traitimanh_kotheyeuhainguoi_bmt2
New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học (qua Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Thời xa vắng của Lê Lựu) : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2013
Chủ đề: Văn học Việt Nam
Chiến tranh Việt Nam
Tiểu thuyết
Tự sự học
Miêu tả: 101 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Văn học Việt Nam -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Nghiên cứu về người kể chuyện và điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 qua các tác phẩm (“Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh và “Thời xa vắng” của Lê Lựu). Tìm hiểu nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975. Phân tích ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975
Mục Lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5 1. Lí do chọn đề tài: ............................................................................................... 5 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 16 3.1. Mục đích, nhiệm vụ...................................................................................... 16 3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 16 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 16 4.1. Phương pháp hệ thống ................................................................................ 16 4.2. Phương pháp phân tích ............................................................................... 17 4.3. Phương pháp thống kê ................................................................................. 17 4.4. Phương pháp nghiên cứu so sánh .............................................................. 17 5. Kết cấu của luận văn ....................................................................................... 17 Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ...................................................................................... 17 1.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 .... 19 1.1.1. Khái lược về người kể chuyện .................................................................... 19 1.1.2. Sự đa dạng về người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 21 1.2. Điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............... 32 1.2.1. Khái lược về điểm nhìn .............................................................................. 32 1.2.2. Sự dịch chuyển điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ...................................................................................................................... 34 Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ............................................................................ 40 2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 40 2.1.1. Khái lược về cốt truyện .............................................................................. 40 2.2. Kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 .................... 55 2.2.1. Khái lược về kết cấu ................................................................................... 55 2.2.2. Kết cấu truyền thống và sự phá vỡ kết cấu truyền thống trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ....................................................................... 60 2.2.2.1. Kiểu kết cấu dòng ý thức ......................................................................... 61 2.2.2.2. Kiểu kết cấu lồng ghép, phân mảnh ....................................................... 69 2.2.2.3. Kết cấu truyền thống ............................................................................... 74 Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ...................................................................................... 76 3.1. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ................ 76 3.1.1. Khái lược về ngôn ngữ ............................................................................... 76 3.1.2. Tính phong phú đa dạng của ngôn ngữ tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 78 3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 197587 3.2.1. Khái lược về giọng điệu ............................................................................. 87 3.2.2. Giọng điệu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............... 89 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 99 1. Lí do chọn đề tài: Đối với một dân tộc ngay từ thuở hồng hoang dựng nước và giữ nước đã luôn phải đương đầu với các cuộc chinh phạt của ngoại bang thì c văn học đặc biệt lưu tâm tới đề tài chiến tranh cũng là điều dễ hiểu. Hiện thực đấu tranh chống ngoại xâm đã trở thành đối tượng khám phá và phản ánh của văn học như một tất yếu. Cuộc kháng chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ suốt 30 năm của cả dân tộc, đã trở thành mảng hiện thực phong phú, có sức hấp dẫn không ít người cầm bút. Họ viết về chiến tranh ngay khi cuộc chiến còn đang diễn ra, họ viết về chiến tranh cả khi tiếng súng đã lắng lại và vòng nguyệt quế đã được đặt trên đầu người chiến thắng. Có thể nói, trong sự phát triển của văn học hiện i Việt Nam, mảng văn học về đề tài chiến tranh với nhiều thể loại: thơ ca, truyện ngắn, truyện vừa, kịch, kí, tiểu thuyết chiếm vị trí rất quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiểu thuyết dường như đã phát huy được lợi thế về dung lượng khi tiếp cận mảng hiện thực trải dàn trên một không gian rộng lớn kéo dài từ Bắc tới Nam, từ cao nguyên tới đồng bằng, gắn với khoảng thời gian 30 năm không hề ngắn ngủi. Trước 1975 phải kể đến Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Hòn đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải), Vùng trời (Hữu Mai)… Sau 1975 các tiểu thuyết viết về chiến tranh vẫn tiếp tục ra mắt công chúng: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế, Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nắng đồng bằng, Ba lần và một lần, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc (Chu Lai), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Chuyện làng Cuội, Thời xa vắng (Lê Lựu). Ở những tiểu thuyết này, chiến tranh dù được đề cập đến trực tiếp hay gián tiếp thì vẫn hướng tới mục đích tái hiện một thời ì lịch sử đầy sóng gió của dân tộc trong một cái nhìn mới từ cuộc sống hiện tại sau ngày giải phóng. Người t luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết viết về chiến tranh trước hết bởi đề tài chiến tranh là một đề tài lớn, đầy sức hấp dẫn của văn học nước nhà và tiểu thuyết là một thể loại đạt khá nhiều thành công khi khai thác mảng đề tài này. Chọn đề tài "Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 – dưới góc nhìn tự sự học", người viết xuất phát từ một thực tế rằng tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 đã có nhiều phương diện đổi mới so với tiểu thuyết trước 1975 mà trong đó sự thay đổi về nghệ thuật tự sự là một trong những phương diện đổi mới cơ bản. Trước 1975, chiến tranh được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn ngợi ca, bởi vậy tiểu thuyết thời kì này mang hơi thở của những bản hùng ca hào sảng, tự tin, đầy khí thế. Điều này cũng dễ hiểu khi văn chương được coi là vũ khí đắc lực để tiêu diệt kẻ thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Vả chăng cái xôn xao, náo nức hào hùng đó cũng là là tâm lí chung của cả cộng đồng "những buổi vui sao cả nước lên đường" (Chính Hữu). Sau 1975, khi văn chương đã trút bỏ vai trò chính trị, trở lại với bản chất nghệ thuật đích thực của mình và nhà văn có đủ độ lùi thời gian cần thiết để nghiền ngẫm lại hiện thực thì hứng thú viết về chiến tranh có sự vận động, biến đổi. Trước đây, chúng ta nói nhiều đến chiến thắng, niềm vui, thì bây giờ, trong các trang viết sau ngày giải phóng, những mất mát đau thương vốn dĩ rất thường tình của chiến tranh được nhà văn phản ánh sống động, chân thực với đầy đủ vẻ gai góc của nó. Sự vận động của cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau 1975 đã đem lại cho tiểu thuyết nói riêng và văn học thời kì này nói chung một diện mạo mới. Khảo sát tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, người viết luận văn nhận thấy phần lớn các sáng tác có sự gặp gỡ chung là hứng thú viết về nỗi buồn, về sự mất mát, éo le. Chiến tranh không còn được nhìn bằng cái nhìn ngợi ca lãng mạn mà thay vào đó, những góc khuất đen tối, đau thương của hiện thực bắt đầu được bày lên trang viết của các cây bút sau 1975. Tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh sau 1975 đã đứng trước nhu cầu đổi mới tư duy tiểu thuyết. Điều này chứng tỏ sự nghiêm khắc trong sáng tạo và tâm huyết với thể loại của các tiểu thuyết gia đương đại. Trên phương diện đề tài, tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực hàng ngày, cái đời thường của đời sống cá nhân. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Các đề tài truyền thống hay hiện đại đều được đưa vào trường nhìn mới, hướng tới những gấp khúc trong đường đời và thân phận con người, thấm đẫm cảm hứng nhân văn. Nhìn từ góc độ thể loại, trong những năm đổi mới, tiểu thuyết đã có những tìm tòi, cách tân thể hiện nhiều phương diện, trong đó có nghệ thuật trần thuật. Trong rất nhiều tác phẩm thì Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Thời xa vắng của Lê Lựu có thể coi là những tác phẩm tiêu biểu. 2. Lịch sử vấn đề Văn học thời hậu chiến, đặc biệt là văn học viết về chiến tranh mang một hơi thở mới vừa lạ lẫm nhưng cũng rất đỗi quen thuộc. Quen bởi đó là những đứa con tinh thần của những con người đi ra từ chiến trường, bởi đó là chiến tranh, cái đã chi phối văn học suốt mấy chục năm trời. Còn lạ bởi vì, dù viết về chiến tranh nhưng văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng được nhìn nhận ở một khía cạnh hoàn toàn mới và cái khía cạnh mới ấy lại được biểu hiện ở những phương diện cũng mới. Chiến tranh được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh, đặc biệt là mặt trái của chiến tranh bên cạnh việc miêu tả và thể hiện tới số phận con người. Có lẽ vì những lẽ đó mà tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 nói riêng, tiểu thuyết của nhiều bài báo, công trình khoa học. Từ sau năm 1975, với những thay đổi trong tư duy văn học và việc tiếp nhận nhiều lý thuyết nghiên cứu hiện đại, tình hình nghiên cứu văn xuôi đã có nhiều thành tựu quan trọng. Trong số những thành tựu ấy phải kể đến những công trình tập thể và những sách chuyên luận như: Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn chủ biên, 2006, Nxb GD, Hà Nội); 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám do Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du và Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức (1996), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX của Viện Văn học (2002), Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Phan Cự Đệ chủ biên, 2005)..v.v. đã có những đánh giá tổng kết về bức tranh chung của Văn học Việt Nam sau 1975. Công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX – những vấn đề lịch sử và lý luận (2005) của các nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học như Phan Cự Đệ, Mã Giang Lân, Trần Đình Sử .v.v. đã tổng kết Văn học Việt Nam thế kỉ XX dưới ánh sáng của loại hình học, thi pháp học và văn học so sánh. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về văn học nói chung phải kể đến những công trình, các sách chuyên khảo, chuyên luận viết về tiểu thuyết Việt Nam nói riêng như: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của tác giả Phan Cự Đệ là công trình dày dặn chuyên biệt về vấn đề lý luận tiểu thuyết. Với công trình này, người viết đã có một sự tổng quát toàn diện về quá trình hình thành, phát triển của Văn học Việt Nam hiện đại trên cơ sở các khuynh hướng tiểu thuyết, vấn đề điển hình hóa, vấn đề thể loại, lao động của người cầm bút trong tiểu thuyết. Trên tinh thần thay đổi cách tư duy và phương pháp tiếp cận thể loại, Đổi mới tư duy tiểu thuyết (2002) gồm nhiều bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình đã đánh giá thực trạng, sự cấp thiết cần đổi mới của tiểu thuyết. Ngoài ra phải kể đến những công trình Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật người lính trong tiểu thuyết hậu chiến là họ không xuất hiện trong những sự kiện đạn bm ác liệt mà chủ yếu trong trạng thái suy tư, chiêm nghiệm, “sống với thời gian hai chiều”. Người lính trong tiểu thuyết hậu chiến vừa là con người của thời hiện tại, của cuộc sống thường ngày vừa là con người của quá khứ trong nhu cầu nhận thức lại quá khứ ấy. Và thường là thế này: họ cô đơn, lạc lõng trong cuộc sống hiện tại, còn quá khứ tuy đã thành ký ức nhưng luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi, đeo đẳng suốt cuộc đời họ. Hệ quả của nhận thức mới về lịch sử, về hiện thực và con người đã khiến tiểu thuyết hậu chiến dần hướng vào việc khám phá người lính dưới góc độ cá nhân, đời tư. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người đã trở thành hạt nhân của những thành tựu mà tiểu thuyết hậu chiến đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại về đề tài chiến tranh. Khi được hiện lên với tất cả những tính chất đa diện của con người đời thường, hình tượng người lính chân thực, gần gũi và ám ảnh hơn trong dáng của những nhân vật bi kịch. Tiểu thuyết hậu chiến đã tập trung chú ý đến khía cạnh này của người lính, đặc biệt là bi kịch tinh thần - bi kịch nhận thức của họ trước những phức tạp của cuộc sống mới. Với tiểu thuyết hậu chiến, lần đầu tiên trong văn học chiến tranh, người lính đã được nhìn nhận như một “cá thể người” chứ không phải là hình ảnh biểu trưng cho tập thể, cho cộng đồng: Giang Minh Sài đau khổ, cả đời hối hận vì luôn phải sống theo sự sắp đặt của người khác, phải sống là một người khác chứ không phải là chính con người mình (Thời xa vắng), Hai Hùng cảm giác mình “bị bắn ra khỏi lề đường” (Ăn mày dĩ vãng), Kiên “bị mắc kẹt lại trên cõi đời này”, cô độc và hoàn toàn rơi vào trạng thái bấn loạn, rối bời, triền miên trong mộng mị, vô thức (Nỗi buồn chiến tranh), v..v. Sài, Hai Hùng, Kiên… và nhiều người lính khác nữa trong tiểu thuyết hậu chiến không có được cảm giác hạnh phúc của ngày trở về sau chiến tranh mà luôn sống trong những ám ảnh khôn nguôi. Thay đổi cảm hứng nghệ thuật, chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời tư thế sự, tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 mang một diện mạo mới trong cách thể hiện nội dung mới, đặc biệt là phương diện trần thuật, từ ngôn ngữ, giọng điệu đến điểm nhìn, nhân vật trần thuật rồi cả cốt truyện, kết cấu… Trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện được kể như thế nào bao giờ cũng quan trọng hơn là ai mới thật sự là người viết nên truyện kể ấy. Điểm nhìn trở thành cơ sở để phân biệt người kể chuyện và tác giả. Người kể chuyện có thể mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm của truyện kể và không có vai trò đáng kể trong việc tổ chức truyện. Điểm nhìn và người kể chuyện trở thành hai phương diện không thể tách rời. Truyện bao giờ cũng được kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người kể chuyện nào đó. Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [63]. 1.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 1.1.1. Khái lược về người kể chuyện Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật (Narrate) là phương diện cơ bản của cách tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả…. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2013
Chủ đề: Văn học Việt Nam
Chiến tranh Việt Nam
Tiểu thuyết
Tự sự học
Miêu tả: 101 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Văn học Việt Nam -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Nghiên cứu về người kể chuyện và điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 qua các tác phẩm (“Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh và “Thời xa vắng” của Lê Lựu). Tìm hiểu nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975. Phân tích ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975
Mục Lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5 1. Lí do chọn đề tài: ............................................................................................... 5 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 16 3.1. Mục đích, nhiệm vụ...................................................................................... 16 3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 16 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 16 4.1. Phương pháp hệ thống ................................................................................ 16 4.2. Phương pháp phân tích ............................................................................... 17 4.3. Phương pháp thống kê ................................................................................. 17 4.4. Phương pháp nghiên cứu so sánh .............................................................. 17 5. Kết cấu của luận văn ....................................................................................... 17 Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ...................................................................................... 17 1.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 .... 19 1.1.1. Khái lược về người kể chuyện .................................................................... 19 1.1.2. Sự đa dạng về người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 21 1.2. Điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............... 32 1.2.1. Khái lược về điểm nhìn .............................................................................. 32 1.2.2. Sự dịch chuyển điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ...................................................................................................................... 34 Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ............................................................................ 40 2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 40 2.1.1. Khái lược về cốt truyện .............................................................................. 40 2.2. Kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 .................... 55 2.2.1. Khái lược về kết cấu ................................................................................... 55 2.2.2. Kết cấu truyền thống và sự phá vỡ kết cấu truyền thống trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ....................................................................... 60 2.2.2.1. Kiểu kết cấu dòng ý thức ......................................................................... 61 2.2.2.2. Kiểu kết cấu lồng ghép, phân mảnh ....................................................... 69 2.2.2.3. Kết cấu truyền thống ............................................................................... 74 Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ...................................................................................... 76 3.1. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ................ 76 3.1.1. Khái lược về ngôn ngữ ............................................................................... 76 3.1.2. Tính phong phú đa dạng của ngôn ngữ tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 78 3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 197587 3.2.1. Khái lược về giọng điệu ............................................................................. 87 3.2.2. Giọng điệu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............... 89 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 99 1. Lí do chọn đề tài: Đối với một dân tộc ngay từ thuở hồng hoang dựng nước và giữ nước đã luôn phải đương đầu với các cuộc chinh phạt của ngoại bang thì c văn học đặc biệt lưu tâm tới đề tài chiến tranh cũng là điều dễ hiểu. Hiện thực đấu tranh chống ngoại xâm đã trở thành đối tượng khám phá và phản ánh của văn học như một tất yếu. Cuộc kháng chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ suốt 30 năm của cả dân tộc, đã trở thành mảng hiện thực phong phú, có sức hấp dẫn không ít người cầm bút. Họ viết về chiến tranh ngay khi cuộc chiến còn đang diễn ra, họ viết về chiến tranh cả khi tiếng súng đã lắng lại và vòng nguyệt quế đã được đặt trên đầu người chiến thắng. Có thể nói, trong sự phát triển của văn học hiện i Việt Nam, mảng văn học về đề tài chiến tranh với nhiều thể loại: thơ ca, truyện ngắn, truyện vừa, kịch, kí, tiểu thuyết chiếm vị trí rất quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiểu thuyết dường như đã phát huy được lợi thế về dung lượng khi tiếp cận mảng hiện thực trải dàn trên một không gian rộng lớn kéo dài từ Bắc tới Nam, từ cao nguyên tới đồng bằng, gắn với khoảng thời gian 30 năm không hề ngắn ngủi. Trước 1975 phải kể đến Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Hòn đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải), Vùng trời (Hữu Mai)… Sau 1975 các tiểu thuyết viết về chiến tranh vẫn tiếp tục ra mắt công chúng: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế, Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nắng đồng bằng, Ba lần và một lần, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc (Chu Lai), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Chuyện làng Cuội, Thời xa vắng (Lê Lựu). Ở những tiểu thuyết này, chiến tranh dù được đề cập đến trực tiếp hay gián tiếp thì vẫn hướng tới mục đích tái hiện một thời ì lịch sử đầy sóng gió của dân tộc trong một cái nhìn mới từ cuộc sống hiện tại sau ngày giải phóng. Người t luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết viết về chiến tranh trước hết bởi đề tài chiến tranh là một đề tài lớn, đầy sức hấp dẫn của văn học nước nhà và tiểu thuyết là một thể loại đạt khá nhiều thành công khi khai thác mảng đề tài này. Chọn đề tài "Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 – dưới góc nhìn tự sự học", người viết xuất phát từ một thực tế rằng tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 đã có nhiều phương diện đổi mới so với tiểu thuyết trước 1975 mà trong đó sự thay đổi về nghệ thuật tự sự là một trong những phương diện đổi mới cơ bản. Trước 1975, chiến tranh được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn ngợi ca, bởi vậy tiểu thuyết thời kì này mang hơi thở của những bản hùng ca hào sảng, tự tin, đầy khí thế. Điều này cũng dễ hiểu khi văn chương được coi là vũ khí đắc lực để tiêu diệt kẻ thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Vả chăng cái xôn xao, náo nức hào hùng đó cũng là là tâm lí chung của cả cộng đồng "những buổi vui sao cả nước lên đường" (Chính Hữu). Sau 1975, khi văn chương đã trút bỏ vai trò chính trị, trở lại với bản chất nghệ thuật đích thực của mình và nhà văn có đủ độ lùi thời gian cần thiết để nghiền ngẫm lại hiện thực thì hứng thú viết về chiến tranh có sự vận động, biến đổi. Trước đây, chúng ta nói nhiều đến chiến thắng, niềm vui, thì bây giờ, trong các trang viết sau ngày giải phóng, những mất mát đau thương vốn dĩ rất thường tình của chiến tranh được nhà văn phản ánh sống động, chân thực với đầy đủ vẻ gai góc của nó. Sự vận động của cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau 1975 đã đem lại cho tiểu thuyết nói riêng và văn học thời kì này nói chung một diện mạo mới. Khảo sát tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, người viết luận văn nhận thấy phần lớn các sáng tác có sự gặp gỡ chung là hứng thú viết về nỗi buồn, về sự mất mát, éo le. Chiến tranh không còn được nhìn bằng cái nhìn ngợi ca lãng mạn mà thay vào đó, những góc khuất đen tối, đau thương của hiện thực bắt đầu được bày lên trang viết của các cây bút sau 1975. Tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh sau 1975 đã đứng trước nhu cầu đổi mới tư duy tiểu thuyết. Điều này chứng tỏ sự nghiêm khắc trong sáng tạo và tâm huyết với thể loại của các tiểu thuyết gia đương đại. Trên phương diện đề tài, tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực hàng ngày, cái đời thường của đời sống cá nhân. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Các đề tài truyền thống hay hiện đại đều được đưa vào trường nhìn mới, hướng tới những gấp khúc trong đường đời và thân phận con người, thấm đẫm cảm hứng nhân văn. Nhìn từ góc độ thể loại, trong những năm đổi mới, tiểu thuyết đã có những tìm tòi, cách tân thể hiện nhiều phương diện, trong đó có nghệ thuật trần thuật. Trong rất nhiều tác phẩm thì Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Thời xa vắng của Lê Lựu có thể coi là những tác phẩm tiêu biểu. 2. Lịch sử vấn đề Văn học thời hậu chiến, đặc biệt là văn học viết về chiến tranh mang một hơi thở mới vừa lạ lẫm nhưng cũng rất đỗi quen thuộc. Quen bởi đó là những đứa con tinh thần của những con người đi ra từ chiến trường, bởi đó là chiến tranh, cái đã chi phối văn học suốt mấy chục năm trời. Còn lạ bởi vì, dù viết về chiến tranh nhưng văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng được nhìn nhận ở một khía cạnh hoàn toàn mới và cái khía cạnh mới ấy lại được biểu hiện ở những phương diện cũng mới. Chiến tranh được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh, đặc biệt là mặt trái của chiến tranh bên cạnh việc miêu tả và thể hiện tới số phận con người. Có lẽ vì những lẽ đó mà tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 nói riêng, tiểu thuyết của nhiều bài báo, công trình khoa học. Từ sau năm 1975, với những thay đổi trong tư duy văn học và việc tiếp nhận nhiều lý thuyết nghiên cứu hiện đại, tình hình nghiên cứu văn xuôi đã có nhiều thành tựu quan trọng. Trong số những thành tựu ấy phải kể đến những công trình tập thể và những sách chuyên luận như: Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn chủ biên, 2006, Nxb GD, Hà Nội); 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám do Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du và Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức (1996), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX của Viện Văn học (2002), Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Phan Cự Đệ chủ biên, 2005)..v.v. đã có những đánh giá tổng kết về bức tranh chung của Văn học Việt Nam sau 1975. Công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX – những vấn đề lịch sử và lý luận (2005) của các nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học như Phan Cự Đệ, Mã Giang Lân, Trần Đình Sử .v.v. đã tổng kết Văn học Việt Nam thế kỉ XX dưới ánh sáng của loại hình học, thi pháp học và văn học so sánh. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về văn học nói chung phải kể đến những công trình, các sách chuyên khảo, chuyên luận viết về tiểu thuyết Việt Nam nói riêng như: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của tác giả Phan Cự Đệ là công trình dày dặn chuyên biệt về vấn đề lý luận tiểu thuyết. Với công trình này, người viết đã có một sự tổng quát toàn diện về quá trình hình thành, phát triển của Văn học Việt Nam hiện đại trên cơ sở các khuynh hướng tiểu thuyết, vấn đề điển hình hóa, vấn đề thể loại, lao động của người cầm bút trong tiểu thuyết. Trên tinh thần thay đổi cách tư duy và phương pháp tiếp cận thể loại, Đổi mới tư duy tiểu thuyết (2002) gồm nhiều bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình đã đánh giá thực trạng, sự cấp thiết cần đổi mới của tiểu thuyết. Ngoài ra phải kể đến những công trình Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật người lính trong tiểu thuyết hậu chiến là họ không xuất hiện trong những sự kiện đạn bm ác liệt mà chủ yếu trong trạng thái suy tư, chiêm nghiệm, “sống với thời gian hai chiều”. Người lính trong tiểu thuyết hậu chiến vừa là con người của thời hiện tại, của cuộc sống thường ngày vừa là con người của quá khứ trong nhu cầu nhận thức lại quá khứ ấy. Và thường là thế này: họ cô đơn, lạc lõng trong cuộc sống hiện tại, còn quá khứ tuy đã thành ký ức nhưng luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi, đeo đẳng suốt cuộc đời họ. Hệ quả của nhận thức mới về lịch sử, về hiện thực và con người đã khiến tiểu thuyết hậu chiến dần hướng vào việc khám phá người lính dưới góc độ cá nhân, đời tư. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người đã trở thành hạt nhân của những thành tựu mà tiểu thuyết hậu chiến đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại về đề tài chiến tranh. Khi được hiện lên với tất cả những tính chất đa diện của con người đời thường, hình tượng người lính chân thực, gần gũi và ám ảnh hơn trong dáng của những nhân vật bi kịch. Tiểu thuyết hậu chiến đã tập trung chú ý đến khía cạnh này của người lính, đặc biệt là bi kịch tinh thần - bi kịch nhận thức của họ trước những phức tạp của cuộc sống mới. Với tiểu thuyết hậu chiến, lần đầu tiên trong văn học chiến tranh, người lính đã được nhìn nhận như một “cá thể người” chứ không phải là hình ảnh biểu trưng cho tập thể, cho cộng đồng: Giang Minh Sài đau khổ, cả đời hối hận vì luôn phải sống theo sự sắp đặt của người khác, phải sống là một người khác chứ không phải là chính con người mình (Thời xa vắng), Hai Hùng cảm giác mình “bị bắn ra khỏi lề đường” (Ăn mày dĩ vãng), Kiên “bị mắc kẹt lại trên cõi đời này”, cô độc và hoàn toàn rơi vào trạng thái bấn loạn, rối bời, triền miên trong mộng mị, vô thức (Nỗi buồn chiến tranh), v..v. Sài, Hai Hùng, Kiên… và nhiều người lính khác nữa trong tiểu thuyết hậu chiến không có được cảm giác hạnh phúc của ngày trở về sau chiến tranh mà luôn sống trong những ám ảnh khôn nguôi. Thay đổi cảm hứng nghệ thuật, chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời tư thế sự, tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 mang một diện mạo mới trong cách thể hiện nội dung mới, đặc biệt là phương diện trần thuật, từ ngôn ngữ, giọng điệu đến điểm nhìn, nhân vật trần thuật rồi cả cốt truyện, kết cấu… Trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện được kể như thế nào bao giờ cũng quan trọng hơn là ai mới thật sự là người viết nên truyện kể ấy. Điểm nhìn trở thành cơ sở để phân biệt người kể chuyện và tác giả. Người kể chuyện có thể mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm của truyện kể và không có vai trò đáng kể trong việc tổ chức truyện. Điểm nhìn và người kể chuyện trở thành hai phương diện không thể tách rời. Truyện bao giờ cũng được kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người kể chuyện nào đó. Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [63]. 1.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 1.1.1. Khái lược về người kể chuyện Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật (Narrate) là phương diện cơ bản của cách tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả…. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: