton Woods:
Đã kêu gọi thành lập một tổ chức kinh tế quốc tế thứ 3, WTO, để kiểm soát quan hệ thương mại quốc tế không những nhằm hạn chế việc các nước tăng thuế nhập khẩu bảo vệ nền kinh tế nội địa gây ra sự tràn lan của suy thoái kinh tế mà còn thúc đẩy sự lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ và tạo ra một diễn đàn để đảm bảo đàm phán thương mại được diễn ra và những thoả thuận được thực hiện. Như vậy, những ý tưởng và dự định đằng sau sự hình thành của các tổ chức quốc tế đều là tốt đẹp, nhưng dần qua thời gian đã bị biến dạng thành những thứ khác nhau. Những định hướng hoạt động của IMF, nhấn mạnh đến sự thất bại của thị trường và vai trò của chính phủ trong việc tạo việc làm đã bị thay thế bởi tư tưởng thị trường tự do. Tư tưởng này, chính là một phần của đồng thuận Washington- một sự đồng thuận giữa IMF, WB, Bộ tài chính Mỹ về "các chính sách đúng" cho các nước phát triển.
1.3.4 Những hạn chế căn bản trong đồng thuận Washington:
Thứ nhất là khá nhiều ý tưởng trong sự đồng thuận mới này được hình thành trong quá trình đối phó với những vấn đề của Mỹ Latinh, nơi các chính phủ thường mất kiểm soát chi tiêu ngân sách trong khi lại thực thi nới lỏng tiền tệ và hậu quả là lạm phát lại được áp dụng cho những nước mà nền kinh tế có cấu trúc, thế mạnh, điểm yếu hoàn toàn khác. Thứ hai, những chính sách như tự do hoá thị trường vốn được đẩy mạnh trên khắp các nước Mỹ Latinh góp phần tạo ra những bất ổn định thì những chính sách này vẫn được thúc đẩy ở nơi khác. Thứ ba, các chính sách được đưa ra không hề phù hợp với những nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển hay chuyển đổi kinh tế như việc bắt một nước đang phát triển mở cửa thị trường cho hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh với sản phẩm của các ngành công nghiệp nội địa còn non nớt và dễ bị tổn thương đã gây ra những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Hay việc yêu cầu các nước phát triển phải thắt chặt chính sách tiền tệ đẩy lãi suất lên cao trong khi mạng lưới an sinh xã hội chưa hình thành đã dẫn đến những người mất việc bị đẩy vào cảnh cùng kiệt đói túng quẫn. Hay việc bắt các nước đang phát triển với hệ thống ngân hàng vừa chỉ mới phát triển phải đối mặt với những rủi ro khi mở cửa thị trường đã làm cho các nước này không thể kiểm soát được dòng chu chuyển vốn khi mà sự lưu chuyển tiền vào và ra ở các nước này diễn ra với tần suất quá lớn. Thêm vào đó, chính sách thắt lưng buộc bụng đã không làm tăng trưởng kinh tế các nước như đã hứa hẹn mà còn là nguyên nhân cản trở tăng trưởng, gia tăng cùng kiệt đói. Tuy nhiên, một số cải cách kiểu thị trường tự do của IMF cũng có đem lại thành công cho một số nước như Chile chẳng hạn nhưng phần còn lại của lục địa này vẫn còn phải tiếp tục bù lại một thập kỉ đã mất mát. Thậm chí, ngay cả khi những nước này đã đẩy lùi được lạm phát thì tình trạng thất nghiệp cao kinh niên vẫn còn. Thêm vào đó, tại các quốc gia có được một chút tăng trưởng ta cũng thấy rõ là lợi ích chỉ tập trung vào trong tay những người giàu và đặc biệt là tầng lớp cực giàu trong khi cùng kiệt đói vẫn hoành hành.
1.3.5 Vấn đề người thay mặt trong IMF:
Những người đứng đầu trong IMF và bộ tài chính Mỹ thường xuất thân từ các công ty tài chính và sau khi kết thúc nhiệm kì trong chính phủ họ lại trở về nơi đó làm việc. Điều này đã cho thấy, những cá nhân này đương nhiên sẽ nhìn thế giới bằng con mắt của cộng đồng tài chính và những quyết định của các tổ chức này luôn luôn phản ảnh quan điểm và lợi ích của những người ra quyết định.
Như vậy có thể nói, toàn cầu hoá bản thân nó không xấu, nó có sức mạnh đem lại vô số những điều tốt. Chính vì vậy, việc ban hành các quyết định, chính sách của IMF nên bớt coi trọng hệ tư tưởng mà hãy nhìn xem thực tế cái gì có hiệu quả. Điều quan trọng là làm sao những thành công ở Đông Á cũng đạt được ở những nơi khác. Cái giá mà chúng ta phải trả sẽ rất lớn nếu để tiếp diễn bất ổn toàn cầu.
2 Những lời hứa bị phá bỏ:
2.1 Ethiopia và cuộc chiến giữa quyền lực chính trị và cùng kiệt đói:
Ethiopia là một trong những nước cùng kiệt nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người chỉ có 100USD/năm và đất nước này đã liên tục phải hứng chịu hạn hán và mất mùa gây nên cái chết của 2 triệu người. Để cải thiện tình hình trên và làm cho đất nước thoát khỏi cùng kiệt đói thủ tướng Meles đã tiến hành quá trình chuyển đổi kinh tế. Cả ông và chính phủ đã cam kết theo đuổi quá trình phi tập trung hoá, đưa chính phủ đến gần người dân và đảm bảo trung tâm đất nước không bị chia tách với các khu vực khác. Chính điều này, đã giúp Ethiopia không còn lạm phát và giá cả đã giảm xuống. Meles đã cho thấy rằng, với những chính sách đúng đắn, ngay cả một quốc gia châu Phi cùng kiệt đói cũng có thể tăng trưởng ổn định. Nhưng Meles đã gặp phải vấn đề với IMF, IMF đã ngừng chương trình tài trợ cho nước này, mặc cho thành quả kinh tế vĩ mô tốt, họ lập luận rằng họ lo ngại về tình hình ngân sách của Ethiopia.
Một xung đột nữa giữa IMF và Ethiopia là vấn đề trả nợ sớm. Ethiopia đã sử dụng một phần dự trữ của mình để trả nợ cho các ngân hàng của Mỹ và IMF đã phản đối chuyện này. Họ phản đối không phải bởi vì cách làm này sai mà vì Ethiopia đã làm điều đó mà không xin phép IMF. Nhưng một quốc gia có chủ quyền không lẽ không thể tự định đoạt được số phận của mình hay sao? Không chỉ dừng lại ở đó, bất đồng này còn tăng lên khi IMF cho rằng các nước nhận tiền viện trợ của nó có trách nhiệm báo cáo tất cả mọi thứ thích hợp, không thực hiện điều đó sẽ dẫn đến việc đình chỉ các chương trình cho vay, bất kể lí do của việc không báo cáo là gì.
Một điểm đáng chú ý khác trong quan hệ giữa IMF và Ethiopia liên quan đến quá trình tự do hoá thị trường tài chính. IMF muốn Ethiopia không chỉ mở cửa thị trường tài chính cho cạnh tranh mà còn muốn chia ngân hàng lớn của nước này thành các đơn vị nhỏ.Trong khí đó, các tập đoàn tài chính lớn như Citibank và Travelers.. còn phải hợp nhất để cạnh tranh hiệu quả thì một ngân hàng quốc gia nhỏ bé của Ethiopia làm sao có thể cạnh tranh nổi. Chính vì thế mà khi các tổ chức tài chính toàn cầu vào một nước, chúng sẽ "hạ gục" mọi đối thủ cạnh tranh trong nước. Và khi thu hút được những người gửi tiền từ bỏ các ngân hàng nội địa, chúng sẽ tập trung hơn và rộng rãi hơn khi cho các tập đoàn đa quốc gia lớn vay hơn là cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và nông dân. Nhưng thực sự IMF đã quá sai lầm, bởi tự do hoá thị trường tài chính là cho phép lãi suất được tự do định đoạt trên thị trường và IMF tin rằng thị trường tài chính tự do luôn làm giảm lãi suất và do đó làm cho nguồn vốn dễ tiếp cận hơn. Thực tế thì không phải như thế, bởi với một nước mà phần lớn là nông dân như Ethiopia, điều quan trọng là nông dân có thể tiếp cận tín dụng với điều kiện hợp lý để mua hạt giống và phân bón. Chính vì thế mà lãi suất của Ethiopia chắc chắn phải thấp hơn lãi suất thị trường tự do và nếu như để tự do hoá thị trường tài chính ngay bây giờ thì người dân nước này càng khó có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Chính vì lẽ đó mà Ethiopia đã đi ngược lại theo những lời khuyên của IMF.
Một vấn đề nữa là IMF đã không tập trung vào sứ mệnh nguyên thuỷ của nó là hỗ trợ cho sự ổn định toàn cầu hoá, thay vào đó nó lại tham gia vào các vấn đề phát triển của các nước đang phát triển. Nó đã không nhận ra rằng, các nước đang phát triển gặp khó khăn nhiều hơn so với các nước phát triển. Đó là do, ở các nước này nhiều thị trường không tồn tại và khi tồn tại thì hoạt động không hoàn hảo. Thêm vào đó là các vấn đề về thông tin và văn hoá có thể ảnh hưởng đáng kể tới hành vi kinh tế.
Hơn thế nữa, những chính sách phù hợp phải được xây dựng bởi các nhà kinh tế hàng đầu, được đào tạo tốt, hiểu biết sâu sắc và làm việc hàng ngày để giải quyết các vấn đề ở ở nước này. Những người bên ngoài có thể đóng vai trò như chia sẻ kinh nghiệm của các nước khác nhưng IMF không muốn chỉ đóng vai trò là một nhà tư vấn cạnh tranh với các nhà tư vấn khác, nó muốn một vai trò trung tâm trong định hướng chính sách của Ethiopia. IMF đã đi quá xa hơn là chỉ đơn giản đảm bảo rằng các nước không lạm chi quá năng lực của mình.
2.2 Botswana minh chứng hùng hồn cho những sai lầm của IMF:
Botswana cách Ethiopia 2300 dặm về phía nam, dân số 1.5 triệu người, thu nhập bình quân đầu người chỉ có 100 USD/năm (vào thời điểm Botswana độc lập1966) và một nền dân chủ ổn định sau ngày giành độc lập. Nó là một nước nông nghiệp nhưng thiếu nước và cơ sở hạ tầng hết sức sơ khai nhưng Botswana lại là nước thành công trong phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân 7.5% (1966-1997). Botswana thuận lợi là có nhiều kim cương, nhưng các nước như Nigeria, Sierra Leone cũng là nước giàu tài nguyên. Tuy nhiên ở những nước này, nguồn lợi từ tài nguyên chỉ càng làm tăng thêm nạn tham nhũng và tranh giành lẫn nhau trong việc kiểm soát nguồn của cải này. Thành công của Botswana dựa trên khả năng duy trì sự ổn định chính trị trên cơ sở đại đoàn kết dân tộc, việc lựa chọn kĩ lưỡng các nhà tư vấn của những người có trách nhiệm và việc duy trì sự hợp tác tốt giữa chính phủ và những nhà tư vấn nước ngoài đến từ nhiều tổ chức. Họ đã giúp Botswana xác lập lộ trình cho tương lai của đất nước, họ đã giải thích một cách cởi mở và chân thành về các chính sách của họ khi họ làm việc với chính phủ nhằm tìm kiếm sự ủng hộ rộng rãi cho những chính sách và chương trình đó. Đây là điều khác biệt hoàn toàn với IMF- nó chỉ làm việc với Bộ tài chính và ngân hàng trung ương.
Sự đồng thuận sống còn ở Botswana đã từng bị đe doạ khi nước này phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế. Một trận hạn hán đã đe doạ cuộc sống của người nuôi gia súc và các vấn đề trong ngành công nghiệp kim cương đã tác động đến tình hình ngân sách của nước này. Nhưng thay vì cần tài trợ cho thâm hụt nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế thì nó lại bắt buộc các nước muốn nhận tài trợ của nó phải tuân thủ chính sách tài khoá thắt lưng buộc bụng. Tuy nhiên, nhờ nhận biết được sự không ổn định xuất phát từ ngành chăn nuôi và kim cương, Botswana đã thận trọng dành ra một quỹ để đề phòng khủng hoảng. Khi nhận thấy nguồn quỹ đang giảm dần, họ đã thắt chặt dây lưng, hợp sức với nhau, quyết định chính sách trên cơ sở đồng thuận để vuợt qua khủng hoảng mà không hề gây ra sự chia cắt xã hội như những nơi khác trong các chương trình của IMF. Như vậy, nhờ việc không tuân theo các điều kiện áp đặt của IMF (cũng có nghĩa là việc Botswana không nhận được tài trợ từ tổ chức này) Botswana đã đi theo cách riêng đòi hỏi ít sự hi sinh hơn và có kết quả tốt hơn.
9.5.2 Xoá nợ: Đối với các nước đang phát triển nợ nần là một gánh nặng trong quá trình phát triển đất nước bởi lẽ một phần lớn thu nhập từ xuất khẩu của họ phải dùng để trả nợ cho các nước phát triển. Vì vậy, nếu không xoá nợ, các nước đang phát triển không thể tăng trưởng được. Tuy nhiên, các chương trình xoá nợ hiện nay mới chỉ là xoá nợ cho những nước cùng kiệt nhất, chính vì thế chương trình này cần được tiến xa hơn nữa đặc biệt là những quốc gia bị ảnh hưởng bởi những sai lầm của các chính sách của IMF.
9.6 Cải cách WTO và cân bằng lịch trình thương mại:
Cải cách WTO sẽ đòi hỏi suy nghĩ sâu hơn về một lịch trình thương mại công bằng- công bằng hơn trong cách đối xử lợi ích của các nước đang phát triển, công bằng hơn khi đối xử với những mối quan tâm vượt ra ngoài phạm vi thương mại như môi trường.
9.7 Tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn:
Một trong những lí do người ta phản đối toàn cầu hoá là do toàn cầu hoá dường như làm xói mòn những giá trị truyền thống. Chính vì thế, để đánh giá toàn cầu hoá, những người chịu trách nhiệm quản lí nó cần đánh giá đầy đủ những lợi ích tích cực cũng như những mặt trái mà nó đem lại. Bên cạnh đó, cần xem xét tốc độ toàn cầu hoá để có thể điều chỉnh, đáp ứng được những thách thức mới và hạn chế những ảnh hưởng của nó đến dân chủ. Nếu toàn cầu hoá tiếp tục được tiến hành theo cách hiện đại, nếu chúng ta không học được những sai lầm trong quá khứ, toàn cầu hoá sẽ không thể thành công trong thúc đẩy phát triển mà còn tiếp tục tạo ra cùng kiệt đói và bất ổn. Nếu không cải cách, làn sóng phản đối đã hình thành sẽ dâng cao hơn và sự bất mãn với toàn cầu hoá sẽ gia tăng. Hơn nữa, để tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn thì cần có sự thay đổi trong các tổ chức và trong tư duy. Hệ tư tưởng thị trường tự do phải được thay bằng những phân tích dựa trên khoa học kinh tế và sự đúc kết từ sự hiểu biết những thất bại của chính phủ và thị trường. Họ cũng cần có trách nhiệm với chính phúc lợi của họ. Họ có thể kiểm soát ngân sách sao cho không có sự chi tiêu quá mức, họ có thể xoá bỏ những hàng rào bảo hộ và xây dựng những quy định chặt chẽ để bảo vệ nước họ trước các nhà đầu cơ nước ngoài và hành vi gian lận trong kinh doanh. Họ cần được khuyến khích áp dụng các luật phá sản và cấu trúc luật pháp cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình của nước họ, chứ không áp đặt những khuôn mẫu do những nước phát triển hơn định ra. Chính vì thế các tổ chức quốc tế cần đảm bảo để các nhà kinh tế, quan chức và chuyên gia ở các nước đang phát triển tham gia tích cực và rộng rãi vào những tranh luận. Có như thế, chúng ta mới có thể tiến tới một toàn cầu hoá mang tính nhân văn sâu sắc.
MỤC LỤC
1 Lời hứa của các tổ chức toàn cầu: 1
1.1 Lợi ích của toàn cầu hoá: 1
1.2 Tác hại của toàn cầu hoá: 1
1.3 Những sai lầm của 3 tổ chức (IMF, WB, WTO) điều phối toàn cầu hoá: 1
1.3.1 Cơ sở hình thành IMF: 1
1.3.2 Những sai lầm của IMF: 2
1.3.3 Thoả thuận Bretton Woods: 3
1.3.4 Những hạn chế căn bản trong đồng thuận Washington: 3
1.3.5 Vấn đề người thay mặt trong IMF: 4
2 Những lời hứa bị phá bỏ: 5
2.1 Ethiopia và cuộc chiến giữa quyền lực chính trị và cùng kiệt đói: 5
2.2 Botswana minh chứng hùng hồn cho những sai lầm của IMF: 7
2.3 Sự thất bại của Kenya do tuân thủ tuyệt đối các chính sách của IMF: 8
2.4 Sự mất cân bằng quyền lực giữa IMF và "khách hàng": 8
3 Quyền tự do lựa chọn? 9
3.1 Tư nhân hoá: 9
3.2 Tự do hoá và vấn đề xác định nhịp độ mở cửa thị trường: 10
3.2.1 Tự do hoá thương mại 10
3.2.2 Tự do hoá thị trường vốn: 11
3.3 Vai trò của đầu tư nước ngoài: 12
3.4 Kinh tế học "lọt sang xuống nia": 13
3.5 Những ưu tiên và chiến lược: 13
4 Cuộc khủng hoảng Đông Á: 13
4.1 Một vài nguyên nhân tạo nên sự "thần kì Đông Á": 13
4.2 Tại sao chính sách của IMF và Bộ tài chính Mỹ lại dẫn đến khủng hoảng: 14
4.3 Những sai lầm của IMF trong khủng hoảng Đông Á (1997): 15
4.3.1 Sai lầm đầu tiên dẫn tới khủng hoảng là IMF đã chuẩn đoán sai vấn đề. 15
4.3.2 Vòng hai của những sai lầm: Lúng túng trong tái cơ cấu 16
4.4 Các nước Đông Á đã vượt qua khủng hoảng như thế nào? 18
4.4.1 Thành công của Malaysia, Trung Quốc 18
4.4.2 Bức tranh tương phản giữa Hàn Quốc và Thái Lan: 19
4.5 Chiến lược thay thế: 19
5 Sự thất bại về chính sách của IMF tại Nga: 19
6. Luật lệ thương mại bất công và những thủ đoạn khác: 23
7 Những con đường tốt hơn đi tới kinh tế thị trường: 25
7.1 Con đường dẫn đến thành công của Ba Lan và Trung Quốc: 25
7.2 Con đường mà Nga cần hướng tới: 27
8 Lịch trình khác của IMF: 28
8.1 IMF xưa và nay: 28
8.2 Vai trò mới cho một chế độ tỷ giá mới? 29
8.3 Thâm hụt thương mại: 29
8.4 Phá sản và rủi ro đạo đức: 29
8.5 Liệu IMF có phục vụ cho cộng đồng tài chính? 30
9 Con đường phía trước: 32
9.1 Lợi ích và hệ tư tưởng: 32
9.2 Sự cần thiết phải có các tổ chức công quốc tế: 32
9.3 Quản trị và minh bạch: 33
9.4 Cải cách IMF và hệ thống tài chính toàn cầu: 34
9.5 Cải cách WB và viện trợ phát triển: 35
9.6 Cải cách WTO và cân bằng lịch trình thương mại: 36
9.7 Tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn: 36
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển. Vì toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược.
1 Lời hứa của các tổ chức toàn cầu:
1.1 Lợi ích của toàn cầu hoá:
Thông qua thương mại quốc tế giúp các quốc gia tăng trưởng nhanh hơn, nhiều người trên thế giới sống lâu hơn và hưởng mức sống cao hơn trước đây, giảm đi tình trạng cô lập mà các nước đang phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức cho nhiều người ở các nước đang phát triển…
1.2 Tác hại của toàn cầu hoá:
Làm gia tăng tình trạng cùng kiệt đói và bất bình đẳng trong xã hội, tự do hoá thị trường tài chính nhanh chóng trong khi chưa có các cơ chế cạnh tranh và kiểm soát đã dẫn tới khủng hoảng tài chính châu Á (1997), việc xoá bỏ các hàng rào thương mại để thị trường tự do cạnh tranh (không có sự điều tiết của chính phủ) đã gây thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển bởi hàng hoá của họ sản xuất ra không thể cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài, việc nới lỏng kểm soát thị trường vốn ở Mỹ Latinh và châu Á đưa đến sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá và sự suy yếu của hệ thống ngân hàng, môi trường bị huỷ hoại, tham nhũng gia tăng…
1.3 Những sai lầm của 3 tổ chức (IMF, WB, WTO) điều phối toàn cầu hoá:
1.3.1 Cơ sở hình thành IMF:
IMF được thành lập trên cơ sở niềm tin thị trường thường là không hoàn hảo nhưng nó lại quá tin vào sự hoạt động hiệu quả của thị trường tự do và cần có áp lực quốc tế buộc các nước theo đuổi chính sách kinh tế tiền tệ -tài khoá mở rộng nhằm kích thích nền kinh tế thì IMF lại thường chỉ chấp nhận cho vay nếu các nước thực hiện chính sách tiền tệ -tài khóa khắc khổ (giảm thâm hụt ngân sách, tăng thuế, tăng lãi suất) dẫn tới sự thu hẹp nền kinh tế. Từ 2 nguyên nhân trên mà từ khi thành lập đến nay các chính sách của IMF đưa ra thường mang lại tác hại nhiều hơn là những lợi ích mà nó đem lại cho nền kinh tế toàn cầu.
1.3.2 Những sai lầm của IMF:
Thứ nhất, do quá tin vào hiệu quả của tự do hoá mà nó thường xem nhẹ vai trò của chính phủ (luôn xem chính phủ là nguồn gốc của mọi vấn đề). Thứ hai, mặc dù IMF và WB – 2 tổ chức được lập ra với những mục đích khác nhau (nhiệm vụ của IMF là tập trung vào các vấn đề khủng hoảng, nhiệm vụ của WB là giải quyết các vấn đề cơ cấu kinh tế các nước) nhưng hoạt động thì ngày càng chồng chéo lên nhau (WB chỉ cho các nước vay khi có sự chấp thuận của IMF. Chính vì thế mà nó đã áp đặt một số điều kiện lên các quốc gia khi các nước này cần sự giúp đỡ của nó). Thứ ba, IMF đã đi quá xa giới hạn và khả năng của nó thay vì tập trung vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế vĩ mô. Nó cho rằng, các vấn đề cơ cấu đều ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và do đó sẽ ảnh hưởng tới ngân sách chính phủ hay thâm hụt thương mại. Vì vậy, nó cảm giác mọi vấn đề đều nằm trong quyền quản lí của mình. Thứ 4, IMF là một tổ chức công thay mặt cho các nước thì nó phải là một tổ chức độc lập và minh bạch nhưng trên thực tế các hoạt động của IMF không những bị chi phối bởi ý chí chung của các nước G7 mà còn bởi giới tư bản thương mại, tài chính ở nước đó. Thứ 5 là sự thiếu minh bạch – dân chủ trong việc thảo luận về các chiến lược giải pháp của tổ chức này cho các quốc gia đang phát triển.
Như vậy, trong suốt nửa thế kỉ kể từ khi thành lập đến nay, IMF gần như đã thất bại trong sứ mệnh của nó. Lẽ ra, khi các nước gặp khó khăn về kinh tế thì nó phải trợ giúp tài chính cho các nước này phục hồi trạng thái gần toàn dụng lao động thì nó lại không thực hiện. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế nổ ra ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Tồi tệ hơn, những chính sách mà IMF áp đặt, đặc biệt là tự do hoá thị trường tài chính quá sớm đã đưa đến sự bất ổn định toàn cầu và khi một nước bị khủng hoảng thì các trợ giúp của các chương trình IMF lại càng làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, đặc biệt là người nghèo.
1.3.3 Thoả thuận Bretton Woods:
Đã kêu gọi thành lập một tổ chức kinh tế quốc tế thứ 3, WTO, để kiểm soát quan hệ thương mại quốc tế không những nhằm hạn chế việc các nước tăng thuế nhập khẩu bảo vệ nền kinh tế nội địa gây ra sự tràn lan của suy thoái kinh tế mà còn thúc đẩy sự lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ và tạo ra một diễn đàn để đảm bảo đàm phán thương mại được diễn ra và những thoả thuận được thực hiện. Như vậy, những ý tưởng và dự định đằng sau sự hình thành của các tổ chức quốc tế đều là tốt đẹp, nhưng dần qua thời gian đã bị biến dạng thành những thứ khác nhau. Những định hướng hoạt động của IMF, nhấn mạnh đến sự thất bại của thị trường và vai trò của chính phủ trong việc tạo việc làm đã bị thay thế bởi tư tưởng thị trường tự do. Tư tưởng này, chính là một phần của đồng thuận Washington- một sự đồng thuận giữa IMF, WB, Bộ tài chính Mỹ về "các chính sách đúng" cho các nước phát triển.
1.3.4 Những hạn chế căn bản trong đồng thuận Washington:
Thứ nhất là khá nhiều ý tưởng trong sự đồng thuận mới này được hình thành trong quá trình đối phó với những vấn đề của Mỹ Latinh, nơi các chính phủ thường mất kiểm soát chi tiêu ngân sách trong khi lại thực thi nới lỏng tiền tệ và hậu quả là lạm phát lại được áp dụng cho những nước mà nền kinh tế có cấu trúc, thế mạnh, điểm yếu hoàn toàn khác. Thứ hai, những chính sách như tự do hoá thị trường vốn được đẩy mạnh trên khắp các nước Mỹ Latinh góp phần tạo ra những bất ổn định thì những chính sách này vẫn được thúc đẩy ở nơi khác. Thứ ba, các chính sách được đưa ra không hề phù hợp với những nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển hay chuyển đổi kinh tế như việc bắt một nước đang phát triển mở cửa thị trường cho hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh với sản phẩm của các ngành công nghiệp nội địa còn non nớt và dễ bị tổn thương đã gây ra những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Hay việc yêu cầu các nước phát triển phải thắt chặt chính sách tiền tệ đẩy lãi suất lên cao trong khi mạng lưới an sinh xã hội chưa hình thành đã dẫn đến những người mất việc bị đẩy vào cảnh cùng kiệt đói túng quẫn. Hay việc bắt các nước đang phát triển với hệ thống ngân hàng vừa chỉ mới phát triển phải đối mặt với những rủi ro khi mở cửa thị trường đã làm cho các nước này không thể kiểm soát được dòng chu chuyển vốn khi mà sự lưu chuyển tiền vào và ra ở các nước này diễn ra với tần suất quá lớn. Thêm vào đó, chính sách thắt lưng buộc bụng đã không làm tăng trưởng kinh tế các nước như đã hứa hẹn mà còn là nguyên nhân cản trở tăng trưởng, gia tăng cùng kiệt đói. Tuy nhiên, một số cải cách kiểu thị trường tự do của IMF cũng có đem lại thành công cho một số nước như Chile chẳng hạn nhưng phần còn lại của lục địa này vẫn còn phải tiếp tục bù lại một thập kỉ đã mất mát. Thậm chí, ngay cả khi những nước này đã đẩy lùi được lạm phát thì tình trạng thất nghiệp cao kinh niên vẫn còn. Thêm vào đó, tại các quốc gia có được một chút tăng trưởng ta cũng thấy rõ là lợi ích chỉ tập trung vào trong tay những người giàu và đặc biệt là tầng lớp cực giàu trong khi cùng kiệt đói vẫn hoành hành.
1.3.5 Vấn đề người thay mặt trong IMF:
Những người đứng đầu trong IMF và bộ tài chính Mỹ thường xuất thân từ các công ty tài chính và sau khi kết thúc nhiệm kì trong chính phủ họ lại trở về nơi đó làm việc. Điều này đã cho thấy, những cá nhân này đương nhiên sẽ nhìn thế giới bằng con mắt của cộng đồng tài chính và những quyết định của các tổ chức này luôn luôn phản ảnh quan điểm và lợi ích của những người ra quyết định.
Như vậy có thể nói, toàn cầu hoá bản thân nó không xấu, nó có sức mạnh đem lại vô số những điều tốt. Chính vì vậy, việc ban hành các quyết định, chính sách của IMF nên bớt coi trọng hệ tư tưởng mà hãy nhìn xem thực tế cái gì có hiệu quả. Điều quan trọng là làm sao những thành công ở Đông Á cũng đạt được ở những nơi khác. Cái giá mà chúng ta phải trả sẽ rất lớn nếu để tiếp diễn bất ổn toàn cầu.
2 Những lời hứa bị phá bỏ:
2.1 Ethiopia và cuộc chiến giữa quyền lực chính trị và cùng kiệt đói:
Ethiopia là một trong những nước cùng kiệt nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người chỉ có 100USD/năm và đất nước này đã liên tục phải hứng chịu hạn hán và mất mùa gây nên cái chết của 2 triệu người. Để cải thiện tình hình trên và làm cho đất nước thoát khỏi cùng kiệt đói thủ tướng Meles đã tiến hành quá trình chuyển đổi kinh tế. Cả ông và chính phủ đã cam kết theo đuổi quá trình phi tập trung hoá, đưa chính phủ đến gần người dân và đảm bảo trung tâm đất nước không bị chia tách với các khu vực khác. Chính điều này, đã giúp Ethiopia không còn lạm phát và giá cả đã giảm xuống. Meles đã cho thấy rằng, với những chính sách đúng đắn, ngay cả một quốc gia châu Phi cùng kiệt đói cũng có thể tăng trưởng ổn định. Nhưng Meles đã gặp phải vấn đề với IMF, IMF đã ngừng chương trình tài trợ cho nước này, mặc cho thành quả kinh tế vĩ mô tốt, họ lập luận rằng họ lo ngại về tình hình ngân sách của Ethiopia.
Một xung đột nữa giữa IMF và Ethiopia là vấn đề trả nợ sớm. Ethiopia đã sử dụng một phần dự trữ của mình để trả nợ cho các ngân hàng của Mỹ và IMF đã phản đối chuyện này. Họ phản đối không phải bởi vì cách làm này sai mà vì Ethiopia đã làm điều đó mà không xin phép IMF. Nhưng một quốc gia có chủ quyền không lẽ không thể tự định đoạt được số phận của mình hay sao? Không chỉ dừng lại ở đó, bất đồng này còn tăng lên khi IMF cho rằng các nước nhận tiền viện trợ của nó có trách nhiệm báo cáo tất cả mọi thứ thích hợp, không thực hiện điều đó sẽ dẫn đến việc đình chỉ các chương trình cho vay, bất kể lí do của việc không báo cáo là gì.
Một điểm đáng chú ý khác trong quan hệ giữa IMF và Ethiopia liên quan đến quá trình tự do hoá thị trường tài chính. IMF muốn Ethiopia không chỉ mở cửa thị trường tài chính cho cạnh tranh mà còn muốn chia ngân hàng lớn của nước này thành các đơn vị nhỏ.Trong khí đó, các tập đoàn tài chính lớn như Citibank và Travelers.. còn phải hợp nhất để cạnh tranh hiệu quả thì một ngân hàng quốc gia nhỏ bé của Ethiopia làm sao có thể cạnh tranh nổi. Chính vì thế mà khi các tổ chức tài chính toàn cầu vào một nước, chúng sẽ "hạ gục" mọi đối thủ cạnh tranh trong nước. Và khi thu hút được những người gửi tiền từ bỏ các ngân hàng nội địa, chúng sẽ tập trung hơn và rộng rãi hơn khi cho các tập đoàn đa quốc gia lớn vay hơn là cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và nông dân. Nhưng thực sự IMF đã quá sai lầm, bởi tự do hoá thị trường tài chính là cho phép lãi suất được tự do định đoạt trên thị trường và IMF tin rằng thị trường tài chính tự do luôn làm giảm lãi suất và do đó làm cho nguồn vốn dễ tiếp cận hơn. Thực tế thì không phải như thế, bởi với một nước mà phần lớn là nông dân như Ethiopia, điều quan trọng là nông dân có thể tiếp cận tín dụng với điều kiện hợp lý để mua hạt giống và phân bón. Chính vì thế mà lãi suất của Ethiopia chắc chắn phải thấp hơn lãi suất thị trường tự do và nếu như để tự do hoá thị trường tài chính ngay bây giờ thì người dân nước này càng khó có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Chính vì lẽ đó mà Ethiopia đã đi ngược lại theo những lời khuyên của IMF.
Một vấn đề nữa là IMF đã không tập trung vào sứ mệnh nguyên thuỷ của nó là hỗ trợ cho sự ổn định toàn cầu hoá, thay vào đó nó lại tham gia vào các vấn đề phát triển của các nước đang phát triển. Nó đã không nhận ra rằng, các nước đang phát triển gặp khó khăn nhiều hơn so với các nước phát triển. Đó là do, ở các nước này nhiều thị trường không tồn tại và khi tồn tại thì hoạt động không hoàn hảo. Thêm vào đó là các vấn đề về thông tin và văn hoá có thể ảnh hưởng đáng kể tới hành vi kinh tế.
Hơn thế nữa, những chính sách phù hợp phải được xây dựng bởi các nhà kinh tế hàng đầu, được đào tạo tốt, hiểu biết sâu sắc và làm việc hàng ngày để giải quyết các vấn đề ở ở nước này. Những người bên ngoài có thể đóng vai trò như chia sẻ kinh nghiệm của các nước khác nhưng IMF không muốn chỉ đóng vai trò là một nhà tư vấn cạnh tranh với các nhà tư vấn khác, nó muốn một vai trò trung tâm trong định hướng chính sách của Ethiopia. IMF đã đi quá xa hơn là chỉ đơn giản đảm bảo rằng các nước không lạm chi quá năng lực của mình.
2.2 Botswana minh chứng hùng hồn cho những sai lầm của IMF:
Botswana cách Ethiopia 2300 dặm về phía nam, dân số 1.5 triệu người, thu nhập bình quân đầu người chỉ có 100 USD/năm (vào thời điểm Botswana độc lập1966) và một nền dân chủ ổn định sau ngày giành độc lập. Nó là một nước nông nghiệp nhưng thiếu nước và cơ sở hạ tầng hết sức sơ khai nhưng Botswana lại là nước thành công trong phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân 7.5% (1966-1997). Botswana thuận lợi là có nhiều kim cương, nhưng các nước như Nigeria, Sierra Leone cũng là nước giàu tài nguyên. Tuy nhiên ở những nước này, nguồn lợi từ tài nguyên chỉ càng làm tăng thêm nạn tham nhũng và tranh giành lẫn nhau trong việc kiểm soát nguồn của cải này. Thành công của Botswana dựa trên khả năng duy trì sự ổn định chính trị trên cơ sở đại đoàn kết dân tộc, việc lựa chọn kĩ lưỡng các nhà tư vấn của những người có trách nhiệm và việc duy trì sự hợp tác tốt giữa chính phủ và những nhà tư vấn nước ngoài đến từ nhiều tổ chức. Họ đã giúp Botswana xác lập lộ trình cho tương lai của đất nước, họ đã giải thích một cách cởi mở và chân thành về các chính sách của họ khi họ làm việc với chính phủ nhằm tìm kiếm sự ủng hộ rộng rãi cho những chính sách và chương trình đó. Đây là điều khác biệt hoàn toàn với IMF- nó chỉ làm việc với Bộ tài chính và ngân hàng trung ương.
Sự đồng thuận sống còn ở Botswana đã từng bị đe doạ khi nước này phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế. Một trận hạn hán đã đe doạ cuộc sống của người nuôi gia súc và các vấn đề trong ngành công nghiệp kim cương đã tác động đến tình hình ngân sách của nước này. Nhưng thay vì cần tài trợ cho thâm hụt nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế thì nó lại bắt buộc các nước muốn nhận tài trợ của nó phải tuân thủ chính sách tài khoá thắt lưng buộc bụng. Tuy nhiên, nhờ nhận biết được sự không ổn định xuất phát từ ngành chăn nuôi và kim cương, Botswana đã thận trọng dành ra một quỹ để đề phòng khủng hoảng. Khi nhận thấy nguồn quỹ đang giảm dần, họ đã thắt chặt dây lưng, hợp sức với nhau, quyết định chính sách trên cơ sở đồng thuận để vuợt qua khủng hoảng mà không hề gây ra sự chia cắt xã hội như những nơi khác trong các chương trình của IMF. Như vậy, nhờ việc không tuân theo các điều kiện áp đặt của IMF (cũng có nghĩa là việc Botswana không nhận được tài trợ từ tổ chức này) Botswana đã đi theo cách riêng đòi hỏi ít sự hi sinh hơn và có kết quả tốt hơn.
9.5.2 Xoá nợ: Đối với các nước đang phát triển nợ nần là một gánh nặng trong quá trình phát triển đất nước bởi lẽ một phần lớn thu nhập từ xuất khẩu của họ phải dùng để trả nợ cho các nước phát triển. Vì vậy, nếu không xoá nợ, các nước đang phát triển không thể tăng trưởng được. Tuy nhiên, các chương trình xoá nợ hiện nay mới chỉ là xoá nợ cho những nước cùng kiệt nhất, chính vì thế chương trình này cần được tiến xa hơn nữa đặc biệt là những quốc gia bị ảnh hưởng bởi những sai lầm của các chính sách của IMF.
9.6 Cải cách WTO và cân bằng lịch trình thương mại:
Cải cách WTO sẽ đòi hỏi suy nghĩ sâu hơn về một lịch trình thương mại công bằng- công bằng hơn trong cách đối xử lợi ích của các nước đang phát triển, công bằng hơn khi đối xử với những mối quan tâm vượt ra ngoài phạm vi thương mại như môi trường.
9.7 Tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn:
Một trong những lí do người ta phản đối toàn cầu hoá là do toàn cầu hoá dường như làm xói mòn những giá trị truyền thống. Chính vì thế, để đánh giá toàn cầu hoá, những người chịu trách nhiệm quản lí nó cần đánh giá đầy đủ những lợi ích tích cực cũng như những mặt trái mà nó đem lại. Bên cạnh đó, cần xem xét tốc độ toàn cầu hoá để có thể điều chỉnh, đáp ứng được những thách thức mới và hạn chế những ảnh hưởng của nó đến dân chủ. Nếu toàn cầu hoá tiếp tục được tiến hành theo cách hiện đại, nếu chúng ta không học được những sai lầm trong quá khứ, toàn cầu hoá sẽ không thể thành công trong thúc đẩy phát triển mà còn tiếp tục tạo ra cùng kiệt đói và bất ổn. Nếu không cải cách, làn sóng phản đối đã hình thành sẽ dâng cao hơn và sự bất mãn với toàn cầu hoá sẽ gia tăng. Hơn nữa, để tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn thì cần có sự thay đổi trong các tổ chức và trong tư duy. Hệ tư tưởng thị trường tự do phải được thay bằng những phân tích dựa trên khoa học kinh tế và sự đúc kết từ sự hiểu biết những thất bại của chính phủ và thị trường. Họ cũng cần có trách nhiệm với chính phúc lợi của họ. Họ có thể kiểm soát ngân sách sao cho không có sự chi tiêu quá mức, họ có thể xoá bỏ những hàng rào bảo hộ và xây dựng những quy định chặt chẽ để bảo vệ nước họ trước các nhà đầu cơ nước ngoài và hành vi gian lận trong kinh doanh. Họ cần được khuyến khích áp dụng các luật phá sản và cấu trúc luật pháp cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình của nước họ, chứ không áp đặt những khuôn mẫu do những nước phát triển hơn định ra. Chính vì thế các tổ chức quốc tế cần đảm bảo để các nhà kinh tế, quan chức và chuyên gia ở các nước đang phát triển tham gia tích cực và rộng rãi vào những tranh luận. Có như thế, chúng ta mới có thể tiến tới một toàn cầu hoá mang tính nhân văn sâu sắc.
MỤC LỤC
1 Lời hứa của các tổ chức toàn cầu: 1
1.1 Lợi ích của toàn cầu hoá: 1
1.2 Tác hại của toàn cầu hoá: 1
1.3 Những sai lầm của 3 tổ chức (IMF, WB, WTO) điều phối toàn cầu hoá: 1
1.3.1 Cơ sở hình thành IMF: 1
1.3.2 Những sai lầm của IMF: 2
1.3.3 Thoả thuận Bretton Woods: 3
1.3.4 Những hạn chế căn bản trong đồng thuận Washington: 3
1.3.5 Vấn đề người thay mặt trong IMF: 4
2 Những lời hứa bị phá bỏ: 5
2.1 Ethiopia và cuộc chiến giữa quyền lực chính trị và cùng kiệt đói: 5
2.2 Botswana minh chứng hùng hồn cho những sai lầm của IMF: 7
2.3 Sự thất bại của Kenya do tuân thủ tuyệt đối các chính sách của IMF: 8
2.4 Sự mất cân bằng quyền lực giữa IMF và "khách hàng": 8
3 Quyền tự do lựa chọn? 9
3.1 Tư nhân hoá: 9
3.2 Tự do hoá và vấn đề xác định nhịp độ mở cửa thị trường: 10
3.2.1 Tự do hoá thương mại 10
3.2.2 Tự do hoá thị trường vốn: 11
3.3 Vai trò của đầu tư nước ngoài: 12
3.4 Kinh tế học "lọt sang xuống nia": 13
3.5 Những ưu tiên và chiến lược: 13
4 Cuộc khủng hoảng Đông Á: 13
4.1 Một vài nguyên nhân tạo nên sự "thần kì Đông Á": 13
4.2 Tại sao chính sách của IMF và Bộ tài chính Mỹ lại dẫn đến khủng hoảng: 14
4.3 Những sai lầm của IMF trong khủng hoảng Đông Á (1997): 15
4.3.1 Sai lầm đầu tiên dẫn tới khủng hoảng là IMF đã chuẩn đoán sai vấn đề. 15
4.3.2 Vòng hai của những sai lầm: Lúng túng trong tái cơ cấu 16
4.4 Các nước Đông Á đã vượt qua khủng hoảng như thế nào? 18
4.4.1 Thành công của Malaysia, Trung Quốc 18
4.4.2 Bức tranh tương phản giữa Hàn Quốc và Thái Lan: 19
4.5 Chiến lược thay thế: 19
5 Sự thất bại về chính sách của IMF tại Nga: 19
6. Luật lệ thương mại bất công và những thủ đoạn khác: 23
7 Những con đường tốt hơn đi tới kinh tế thị trường: 25
7.1 Con đường dẫn đến thành công của Ba Lan và Trung Quốc: 25
7.2 Con đường mà Nga cần hướng tới: 27
8 Lịch trình khác của IMF: 28
8.1 IMF xưa và nay: 28
8.2 Vai trò mới cho một chế độ tỷ giá mới? 29
8.3 Thâm hụt thương mại: 29
8.4 Phá sản và rủi ro đạo đức: 29
8.5 Liệu IMF có phục vụ cho cộng đồng tài chính? 30
9 Con đường phía trước: 32
9.1 Lợi ích và hệ tư tưởng: 32
9.2 Sự cần thiết phải có các tổ chức công quốc tế: 32
9.3 Quản trị và minh bạch: 33
9.4 Cải cách IMF và hệ thống tài chính toàn cầu: 34
9.5 Cải cách WB và viện trợ phát triển: 35
9.6 Cải cách WTO và cân bằng lịch trình thương mại: 36
9.7 Tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn: 36
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: