Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Phần I: Mở đầu
Chủ nghĩa tư bản, với tư cách là một cách sản xuất xã hội, từ khi ra đời đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Giai đoạn phát triển của nó từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay diễn ra hết sức phức tạp, với nhiều biểu hiện mới, mà nổi bật nhất là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự thay đổi to lớn về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trong mấy thập kỉ lại đây, cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, nền kinh tế của các nước TBCN tăng trưởng nhanh, tương đối ổn định, cơ cấu ngành thay đổi, nâng cấp lên trình độ mới, phân công lao động phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, điều kiện lao động được cải thiện…
Chủ nghĩa tư bản ngày nay là giai đoạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền nằm trong cách sản xuất tư bản chủ nghĩa được phân tích kể từ sau chiến tranh thế giới thư hai đến nay, chủ yếu từ những năm cuối của thế kỉ XX.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay là một phạm trù rất rộng lớn, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản chúng ta sẽ hiểu được một cách sâu sắc tình hình kinh tế chính trị, xã hội của những cường quốc trên thế giới cũng như những bất cập và hạn chế của nó.
TRong mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh ,kế hoạch của nhà nuớc và một hệ thống bao cấp từ sán xuất đến tiêu dùng .Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh đuợc sự phân cực của xã hội ,nhưng lại bộc lộ nhiều nhuợc điểm cơ bản.Chẳng những các quy luật kinh tế khách quan bị coi thuờng ,mà tính tự chủ năng động sáng tạo của nguời lao động cũng không đuợc phát huy một cách đầy đủ .Sự nghiệp đổi mới đuợc tiến hành hơn muời năm qua ở nuớc ta gắn liền với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị truờng;nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị truờng định huớng xã hội chủ nghĩa
Trong thời đại ngày nay ,việc nâng cao vai trò quản lí kinh tế của nhà nuớc là xu huớng khách quan đối với tất cả các nuớc không phân biệt chế độ chính trị .Ngày nay ,không có một nhà nuớc nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền kinh tế thị truờng nào thuần tuý mà ở nhữnh mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của nhà nuớc .Ngày nay nhà nuớc cũng không còn quan niện giản đơn là nguời giữ trật tự , làm trọng tài mà nhà nuớc nằm trong cơ cấu ,điều tiết từ bên trong ,điều đó đuợc thể hiện trên các mặt hoạch định chiến luợc phát triển kinh tế - xã hội các chương trình kế hoạch, các chính sách và công cụ quản lý kinh tế.
Phần II: Nội dung
I.Tính tất yếu khách quan vai trò can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế.
1.Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước
a.Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB
* Các học thuyết của chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) là một học thuyết kinh tế lần đầu tiên nghiên cứu về mặt lý luận của cách sản xuất TBCN, không những thế nó còn là một đường lối kinh tế của chủ nghĩa tư sản trong thời kỳ tích luỹ ban đầu. Tư tưởng xuất phát của CNTT cho rằng tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài sản thật của mỗi quốc gia. Do đó mục đích chủ yếu trong các chính sách kinh tế của mỗi nước là phải tăng được khối lượng tiền tệ của quốc gia. Nó đã biết lợi dụng Nhà nước để làm giàu, thông qua các chính sách kinh tế, các luật về kinh tế để làm tăng lượng tiền trong nước. Trong giai đoạn đầu ( TK 15-16), thì tư tưởng chủ yếu là “bảng cân đối tiền tệ”. Họ dùng các chính sách ngăn chặn không cho tiền ra khỏi quốc gia, bắt các thương nhân nước ngoài mua hết số tiền mà họ đã bán hàng, Nhà nước ban hành những luật lệ, chính sách cấm xuất tiền. Còn ở giai đoạn sau (TK 17) thì tư tưởng chủ yếu là “bảng cân đối thương mại”. Họ mong bán hàng ra với số tiền nhiều hơn số tiền mua hàng, để thực hiện chính sách này, Nhà nước đã đặt ra hàng loạt các chính sách ngoại thương nhằm đạt mục đích đó.
Như vậy, đặc điểm lý luận của CNTT là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế. Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của Nhà nước, dựa vào Nhà nước vì họ cho rằng chỉ có dựa vào Nhà nước mới có thể phát triển được kinh tế.
*Trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Trong trường phái này, điển hình là lý luận của Adam Smith, ông cho rằng hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật khách quan chi phối. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay vô hình. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế. Vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện khi những nhiệm vụ kinh tế vượt quá sức của các doanh nghiệp.
b. Trong giai đoạn CNTB hiện đại
*Học thuyết của J.M.KEYNES
Vào những năm 30 của thế kỷ 20, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng. Các học thuyết kinh tế ở các giai đoạn trước không đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, thay vào đó là lý thuyết về “Bàn tay hữu hình” của KEYNES. Theo ông, để bảo đảm cho sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà cần có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng cường có hiệu quả, kích thích tiêu dùng và sản xuất, kích thích đầu tư cơ bản để đảm bảo việc làm và tăng thu nhập. Vì vậy ông đề nghị Nhà nước phải có các chính sách như : duy trì cầu đầu tư, đưa tiền tệ vào lưu thông, in thêm tiền giấy, coi trọng hệ thống thuế khoá và công trái Nhà nước.
Như vậy, ta thấy rằng ông đánh giá rất cao vai trò kinh tế của Nhà nước và các chính sách kinh tế của Nhà nước tới nền kinh tế của một quốc gia.
*Chủ nghĩa tự do mới.
Chủ nghĩa tự do mới là lý thuyết tư sản coi nền kinh tế TBCN là hệ thống tự động do quy luật kinh tế khách quan tự điều tiết. Nó áp dụng và kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của trường phái KEYNES và chủ nghĩa tự do cũ để điều tiết hình thái kinh tế TBCN. Tư tưởng của họ là tự do kinh doanh, vai trò của Nhà nước chỉ ở mức độ nhất định.
*Trường phái chính hiện đại.
Những bàn tay vô hình đôi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm. Nó chính là những khuyết tật trong nền kinh tế. Những khuyết tật này có thể do tác động bên ngoài gây nên. Để đối phó với những khuyết tật, các nhà kinh tế hiện đại phối hợp giữa bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình của thuế khoá, chi tiêu và luật lệ của chính phủ. Theo quan điểm của trường phái chính hiện đại thì chính phủ trong nền kinh tế thị trường có 4 chức năng sau :
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật bao gồm các nguyên tắc quy định về hoạt động kinh doanh, luật pháp về kinh tế.
- Chính phủ sữa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả.
- Đảm bảo sự công bằng cho xã hội.
- ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại vai trò của Nhà nước và các chính sách kinh tế của Nhà nước là rất quan trọng, với tác động của nó có thể làm cho nền kinh tế thị trường phát triển một cách hoàn chỉnh hơn, hạn chế và sửa chữa những khuyết tật của thị trường.
c.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước.
Theo Mac-Lênin, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có một loạt những khuyết tật. Vì vậy, ở tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của Nhà nước để đảm bảo nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan kết hợp với các chính sách kinh tế thích hợp. Bảo đảm thị trường thống nhất, mở rộng các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, ổn định và cân bằng. Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội.
2.Sự hình thành, phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
a.Mô hình kinh tế chỉ huy.
Đặc trưng của nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế bị hiện vật hoá, tư duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp, hệ thống quản lý quan liêu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Kinh tế chỉ huy tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh nhưng khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật : nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất – kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế.
b.Mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Mô hình kinh tế chỉ huy đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước, đi ngược lại với các quy luật kinh tế khách quan. Vì vậy tất yếu, mô hình kinh tế mới xuất hiện với nhiều ưu điểm đó là mô hình kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Mô hình này có những đặc trưng cơ bản như : Phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu… đó là cơ chế hỗn hợp “có sự điều tiết vĩ mô” để khắc phục những khuyết tật của nó. Mô hình này ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, xã hội, môi trường nên nó đòi hỏi có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để đảm bảo sự ổn định công bằng và hiệu quả. Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường.
II. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1. Đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường
Chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là yêu cầu khách quan nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quá trình chuyển đỏi nền kinh tế nước ta sang nền kinhtế thị trườngtất yếu phải đòi hỏi nghiên cứu những đặc trưng của mô hình kinh tế hướng tới. Nếu tính đến những đặc trưng chung nhất, vốn có của nền kinh tế, có những đặc điểm mang tính phổ biến sau:
-Một là: Tính tự chủ của cấc chủ thể kinh tế rất cao.
Các chủ thể tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối cới kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá, đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường.
-Hai là: Hàng hoá đa dạng phong phú.
Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn ngươi bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặ trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những loại hàng hoá trên thị trường , một mặt phản ánh trình độ của năng suất lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường.
-Ba là: Tự do hoá giá cả.
Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá thị trường, và chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranhvà quan hệ cung cầu hành hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. TRong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí là phần dưới của giá cả còn doanh lới càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được giữu lợi ích của người mua lẫn lợi ích của người bán. Cuộc giằng co sẽ nghiêng về người bán, nếu như cung ít hơn cầu và ngược lại.
-Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường.
Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất kinh doanh phảiđua nhau cải tiến kĩ thuật, áp dụnh kĩ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao độnh cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận iêu ngạch.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia vào trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường (người bán với người bán, người mua với người mua). Hinh thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của canh tranh chính là lợi nhuận.
-Năm là:Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
Nó rất đa dạng , phức tạp và được diều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật Nhà nước.
2.Định hướng XHCN
a .Mục đích
KTTT ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư. Xã hội không có chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm lo, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn dân". Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Mục tiêu của chiến lược phát triển KTTT định hướng XHCN được xác định: Tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích luỹ và đầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao... để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng cùng kiệt và kém phát triển.
b. Về sở hữu
KTTT ở các nước trên thế giớivề thức chất là mô hình đa sở hữuvà nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sở hữu tư nhân. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sự trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ trên nguyên tắc bình đẳng các bên đều có lợi. Sự trao đổi đảm bảo nguyên tắc trên chỉ xẩy rakhi mọi chủ thể tham gia thị trường ý thức rõ ràng về nguyên tắccủa sở hữu của vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ trao đổi. Nếu không sự trao đổi sẽ bị lạm dụngvà trở thành đối tượng của sự tham ô hay cướp đạt của cải của người khác, chủ thể khác.
Nền KTTT định hướng XHCN cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữu đa dạng như: sở hữu nhà nước và toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu và tư nhân hỗn hợp, song nhấn mạnh đến vai trò nền tảng của sở hữu Nhà nướcvà sở hữu tập thể. Nhà nước thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở hữu toàn dân, nhà nước, mà cả sở hữu tư nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản hợp pháp khác.Sở hữu tư nhân cũng như sự tồn tại của kinh tế tư nhân không bị giới hạn về mức độ, phạm vi hay quy mô (trừ lĩnh vực pháp luật cấm). Sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác tự nguyện được khuyến khích và hỗ trợ
c. Cơ chế quản lý
2.Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền vững.
Tăng trưởng kinh tế và việc tăng GDP bình quân theo đầu người. Hiện nay ở nước ta GDP còn thấp khoảng 230 USD một người, là một trong những nước cùng kiệt nhất trên thế giớivì vậy vấn đề đặt ra là nhà nước chúng ta cần có chiến lược năng động, sáng tạo để cùng nhân dân phấn đấu đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước cùng kiệt trên thế giới, muốn vậy nhà nước chúng ta phải
- Có những phương pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư rrong và ngoài nước bằng cách:
+ Đảm bảo lãi suất tiền gửi phải cao hơn tỷ lệ lạm phát
+ Phát hành công trái để huy động vốn
+ Phát triển công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
+ Tạo môi trường đầu tư thuận lợi
+ Tăng cườngcác biện pháp vĩ mô dể kiềm chế lạm phát đảm bảo được thu hút tiền gửi tiết kiệm dài hạn, trung hạn.
+ Kết hợp chặt chẽ các hình thức đầu tư
+ Đối với đầu tư FDI cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và cải tiến quản lý
+ Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nhằm tăng sức hấp dẫn và tạo môi trường đầu tư thuận lợi.
- Ngoài ra nhà nước ta phải có chiến lược phát triển khoa học công nghệ và cần quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và dân số.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và vấn đề môi trường.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và phân phối thu nhập.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và thị trường.
3.Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước tránh hai khuynh hướng.
Quan niệm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước một cách may móc, duy trì,phát triển một cách tràn lan, không tính đến hiệu quả.
Coi hình thức sở hữu là nhân tố chủ yếu, cho kinh tế tư nhân có hiệu quả nên cần tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước.
4.Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.
Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các hoạt đông trong sản xuất kinh doanh theo một xu hướng nhất định và đảm bảo công bằng, đưa lại lợi ích cao nhất vì vậy nên nó rất quan trọng.
Đối với nước ta hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiên còn có nhiều sai sót cần sửa đổi và bổ xung mà chủ yếu là ở các lĩnh vực.
Trong việc sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán công ty tài chinh, chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính công khai bắt buộc.
Bổ sung điều chỉnh bộ luật thức tránh chồng chéo phân tán theo hướng mở rộng.
Khuyến khích đầu tư trong nước, sửa đổi, bổ sung luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính nhà nước, các hiệp định đa phương và song phương.
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lý kinh tế bằng pháp luật.
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt.
5.Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế.
Hệ thống hành chính nước ta đang gặp nhiều khó khăn, vì vậy nên nó tác đông rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế, vì vây chúng ta cần cải cách hành chính trên các mặt:
- Thể chế hành chính.
- Tổ chức bộ máy.
- Xây dựng đội ngũ công chức hành chính.
- Cải cách thủ tục hành chính.
Mỗi một biện pháp đều có tính ưu việt của nó song cũng có nhiều nhược điểm, vì vậychúng ta cần kết hợp để bổ xung cho nhau, trong đó biện pháp kinh tế phải được coi trọng đặc biệt. Con người là mối tổng hoà của các quan hệ xã hội, hoạt động và nhiều động cơ, nên việc quản lý phải dùng tổng hợp các biện pháp nhờ vậy nhà nước ta mới quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường đạt được mục tiêu của mình.
Phần III: Kết luận
Từ những vấn đề nêu trên ta có thể khẳng định: Việc sử dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác Lênin vào sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Cơ sở pháp lý là một chân lý đã được minh chứng trong suốt quá trình phát triển của xã hội. Bên cạnh đó khi áp dụng vào Việt Nam lại được nhà lãnh đạo nước ta xem xét, đánh giá toàn diện khách quan. Đặt vào điều kiện của hoàn cảnh cụ thể của đất nước từ đó có chính sách đổi mới và phát triển phù hợp. Từ khi đổi mới, nền kinh tế thị trường đã phát huy tác dụng rất tích cực. Hơn mười năm qua lĩnh vực kinh tế của nước ta đã đạt được những thành quả và thành tựu to lớn, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định và vững bước đi lên. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên trong lòng bản chất của nền kinh tế thị trường nó luôn chứa đựng những khuyết tật và những khuyết tật đó biểu hiện trong nền kinh tế của Việt Nam. Nhưng các chính sách của Đảng và Nhà nước luôn được đề ra để khắc phục những khuyết tật, hạn chế một cách tốt nhất. Đồng thời, phương pháp tiếp tục đổi mới và phát triển cũng luôn được đặt ra tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định nền kinh tế của đất nước trong tương lai.
Tất cả các vấn đề diễn ra xung quanh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam một lần nữa đã chứng minh cho sự đúng đắn và sáng suốt trong phương hướng chỉ đạo của Đảng.
Tài liệu tham khảo
1. C.Mác và Ph.ăng - ghen toàn tập
Nxb chính trị quốc gia sự thật. Hà nội 1994
2. Văn kiện đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ V, VI, VII và các nghị quyết Trung ương có liên quan.
3. Văn kiện đại hội đại biểu giữa nhiệm kì khoá VII.
4. Một số vấn đề chủ nghĩa Mác Lênin trong thời đại ngày nay.
Nxb chính trị quốc gia Hà nội 1996.
5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền KTQD.
Nxb chính trị quốc gia thành phố Hà nội.
6. Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập I, II, III
Nxb chính trị quốc gia Hà nội 1995.
7. Giáo trình KTCT Mác - Lênin, tập I, II.
Nxb giáo dục Hà nội 1998.
8. Học thuyết Mác - Lênin và thời đại
Nxb sự thật 1991
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Phần I: Mở đầu
Chủ nghĩa tư bản, với tư cách là một cách sản xuất xã hội, từ khi ra đời đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Giai đoạn phát triển của nó từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay diễn ra hết sức phức tạp, với nhiều biểu hiện mới, mà nổi bật nhất là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự thay đổi to lớn về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trong mấy thập kỉ lại đây, cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, nền kinh tế của các nước TBCN tăng trưởng nhanh, tương đối ổn định, cơ cấu ngành thay đổi, nâng cấp lên trình độ mới, phân công lao động phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, điều kiện lao động được cải thiện…
Chủ nghĩa tư bản ngày nay là giai đoạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền nằm trong cách sản xuất tư bản chủ nghĩa được phân tích kể từ sau chiến tranh thế giới thư hai đến nay, chủ yếu từ những năm cuối của thế kỉ XX.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay là một phạm trù rất rộng lớn, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản chúng ta sẽ hiểu được một cách sâu sắc tình hình kinh tế chính trị, xã hội của những cường quốc trên thế giới cũng như những bất cập và hạn chế của nó.
TRong mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh ,kế hoạch của nhà nuớc và một hệ thống bao cấp từ sán xuất đến tiêu dùng .Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh đuợc sự phân cực của xã hội ,nhưng lại bộc lộ nhiều nhuợc điểm cơ bản.Chẳng những các quy luật kinh tế khách quan bị coi thuờng ,mà tính tự chủ năng động sáng tạo của nguời lao động cũng không đuợc phát huy một cách đầy đủ .Sự nghiệp đổi mới đuợc tiến hành hơn muời năm qua ở nuớc ta gắn liền với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị truờng;nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị truờng định huớng xã hội chủ nghĩa
Trong thời đại ngày nay ,việc nâng cao vai trò quản lí kinh tế của nhà nuớc là xu huớng khách quan đối với tất cả các nuớc không phân biệt chế độ chính trị .Ngày nay ,không có một nhà nuớc nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền kinh tế thị truờng nào thuần tuý mà ở nhữnh mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của nhà nuớc .Ngày nay nhà nuớc cũng không còn quan niện giản đơn là nguời giữ trật tự , làm trọng tài mà nhà nuớc nằm trong cơ cấu ,điều tiết từ bên trong ,điều đó đuợc thể hiện trên các mặt hoạch định chiến luợc phát triển kinh tế - xã hội các chương trình kế hoạch, các chính sách và công cụ quản lý kinh tế.
Phần II: Nội dung
I.Tính tất yếu khách quan vai trò can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế.
1.Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước
a.Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB
* Các học thuyết của chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) là một học thuyết kinh tế lần đầu tiên nghiên cứu về mặt lý luận của cách sản xuất TBCN, không những thế nó còn là một đường lối kinh tế của chủ nghĩa tư sản trong thời kỳ tích luỹ ban đầu. Tư tưởng xuất phát của CNTT cho rằng tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài sản thật của mỗi quốc gia. Do đó mục đích chủ yếu trong các chính sách kinh tế của mỗi nước là phải tăng được khối lượng tiền tệ của quốc gia. Nó đã biết lợi dụng Nhà nước để làm giàu, thông qua các chính sách kinh tế, các luật về kinh tế để làm tăng lượng tiền trong nước. Trong giai đoạn đầu ( TK 15-16), thì tư tưởng chủ yếu là “bảng cân đối tiền tệ”. Họ dùng các chính sách ngăn chặn không cho tiền ra khỏi quốc gia, bắt các thương nhân nước ngoài mua hết số tiền mà họ đã bán hàng, Nhà nước ban hành những luật lệ, chính sách cấm xuất tiền. Còn ở giai đoạn sau (TK 17) thì tư tưởng chủ yếu là “bảng cân đối thương mại”. Họ mong bán hàng ra với số tiền nhiều hơn số tiền mua hàng, để thực hiện chính sách này, Nhà nước đã đặt ra hàng loạt các chính sách ngoại thương nhằm đạt mục đích đó.
Như vậy, đặc điểm lý luận của CNTT là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế. Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của Nhà nước, dựa vào Nhà nước vì họ cho rằng chỉ có dựa vào Nhà nước mới có thể phát triển được kinh tế.
*Trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Trong trường phái này, điển hình là lý luận của Adam Smith, ông cho rằng hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật khách quan chi phối. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay vô hình. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế. Vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện khi những nhiệm vụ kinh tế vượt quá sức của các doanh nghiệp.
b. Trong giai đoạn CNTB hiện đại
*Học thuyết của J.M.KEYNES
Vào những năm 30 của thế kỷ 20, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng. Các học thuyết kinh tế ở các giai đoạn trước không đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, thay vào đó là lý thuyết về “Bàn tay hữu hình” của KEYNES. Theo ông, để bảo đảm cho sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà cần có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng cường có hiệu quả, kích thích tiêu dùng và sản xuất, kích thích đầu tư cơ bản để đảm bảo việc làm và tăng thu nhập. Vì vậy ông đề nghị Nhà nước phải có các chính sách như : duy trì cầu đầu tư, đưa tiền tệ vào lưu thông, in thêm tiền giấy, coi trọng hệ thống thuế khoá và công trái Nhà nước.
Như vậy, ta thấy rằng ông đánh giá rất cao vai trò kinh tế của Nhà nước và các chính sách kinh tế của Nhà nước tới nền kinh tế của một quốc gia.
*Chủ nghĩa tự do mới.
Chủ nghĩa tự do mới là lý thuyết tư sản coi nền kinh tế TBCN là hệ thống tự động do quy luật kinh tế khách quan tự điều tiết. Nó áp dụng và kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của trường phái KEYNES và chủ nghĩa tự do cũ để điều tiết hình thái kinh tế TBCN. Tư tưởng của họ là tự do kinh doanh, vai trò của Nhà nước chỉ ở mức độ nhất định.
*Trường phái chính hiện đại.
Những bàn tay vô hình đôi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm. Nó chính là những khuyết tật trong nền kinh tế. Những khuyết tật này có thể do tác động bên ngoài gây nên. Để đối phó với những khuyết tật, các nhà kinh tế hiện đại phối hợp giữa bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình của thuế khoá, chi tiêu và luật lệ của chính phủ. Theo quan điểm của trường phái chính hiện đại thì chính phủ trong nền kinh tế thị trường có 4 chức năng sau :
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật bao gồm các nguyên tắc quy định về hoạt động kinh doanh, luật pháp về kinh tế.
- Chính phủ sữa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả.
- Đảm bảo sự công bằng cho xã hội.
- ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại vai trò của Nhà nước và các chính sách kinh tế của Nhà nước là rất quan trọng, với tác động của nó có thể làm cho nền kinh tế thị trường phát triển một cách hoàn chỉnh hơn, hạn chế và sửa chữa những khuyết tật của thị trường.
c.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước.
Theo Mac-Lênin, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có một loạt những khuyết tật. Vì vậy, ở tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của Nhà nước để đảm bảo nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan kết hợp với các chính sách kinh tế thích hợp. Bảo đảm thị trường thống nhất, mở rộng các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, ổn định và cân bằng. Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội.
2.Sự hình thành, phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
a.Mô hình kinh tế chỉ huy.
Đặc trưng của nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế bị hiện vật hoá, tư duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp, hệ thống quản lý quan liêu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Kinh tế chỉ huy tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh nhưng khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật : nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất – kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế.
b.Mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Mô hình kinh tế chỉ huy đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước, đi ngược lại với các quy luật kinh tế khách quan. Vì vậy tất yếu, mô hình kinh tế mới xuất hiện với nhiều ưu điểm đó là mô hình kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Mô hình này có những đặc trưng cơ bản như : Phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu… đó là cơ chế hỗn hợp “có sự điều tiết vĩ mô” để khắc phục những khuyết tật của nó. Mô hình này ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, xã hội, môi trường nên nó đòi hỏi có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để đảm bảo sự ổn định công bằng và hiệu quả. Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường.
II. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1. Đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường
Chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là yêu cầu khách quan nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quá trình chuyển đỏi nền kinh tế nước ta sang nền kinhtế thị trườngtất yếu phải đòi hỏi nghiên cứu những đặc trưng của mô hình kinh tế hướng tới. Nếu tính đến những đặc trưng chung nhất, vốn có của nền kinh tế, có những đặc điểm mang tính phổ biến sau:
-Một là: Tính tự chủ của cấc chủ thể kinh tế rất cao.
Các chủ thể tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối cới kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá, đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường.
-Hai là: Hàng hoá đa dạng phong phú.
Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn ngươi bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặ trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những loại hàng hoá trên thị trường , một mặt phản ánh trình độ của năng suất lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường.
-Ba là: Tự do hoá giá cả.
Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá thị trường, và chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranhvà quan hệ cung cầu hành hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. TRong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí là phần dưới của giá cả còn doanh lới càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được giữu lợi ích của người mua lẫn lợi ích của người bán. Cuộc giằng co sẽ nghiêng về người bán, nếu như cung ít hơn cầu và ngược lại.
-Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường.
Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất kinh doanh phảiđua nhau cải tiến kĩ thuật, áp dụnh kĩ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao độnh cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận iêu ngạch.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia vào trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường (người bán với người bán, người mua với người mua). Hinh thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của canh tranh chính là lợi nhuận.
-Năm là:Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
Nó rất đa dạng , phức tạp và được diều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật Nhà nước.
2.Định hướng XHCN
a .Mục đích
KTTT ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư. Xã hội không có chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm lo, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn dân". Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Mục tiêu của chiến lược phát triển KTTT định hướng XHCN được xác định: Tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích luỹ và đầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao... để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng cùng kiệt và kém phát triển.
b. Về sở hữu
KTTT ở các nước trên thế giớivề thức chất là mô hình đa sở hữuvà nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sở hữu tư nhân. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sự trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ trên nguyên tắc bình đẳng các bên đều có lợi. Sự trao đổi đảm bảo nguyên tắc trên chỉ xẩy rakhi mọi chủ thể tham gia thị trường ý thức rõ ràng về nguyên tắccủa sở hữu của vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ trao đổi. Nếu không sự trao đổi sẽ bị lạm dụngvà trở thành đối tượng của sự tham ô hay cướp đạt của cải của người khác, chủ thể khác.
Nền KTTT định hướng XHCN cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữu đa dạng như: sở hữu nhà nước và toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu và tư nhân hỗn hợp, song nhấn mạnh đến vai trò nền tảng của sở hữu Nhà nướcvà sở hữu tập thể. Nhà nước thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở hữu toàn dân, nhà nước, mà cả sở hữu tư nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản hợp pháp khác.Sở hữu tư nhân cũng như sự tồn tại của kinh tế tư nhân không bị giới hạn về mức độ, phạm vi hay quy mô (trừ lĩnh vực pháp luật cấm). Sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác tự nguyện được khuyến khích và hỗ trợ
c. Cơ chế quản lý
2.Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền vững.
Tăng trưởng kinh tế và việc tăng GDP bình quân theo đầu người. Hiện nay ở nước ta GDP còn thấp khoảng 230 USD một người, là một trong những nước cùng kiệt nhất trên thế giớivì vậy vấn đề đặt ra là nhà nước chúng ta cần có chiến lược năng động, sáng tạo để cùng nhân dân phấn đấu đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước cùng kiệt trên thế giới, muốn vậy nhà nước chúng ta phải
- Có những phương pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư rrong và ngoài nước bằng cách:
+ Đảm bảo lãi suất tiền gửi phải cao hơn tỷ lệ lạm phát
+ Phát hành công trái để huy động vốn
+ Phát triển công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
+ Tạo môi trường đầu tư thuận lợi
+ Tăng cườngcác biện pháp vĩ mô dể kiềm chế lạm phát đảm bảo được thu hút tiền gửi tiết kiệm dài hạn, trung hạn.
+ Kết hợp chặt chẽ các hình thức đầu tư
+ Đối với đầu tư FDI cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và cải tiến quản lý
+ Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nhằm tăng sức hấp dẫn và tạo môi trường đầu tư thuận lợi.
- Ngoài ra nhà nước ta phải có chiến lược phát triển khoa học công nghệ và cần quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và dân số.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và vấn đề môi trường.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và phân phối thu nhập.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và thị trường.
3.Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước tránh hai khuynh hướng.
Quan niệm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước một cách may móc, duy trì,phát triển một cách tràn lan, không tính đến hiệu quả.
Coi hình thức sở hữu là nhân tố chủ yếu, cho kinh tế tư nhân có hiệu quả nên cần tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước.
4.Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.
Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các hoạt đông trong sản xuất kinh doanh theo một xu hướng nhất định và đảm bảo công bằng, đưa lại lợi ích cao nhất vì vậy nên nó rất quan trọng.
Đối với nước ta hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiên còn có nhiều sai sót cần sửa đổi và bổ xung mà chủ yếu là ở các lĩnh vực.
Trong việc sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán công ty tài chinh, chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính công khai bắt buộc.
Bổ sung điều chỉnh bộ luật thức tránh chồng chéo phân tán theo hướng mở rộng.
Khuyến khích đầu tư trong nước, sửa đổi, bổ sung luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính nhà nước, các hiệp định đa phương và song phương.
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lý kinh tế bằng pháp luật.
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt.
5.Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế.
Hệ thống hành chính nước ta đang gặp nhiều khó khăn, vì vậy nên nó tác đông rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế, vì vây chúng ta cần cải cách hành chính trên các mặt:
- Thể chế hành chính.
- Tổ chức bộ máy.
- Xây dựng đội ngũ công chức hành chính.
- Cải cách thủ tục hành chính.
Mỗi một biện pháp đều có tính ưu việt của nó song cũng có nhiều nhược điểm, vì vậychúng ta cần kết hợp để bổ xung cho nhau, trong đó biện pháp kinh tế phải được coi trọng đặc biệt. Con người là mối tổng hoà của các quan hệ xã hội, hoạt động và nhiều động cơ, nên việc quản lý phải dùng tổng hợp các biện pháp nhờ vậy nhà nước ta mới quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường đạt được mục tiêu của mình.
Phần III: Kết luận
Từ những vấn đề nêu trên ta có thể khẳng định: Việc sử dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác Lênin vào sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Cơ sở pháp lý là một chân lý đã được minh chứng trong suốt quá trình phát triển của xã hội. Bên cạnh đó khi áp dụng vào Việt Nam lại được nhà lãnh đạo nước ta xem xét, đánh giá toàn diện khách quan. Đặt vào điều kiện của hoàn cảnh cụ thể của đất nước từ đó có chính sách đổi mới và phát triển phù hợp. Từ khi đổi mới, nền kinh tế thị trường đã phát huy tác dụng rất tích cực. Hơn mười năm qua lĩnh vực kinh tế của nước ta đã đạt được những thành quả và thành tựu to lớn, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định và vững bước đi lên. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên trong lòng bản chất của nền kinh tế thị trường nó luôn chứa đựng những khuyết tật và những khuyết tật đó biểu hiện trong nền kinh tế của Việt Nam. Nhưng các chính sách của Đảng và Nhà nước luôn được đề ra để khắc phục những khuyết tật, hạn chế một cách tốt nhất. Đồng thời, phương pháp tiếp tục đổi mới và phát triển cũng luôn được đặt ra tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định nền kinh tế của đất nước trong tương lai.
Tất cả các vấn đề diễn ra xung quanh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam một lần nữa đã chứng minh cho sự đúng đắn và sáng suốt trong phương hướng chỉ đạo của Đảng.
Tài liệu tham khảo
1. C.Mác và Ph.ăng - ghen toàn tập
Nxb chính trị quốc gia sự thật. Hà nội 1994
2. Văn kiện đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ V, VI, VII và các nghị quyết Trung ương có liên quan.
3. Văn kiện đại hội đại biểu giữa nhiệm kì khoá VII.
4. Một số vấn đề chủ nghĩa Mác Lênin trong thời đại ngày nay.
Nxb chính trị quốc gia Hà nội 1996.
5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền KTQD.
Nxb chính trị quốc gia thành phố Hà nội.
6. Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập I, II, III
Nxb chính trị quốc gia Hà nội 1995.
7. Giáo trình KTCT Mác - Lênin, tập I, II.
Nxb giáo dục Hà nội 1998.
8. Học thuyết Mác - Lênin và thời đại
Nxb sự thật 1991
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: