Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Phần mở đầu vào bài.
I. Tìm hiểu về đạo đức cách mạng.
Đạo đức là gì?
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và hình thức biểu hiện là nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này định hướng, đánh giá điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội nhất định, góp phần bảo vệ kỷ cương xã hội. Bất cứ một chế độ xã hội nào cũng đặt ra việc điều chỉnh hành vi con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, đạo đức được xem là tiến bộ khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ của xã hội.
Đạo đức cách mạng là gì?
Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa khái niệm đạo đức cách mạng, phân tích nội dung bản chất của đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của đạo đức truyền thống Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của con người Việt Nam mới.
1. Quan niệm về vai trò đạo đức Cách Mạng.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng hàm súc theeo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với on người Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất và nhiều nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói, lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới biết đến và ghi nhận.
2. Nguồn gốc tư tưởng đaoh đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong thời kì lịch sử, đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức Phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác- Lenin, cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà ông kể lại.
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức mới của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người dân Việt Nam đều cảm giác gần gũi. Việc tiếp thu những tinh hoa nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn Việt Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
3. Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Nhưng vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minhxem xét một cách toàn diện:
- Đối với mọi đối tượng – từ công nhân nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ, từ các cụ phụ lão đến thanh thiếu niên nhi đồng, đồng bào các dân tộc, tôn giáo… Cùng với việc đề cập đạo đức công dân, Người đặc biệt quan tâm đến đạo đức của các cán bộ Đảng viên.
- Trên mọi lĩnh vực hoạt động của Người- từ đời tư đến đời công, cũng như sinh hoạt học tập lao động, chiến đấu lãnh đạo quản lý…
- Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng- từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ các vùng miền địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế.
4. Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo quan điểm Hồ Chí Minh.
a, Trung với nước hiếu với dân.
Trung - Hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống Việt Nam và Phương Đông, khái niệm này ăn sâu bám rễ trong tâm hồn ngưới Việt Nam.
+Trung là trung với Vua, Khổng Tử đưa ra một cặp mệnh đề “Vua Minh, tui Trung” nói lên quan hệ hai chiều và tác động lẫn nhau, đến Đổng Trọng Thư thời nhà Hán với chế độ phong kiến TW tập quyền thì Trung với vua là một yêu cầu vô điều kiện, “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” vua có tàn bạo thì vẫn phải nghe lệnh.Đạo đức phong kiến trong thời này nhằm bảo vệ tôn ti trật tự của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Trong lịch sử Việt Nam,tư tưởng Trung quân cũng tồn tại như ở những nước Phương Đông chiụ ảnh hưởng của Nho giáo , song tư tưởng Trung Quân của Việt nam gắn bó rất chặt chẽ với tư tưởng Ái Quốc (vì chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị cao nhất trong bảng thang các giá trị, nếu như vua hèn, vua Rước Voi Giày Mả Tổ ,Vua “cõng rắn cắn gà nhà” thì lòng trung quân sẽ tan vỡ, đó cũng là một đặc điểm của tư tưởng trung quân ở Việt Nam.“Dãy Trường Sơn thăm thẳmNước Đại Hải đại ngàn .Vua An Nam theo giặc .Cho dân tình cơ hàn”.(Vè Nghệ Tĩnh),
Kế thừa khái niệm Trung của phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Hồ Chí Minh đã nâng lên tầm nội dung của khái niệm này “Trung với nước” – Trung với nước được coi là phẩm chất cao nhất của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới.
+ Hiếu:
Hiếu là một phẩm chất đạo đức quan trọng được hình thành trong gia đình ở mối quan hệ giữa cha mẹ – con cái, nêu lên nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ. Hiếu là điều kiện để duy trì mối quan hệ gia đình.Cha mẹ nào ở bất kỳ thời đại nào cũng cần những người con có hiếu, Khổng Tử có cặp mệnh đề: “Phụ tử – Tử hiếu” (Cha hiền – con hiếu thảo) - cũng nói lên mối quan hệ hai chiều giữa cha – con. Đến Đổng Trọng Thư – thời nhà Hán – quan hệ cha – con trong đạo tam cương được hiểu một chiều khắc khe ‘Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”. Trong lịch sử Việt Nam chưa có nghe thấy, chưa có trường hợp nào ghi nhận, cha bắt con chết vì ý thích vô lý của cha và cũng chưa thấy con nào bằng lòng chết vì mong muốn vô lý của cha. Quan hệ của cha con Việt Nam gắn kết hài hòa giữa nhân nghĩa với hiếu để.
Hồ Chí Minh kế thừa, khái niệm Hiếu và phát triển lên với nội dung mới “ Hiếu với dân”.Hiếu với cha mẹ mình và hiếu với cha mẹ cùa tất cả mọi người.
Thế nào là Trung với nước, Hiếu với dân?
Trung với nước là trung với sự nghiệp xây dựng nước và giũ nước, nước ở đây là nước với dân, nhân dân là chủ của đất nước, Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ. Cán bộ đảng viên phải là người đầy tớ trung thành với nhân dân. phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất bao trùm và quan trọng nhất chi phối các phẩm chất khác. Hồ Chí Minh yêu cầu cao phẩm chất này ở tất cả các đối tượng.
Chữ Trung chữ Hiếu là những chữ ăn sâu bám rễ vào tâm hồn con người Việt Nam. Hồ Chí Minh sử dụng từ này và nâng lên một nội dung mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới vừa thể hiện tốt truyền thống, vừa thể hiện tính cách mạng,dễ hiểu, dễ nghe, dễ tiếp nhận.
b, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
(đối với người dân và đối với người cán bộ có những nội dung khác nhau)
Đối với người dân , Người giải thích:
Cần: “Là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai… Tục ngữ ta có câu: “Nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ. Dao siêng mài thì sắc bén, Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt… Mọi người điều phải cần, cả nước đều phải cần.” [T5-234]Song người cũng lưu ý.Cần không có nghĩa cần là “ làm cố sống, cố chết trong một ngày, một tuần, một tháng đến nổi sinh ốm đau, phải bỏ việc như vậy không phải là cần” [T6-226]như vậy quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ cần là bao hàm cả cái trí,nghĩa là phải lao động có kế hoạch,sáng tạo và có năng xuất cao.
Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân,của nước và của bản thân mình.“tiết kiệm là không xa xí, không hoang phí bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn… Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là kiệm”. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ kiệm là bao hàm cả cái trí,tiết kiệm một cách khôn ngoan hợp lý.
Quan hệ giữa cần và kiệm ,Người viết “Cần với kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của một con người. Cần không kiệm thì làm chừng nào xào chừng ấy cũng như cái thùng không đáy, nước đổ vô chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hòan không … Kiệm mà không cần … như cái thùng chỉ đựng một ít nước không tiếp tục đổ thêm vào lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến khi khô kiệt” [T5-238]
“Liêm: Liêm trong liêm khiết là trong sạch, không tham lam … Ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân thì gọi là Liêm. Chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp … Ngày nay, nước ta là dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người đều phải Liêm. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam” [T5-243]
( HCM từng nhắc một câu nói của Khổng tử: Người không Liêm không bằng súc vật”)
“Chính, nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn … cần kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có nhành lá, hoa, quả, mới là cây hòan tòan. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là hoàn toàn”.
Đối với những người trong các công sở Hồ Chí Minh giải thích nội dung của Cần - kiệm - liêm - chính như sau:
“Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho chóng – cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai. Phải nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó, ai lười biếng tức là lường gạt dân.”
“Kiệm - giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của chính phủ, tức là của dân, ta cần tiết kiệm … Nhờ các công sở tiết kiệm mà lợi cho dân rất nhiều.
“Liêm – những người ở các công sở, từ làng cho đến chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hay xoay tiền của chính phủ, hay đục khoét nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó không được hưởng. Vì vậy, những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu.”
“Chính – mình là người làm việc công, phải có công tâm, công đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hay tư thù tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình, phải trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng”{t4-336}
. Những người trong các công sở tức trong bộ máy nhà nước “tức đều có nhiều hay ít quyền hành nếu không gữi đúng cần, kiệm, liêm, chính dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọi của dân” [T4-326]
Cần kiệm liêm chính là thước đo văn minh tiến bộ của một dân tộc. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vất chất, mạnh mẽ tinh thần là một dân tộc văn minh tiến bộ, là đặc điểm của một xã hội hưng thịnh, trái lại là đặc điểm của một xã hội suy tàn.
Chí công vô tư
Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn “mọi người vì mình” mà không biết “mình vì mọi người” nó là một thứ nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ nguy hiểm khác: quan liêu, bè phái, tham ô, lãng phí, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chính quyền.
Tuy nhiên cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân đâu là lợi ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân của mỗi gia đình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Mỗi người hãy phát huy sở trường và tính cách riêng của mình
Cần kiệm liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư, ngược lại đã chí công vô tư một lòng vì nước vì dân, vì Đảng, không nghĩ đến bản thân trước “thì nhất định sẽ thực hiện được cần kiêm liêm chính và có nhiều tính tốt khác. “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà những tính tot như sau ngày càng thêm … Nói tóm tắt, tính tốt ấy có 5 điều: Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm” [T5-251].
c, Yêu thương con người, sống có tình nghĩa.
Yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp mà Hồ Chí Minh đòi hỏi phải có trong đạo đức cách mạng. Nếu không có tình yêu thương con người thì không thể nói đến cách mạng,càng không thể nói đến CNXH hayCNCS.Con người ở đây là những người cùng khổ, bạn bè, đồng chí, những người lầm đường lạc lối đã hối cãi, tù binh chiến tranh
Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển: 'Dốt thì dại, dại thì hèn'(8). Vì vậy, để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận cách mạng - ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động thực tiễn.
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật...; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ này quan trọng hơn bao giờ hết, bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với từng cấp học, Người viết: 'Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công'(9). Có như vậy, thế hệ trẻ mới có thể tích lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền đề phát huy năng lực sáng tạo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc.
Ba là, bồi dưỡng thể chất: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, tương lai của loài người hoàn toàn tùy thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự phát triển toàn diện của thanh, thiếu niên và nhi đồng Việt Nam, trong đó có sự phát triển về mặt thể chất. Theo Người, việc giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới... tất thảy đều phải có sức khỏe thì mới thành công. Bởi vì, 'Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe'(10). Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao; đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người, dù gái hay trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn luyện thân thể, coi 'luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe' vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Đặc biệt, đối với thanh niên, Người mong muốn họ phải có sức sống dẻo dai, thể chất cường tráng, tinh thần mạnh mẽ và nghị lực lớn. Để có được như vậy, không có cách nào khác ngoài việc hăng hái, tích cực rèn luyện thể dục, thể thao.
Thấm nhuần và thực hiện những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều thế hệ cách mạng đã nhanh chóng trưởng thành, đóng góp công lao to lớn vào sự phát triển của dân tộc. Họ đã chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội; đã và đang tích cực 'xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn', như mong ước cháy bỏng của Người trước khi từ biệt thế giới này.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những thanh niên, sinh viên và học sinh tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay vẫn xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa 'hồng' vừa 'chuyên''(11).
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hay phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến hành chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng và toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, bởi nó liên quan trực tiếp đến tương lai của đất nước. Đó cũng là một biểu hiện, một nội dung quan trọng của chiến lược 'lấy dân làm gốc'. Có thể khẳng định, cùng với những biện pháp tích cực và đồng bộ khác, cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh' mà Đảng ta vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu vươn lên.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Phần mở đầu vào bài.
I. Tìm hiểu về đạo đức cách mạng.
Đạo đức là gì?
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và hình thức biểu hiện là nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này định hướng, đánh giá điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội nhất định, góp phần bảo vệ kỷ cương xã hội. Bất cứ một chế độ xã hội nào cũng đặt ra việc điều chỉnh hành vi con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, đạo đức được xem là tiến bộ khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ của xã hội.
Đạo đức cách mạng là gì?
Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa khái niệm đạo đức cách mạng, phân tích nội dung bản chất của đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của đạo đức truyền thống Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của con người Việt Nam mới.
1. Quan niệm về vai trò đạo đức Cách Mạng.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng hàm súc theeo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với on người Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất và nhiều nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói, lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới biết đến và ghi nhận.
2. Nguồn gốc tư tưởng đaoh đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong thời kì lịch sử, đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức Phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác- Lenin, cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà ông kể lại.
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức mới của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người dân Việt Nam đều cảm giác gần gũi. Việc tiếp thu những tinh hoa nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn Việt Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
3. Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Nhưng vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minhxem xét một cách toàn diện:
- Đối với mọi đối tượng – từ công nhân nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ, từ các cụ phụ lão đến thanh thiếu niên nhi đồng, đồng bào các dân tộc, tôn giáo… Cùng với việc đề cập đạo đức công dân, Người đặc biệt quan tâm đến đạo đức của các cán bộ Đảng viên.
- Trên mọi lĩnh vực hoạt động của Người- từ đời tư đến đời công, cũng như sinh hoạt học tập lao động, chiến đấu lãnh đạo quản lý…
- Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng- từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ các vùng miền địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế.
4. Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo quan điểm Hồ Chí Minh.
a, Trung với nước hiếu với dân.
Trung - Hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống Việt Nam và Phương Đông, khái niệm này ăn sâu bám rễ trong tâm hồn ngưới Việt Nam.
+Trung là trung với Vua, Khổng Tử đưa ra một cặp mệnh đề “Vua Minh, tui Trung” nói lên quan hệ hai chiều và tác động lẫn nhau, đến Đổng Trọng Thư thời nhà Hán với chế độ phong kiến TW tập quyền thì Trung với vua là một yêu cầu vô điều kiện, “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” vua có tàn bạo thì vẫn phải nghe lệnh.Đạo đức phong kiến trong thời này nhằm bảo vệ tôn ti trật tự của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Trong lịch sử Việt Nam,tư tưởng Trung quân cũng tồn tại như ở những nước Phương Đông chiụ ảnh hưởng của Nho giáo , song tư tưởng Trung Quân của Việt nam gắn bó rất chặt chẽ với tư tưởng Ái Quốc (vì chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị cao nhất trong bảng thang các giá trị, nếu như vua hèn, vua Rước Voi Giày Mả Tổ ,Vua “cõng rắn cắn gà nhà” thì lòng trung quân sẽ tan vỡ, đó cũng là một đặc điểm của tư tưởng trung quân ở Việt Nam.“Dãy Trường Sơn thăm thẳmNước Đại Hải đại ngàn .Vua An Nam theo giặc .Cho dân tình cơ hàn”.(Vè Nghệ Tĩnh),
Kế thừa khái niệm Trung của phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Hồ Chí Minh đã nâng lên tầm nội dung của khái niệm này “Trung với nước” – Trung với nước được coi là phẩm chất cao nhất của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới.
+ Hiếu:
Hiếu là một phẩm chất đạo đức quan trọng được hình thành trong gia đình ở mối quan hệ giữa cha mẹ – con cái, nêu lên nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ. Hiếu là điều kiện để duy trì mối quan hệ gia đình.Cha mẹ nào ở bất kỳ thời đại nào cũng cần những người con có hiếu, Khổng Tử có cặp mệnh đề: “Phụ tử – Tử hiếu” (Cha hiền – con hiếu thảo) - cũng nói lên mối quan hệ hai chiều giữa cha – con. Đến Đổng Trọng Thư – thời nhà Hán – quan hệ cha – con trong đạo tam cương được hiểu một chiều khắc khe ‘Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”. Trong lịch sử Việt Nam chưa có nghe thấy, chưa có trường hợp nào ghi nhận, cha bắt con chết vì ý thích vô lý của cha và cũng chưa thấy con nào bằng lòng chết vì mong muốn vô lý của cha. Quan hệ của cha con Việt Nam gắn kết hài hòa giữa nhân nghĩa với hiếu để.
Hồ Chí Minh kế thừa, khái niệm Hiếu và phát triển lên với nội dung mới “ Hiếu với dân”.Hiếu với cha mẹ mình và hiếu với cha mẹ cùa tất cả mọi người.
Thế nào là Trung với nước, Hiếu với dân?
Trung với nước là trung với sự nghiệp xây dựng nước và giũ nước, nước ở đây là nước với dân, nhân dân là chủ của đất nước, Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ. Cán bộ đảng viên phải là người đầy tớ trung thành với nhân dân. phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất bao trùm và quan trọng nhất chi phối các phẩm chất khác. Hồ Chí Minh yêu cầu cao phẩm chất này ở tất cả các đối tượng.
Chữ Trung chữ Hiếu là những chữ ăn sâu bám rễ vào tâm hồn con người Việt Nam. Hồ Chí Minh sử dụng từ này và nâng lên một nội dung mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới vừa thể hiện tốt truyền thống, vừa thể hiện tính cách mạng,dễ hiểu, dễ nghe, dễ tiếp nhận.
b, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
(đối với người dân và đối với người cán bộ có những nội dung khác nhau)
Đối với người dân , Người giải thích:
Cần: “Là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai… Tục ngữ ta có câu: “Nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ. Dao siêng mài thì sắc bén, Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt… Mọi người điều phải cần, cả nước đều phải cần.” [T5-234]Song người cũng lưu ý.Cần không có nghĩa cần là “ làm cố sống, cố chết trong một ngày, một tuần, một tháng đến nổi sinh ốm đau, phải bỏ việc như vậy không phải là cần” [T6-226]như vậy quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ cần là bao hàm cả cái trí,nghĩa là phải lao động có kế hoạch,sáng tạo và có năng xuất cao.
Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân,của nước và của bản thân mình.“tiết kiệm là không xa xí, không hoang phí bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn… Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là kiệm”. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ kiệm là bao hàm cả cái trí,tiết kiệm một cách khôn ngoan hợp lý.
Quan hệ giữa cần và kiệm ,Người viết “Cần với kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của một con người. Cần không kiệm thì làm chừng nào xào chừng ấy cũng như cái thùng không đáy, nước đổ vô chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hòan không … Kiệm mà không cần … như cái thùng chỉ đựng một ít nước không tiếp tục đổ thêm vào lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến khi khô kiệt” [T5-238]
“Liêm: Liêm trong liêm khiết là trong sạch, không tham lam … Ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân thì gọi là Liêm. Chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp … Ngày nay, nước ta là dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người đều phải Liêm. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam” [T5-243]
( HCM từng nhắc một câu nói của Khổng tử: Người không Liêm không bằng súc vật”)
“Chính, nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn … cần kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có nhành lá, hoa, quả, mới là cây hòan tòan. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là hoàn toàn”.
Đối với những người trong các công sở Hồ Chí Minh giải thích nội dung của Cần - kiệm - liêm - chính như sau:
“Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho chóng – cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai. Phải nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó, ai lười biếng tức là lường gạt dân.”
“Kiệm - giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của chính phủ, tức là của dân, ta cần tiết kiệm … Nhờ các công sở tiết kiệm mà lợi cho dân rất nhiều.
“Liêm – những người ở các công sở, từ làng cho đến chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hay xoay tiền của chính phủ, hay đục khoét nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó không được hưởng. Vì vậy, những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu.”
“Chính – mình là người làm việc công, phải có công tâm, công đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hay tư thù tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình, phải trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng”{t4-336}
. Những người trong các công sở tức trong bộ máy nhà nước “tức đều có nhiều hay ít quyền hành nếu không gữi đúng cần, kiệm, liêm, chính dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọi của dân” [T4-326]
Cần kiệm liêm chính là thước đo văn minh tiến bộ của một dân tộc. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vất chất, mạnh mẽ tinh thần là một dân tộc văn minh tiến bộ, là đặc điểm của một xã hội hưng thịnh, trái lại là đặc điểm của một xã hội suy tàn.
Chí công vô tư
Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn “mọi người vì mình” mà không biết “mình vì mọi người” nó là một thứ nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ nguy hiểm khác: quan liêu, bè phái, tham ô, lãng phí, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chính quyền.
Tuy nhiên cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân đâu là lợi ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân của mỗi gia đình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Mỗi người hãy phát huy sở trường và tính cách riêng của mình
Cần kiệm liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư, ngược lại đã chí công vô tư một lòng vì nước vì dân, vì Đảng, không nghĩ đến bản thân trước “thì nhất định sẽ thực hiện được cần kiêm liêm chính và có nhiều tính tốt khác. “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà những tính tot như sau ngày càng thêm … Nói tóm tắt, tính tốt ấy có 5 điều: Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm” [T5-251].
c, Yêu thương con người, sống có tình nghĩa.
Yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp mà Hồ Chí Minh đòi hỏi phải có trong đạo đức cách mạng. Nếu không có tình yêu thương con người thì không thể nói đến cách mạng,càng không thể nói đến CNXH hayCNCS.Con người ở đây là những người cùng khổ, bạn bè, đồng chí, những người lầm đường lạc lối đã hối cãi, tù binh chiến tranh
Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển: 'Dốt thì dại, dại thì hèn'(8). Vì vậy, để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận cách mạng - ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động thực tiễn.
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật...; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ này quan trọng hơn bao giờ hết, bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với từng cấp học, Người viết: 'Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công'(9). Có như vậy, thế hệ trẻ mới có thể tích lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền đề phát huy năng lực sáng tạo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc.
Ba là, bồi dưỡng thể chất: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, tương lai của loài người hoàn toàn tùy thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự phát triển toàn diện của thanh, thiếu niên và nhi đồng Việt Nam, trong đó có sự phát triển về mặt thể chất. Theo Người, việc giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới... tất thảy đều phải có sức khỏe thì mới thành công. Bởi vì, 'Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe'(10). Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao; đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người, dù gái hay trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn luyện thân thể, coi 'luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe' vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Đặc biệt, đối với thanh niên, Người mong muốn họ phải có sức sống dẻo dai, thể chất cường tráng, tinh thần mạnh mẽ và nghị lực lớn. Để có được như vậy, không có cách nào khác ngoài việc hăng hái, tích cực rèn luyện thể dục, thể thao.
Thấm nhuần và thực hiện những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều thế hệ cách mạng đã nhanh chóng trưởng thành, đóng góp công lao to lớn vào sự phát triển của dân tộc. Họ đã chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội; đã và đang tích cực 'xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn', như mong ước cháy bỏng của Người trước khi từ biệt thế giới này.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những thanh niên, sinh viên và học sinh tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay vẫn xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa 'hồng' vừa 'chuyên''(11).
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hay phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến hành chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng và toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, bởi nó liên quan trực tiếp đến tương lai của đất nước. Đó cũng là một biểu hiện, một nội dung quan trọng của chiến lược 'lấy dân làm gốc'. Có thể khẳng định, cùng với những biện pháp tích cực và đồng bộ khác, cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh' mà Đảng ta vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu vươn lên.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: bài mở đầu về chuẩn mục đạo đức cách mang của cám bộ dảng vien trong giai đoạn moi, những câu nói hay viết về chuẩn mực đạo đức cách mạng và lời dạy, phân tích tư tưởng hồ chí minh về những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người cách mạng, theo người đạo đức cần có những chuẩn mực nào sau đây, Theo anh chị, chuẩn mực đạo đức nào được xem là đầu tiên và quan trọng trong những chuẩn mực đạo đức mà Hồ Chí Minh đề cập? * 2 điểm Yêu thương con người, sống có tình nghĩa Trung với nước, hiếu với dân Có tinh thần quốc tế trong sáng Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đạo đức cách mạng là gì, tư tưởng hồ chí minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng tóm tắt, bồi dưỡng chuẩn mực đạo đức cách mạng của con người việt nam hiện nay, Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của con người Việt Nam trong thời đại mới? Từ đó, liên hệ với thực tiễn của bản thân về vấn đề này?, những người vừa có tài lại có đức trong việt nam, tư tưởng Hồ Chí Minh 5 điều: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm., Theo Hồ Chí Minh, chuẩn mực đạo đức nào là phẩm chất cao đẹp nhất của con người? a. Trung với nước, hiếu với dân b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa d. Tinh thần quốc tế trong sáng, chuẩn mực đạo đức yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tiểu luận tư tưởng hồ chis minh veef chuaanr mực đạo đức, vận dụng các chuẩn mực cần kiệm liêm chính và tình yêu thương con người trong tthcm, tiểu luận về chuẩn mực đạo đức cách mạng, tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về những chuẩn mực đạo đức
Last edited by a moderator: