black_girl_red_girl_white_girl
New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại đã đặt ra
những yêu cầu cao về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Tổ chức UNESCO đã khẳng định: “Nền giáo dục hôm nay và tương lai phải dựa trên 04 trụ cột: Learning to know - học để biết; Learning to do - học để làm; Learning to be - học để khẳng định mình và Learning to live together - học để cùng chung sống”. Vì thế, làm thế nào để người học có hứng thú tập trung chú ý trong học tập, nắm được những tri thức khoa học cơ bản, đặc biệt, họ có khả năng tự học, tự nghiên cứu, có kỹ năng, kỹ xảo để đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của thực tế, ... là vấn đề luôn được coi trọng.
Sinh viên là đội ngũ trí thức tương lai của đất nước, sự phát triển của đất nước đòi hỏi phải có lực lượng lao động có trình độ khoa học, tay nghề cao,... Học tập ở đại học là một hoạt động tâm lý được tổ chức một cách độc đáo nhằm mục đích giúp sinh viên trở thành những chuyên gia phát triển toàn diện sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao. Do đó, hứng thú học tập giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của các quá trình học tập.
Hứng thú học tập chính là thái độ nhận thức đặc biệt của chủ thể đối với hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống của cá nhân. Nhờ hứng thú, sinh viên có thể giảm mệt mỏi, căng thẳng, tăng sự chú ý, thúc đẩy tính tích cực tìm tòi, sáng tạo trong quá trình học tập và dễ dàng thành công trong học tập.
Thực tế cho thấy, sinh viên năm thứ nhất, trong đó có sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến, phần lớn là học sinh đang thực hiện bước chuyển tiếp từ môi trường học tập ở phổ thông sang môi trường học tập ở bậc đại học với nhiều khác biệt về khối lượng, nội dung tri thức, phương pháp
2
giảng dạy, hình thức học tập,.... Học tập của sinh viên diễn ra trong trường đại học cũng khác với hoạt động đó ở học sinh phổ thông. Ở trường phổ thông, học sinh lĩnh hội những tri thức đã được biên soạn sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, còn ở đại học sinh viên phải tiếp thu những tri thức cơ bản, hệ thống và có tính khoa học cao của một khoa học nhất định. Việc chuyển từ học tập ở trường phổ thông sang trường đại học có những biến đổi mạnh mẽ, ảnh hưởng nhất định đến việc học tập, hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất.
Vì vậy, tìm hiểu hứng thú và tìm ra biện pháp nâng cao hứng thú trong học tập của sinh viên năm thứ nhất là việc làm cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của họ.
Thời gian qua, cũng đã có các công trình nghiên cứu về hứng thú học tập của học sinh, sinh viên với một môn học cụ thể nào đó và hứng thú học tập của sinh viên nói chung. Nhưng vấn đề hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất với những thay đổi về môi trường học tập mới vẫn chưa được quan tâm.
Xuất phát từ lí do trên, tui đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu hứng thú học tập và những yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp để nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên năm thứ nhất.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể nghiên cứu: sinh viên năm thứ nhất Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đối tượng nghiên cứu: hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất.
3
4. GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
- Hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất chưa cao.
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm
thứ nhất trường Đại học Văn Hiến, nhưng yếu tố cơ bản nhất làm cho hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất chưa cao là do ít hiểu biết về ngành nghề bản thân đang theo học.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: hoạt động học tập của sinh viên, hứng thú, hứng thú học tập, đặc điểm hứng thú học tập của sinh viên, biểu hiện của hứng thú học tập, các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất.
- Nghiên cứu thực trạng hứng thú học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến.
- Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên năm thứ nhất hứng thú với việc học tập.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu như sau:
- Chỉ nghiên cứu trên nhóm 315 sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Văn Hiến.
- Chỉ nghiên cứu hứng thú học tập ở các biểu hiện: nhận thức, thái độ
và hành vi đối với học tập; đồng thời nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến.
7. CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Cách tiếp cận
Đề tài tiến hành dựa trên cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo hướng tiếp cận sau:
- Hướng tiếp cận thực tiễn:
4
Hứng thú học tập của sinh viên phải được khảo sát thực trên một mẫu đủ độ khái quát. Hơn nữa, việc khảo sát này phải đảm bảo thu thập được những số liệu thực tiễn, chính xác.
- Hướng tiếp cận hoạt động:
Hứng thú học tập của nhóm sinh viên năm thứ nhất được khảo sát phải tìm hiểu qua hoạt động học tập của sinh viên. Bởi vì, hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất được hình thành thông qua hoạt động học tập.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu lý luận và kết quả nghiên cứu thực tiễn về hứng thú học tập của sinh viên.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Bảng hỏi được xây dựng dưới dạng phiếu thăm dò ý kiến.
- Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn cá nhân: chọn một số vấn đề nào đó nổi trội trong phần trả
lời để phỏng vấn sâu ở một số đối tượng.
- Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phần mềm SPSS 11.5 for
window để xử lý các số liệu thống kê. 8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài mô tả thực trạng hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến, chỉ ra các biểu hiện hứng thú học tập, các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng, đặc biệt yếu tố cơ bản nhất làm cho hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất chưa cao là do ít hiểu biết về ngành nghề đang học. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.1. Ở nước ngoài
Những công trình nghiên cứu về hứng thú ở trên thế giới xuất hiện tương đối sớm và ngày càng được phát triển.
Herbart (1776-1841) nhà tâm lý học nhà triết học, nhà giáo dục học, người Đức. Ông là người sáng lập ra trường phái giáo dục hiện đại ở Đức thế kỷ XIX. Ông đã đưa ra 4 mức độ của dạy học: tính sáng rõ, tính liên tưởng, tính hệ thống, tính phong phú, đặc biệt hứng thú là yếu tố quyết định kết quả học tập của người học.
Ovide Decroly (1871 – 1932) bác sĩ và nhà tâm lý người Bỉ khi nghiên cứu về khả năng tập đọc, tập làm tính của trẻ đã xây dựng học thuyết về những trung tâm hứng thú và về lao động tích cực.
John Dewey, (1859 – 1952) nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mỹ sáng lập lên trường thực nghiệm vào năm 1896, trong đó ưu tiên hứng thú của học sinh và nhu cầu của học sinh trong từng lứa tuổi. Ông cho rằng, hứng thú thực sự xuất hiện khi cái tui đồng nhất với một ý tưởng hay một vật thể đồng thời tìm thấy ở chúng phương tiện biểu lộ.
I.K. Strong đã nghiên cứu “Sự thay đổi hứng thú cùng với lứa tuổi”. Từ những năm 1931, ông đã đưa ra quan điểm và phương pháp nghiên cứu hứng thú bằng bảng câu hỏi.
Năm 1938, Ch.Buher trong công trình “Phát triển hứng thú ở trẻ em” đã tìm hiểu khái niệm hứng thú.
Đến năm 1946, E.Clapade với vấn đề “Tâm lý trẻ em và thực nghiệm sư phạm” đã đưa ra khái niệm hứng thú dựa trên bản chất sinh học. Trong
6
giáo dục chức năng, Clapade đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hứng thú trong hoạt động của con người và cho rằng quy luật của hứng thú là cái trục duy nhất mà tất cả hệ thống phải xoay quanh nó.
Từ những thập niên 40 của thế kỷ XX, A.F.Bêliep đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về “Tâm lý học hứng thú”. Các nhà tâm lý học như S.LRubinstein, G.Morodov... đã quan tâm nghiên cứu khái niệm hứng thú, con đường hình thành hứng thú, và cho rằng hứng thú là biểu hiện của ý chí, tình cảm.
Năm 1955, A.P.Ackhadop có công trình nghiên cứu về sự phụ thuộc của tri thức học viên với hứng thú học tập. Kết quả cho thấy tri thức của học viên có mối quan hệ khăng khít với hứng thú học tập. Trong đó sự hiểu biết nhất định về môn học được xem là một tiền đề cho sự hình thành hứng thú đối với môn học.
D.Super trong “Tâm lý học hứng thú”(1961) đã xây dựng phương pháp nghiên cứu về hứng thú trong cấu trúc nhân cách.
Năm 1966, N.I. Ganbiô bảo vệ luận án tiến sĩ về đề tài “Vận dụng tính hứng thú trong giảng dạy tiếng Nga”. Tác giả cho rằng hứng thú học tập của học sinh là một phương tiện để nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Nga trong nhà trường.
Năm 1967, N.G. Marôzôva nghiên cứu sự khác nhau trong việc hình thành hứng thú của trẻ em trong sự phát triển bình thường và phát triển không bình thường. N.G. Marôzôva cũng đã nghiên cứu vấn đề “Tác dụng của việc giảng dạy, nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của sinh viên”. Đến năm 1976, tác giả đưa ra cấu trúc tâm lý của hứng thú, đồng thời còn phân tích những điều kiện và khả năng giáo dục hứng thú trong quá trình học tập và lao động của học sinh.
đi vào tìm hiểu và giải quyết những vấn đề trong bài học. Qua đó, sinh viên sẽ hiểu và lĩnh hội kiến thức một cách sâu hơn.
Yếu tố “Giảng viên đánh giá công bằng với sinh viên” cũng là yếu tố ảnh hưởng tích cực tới hứng thú học tập của sinh viên (chiếm 42.5%). Thầy cô biết đánh giá sinh viên một cách công bằng, kích thích sinh viên tin vào khả năng nhận thức của bản thân một cách đúng đắn, ... thì sẽ thúc đẩy được hứng thú học tập của sinh viên.
Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên lựa chọn các yếu tố trên vẫn chỉ dao động ở mức 50% (trung bình) và còn nhiều sinh viên vẫn cảm giác chưa hứng thú học tập do những yếu tố này chưa được đảm bảo (44.8% chưa hứng thú vì phương pháp giảng dạy chưa hay). Vì vậy, giảng viên cần chú trọng hơn nữa trong việc đổi mới và áp dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp để mỗi bài học, môn học thật sự hứng thú và có tác động tích cực đối với sinh viên. Bên cạnh đó, thái độ vui vẻ và sự đánh giá công bằng với sinh viên cũng cần được giảng viên quan tâm hơn để tạo ra một môi trường học tập thật sự hứng thú cho sinh viên.
Ngoài ra, các yếu tố khách quan khác như “sách, giáo trình, tài liệu tham khảo ở thư viện chưa nhiều”, “trang thiết bị dạy học, phòng thực hành, thí nghiệm còn thiếu” ảnh hưởng tiêu cực đến hứng thú học tập của sinh viên với tỉ lệ khá lớn là 60%, 45.1%. Nguồn tài liệu, giáo trình tham khảo không phong phú làm cho sinh viên khó có điều kiện nghiên cứu, đào sâu kiến thức của bài học, môn học và chuyên ngành học của bản thân. Điều này cũng làm giảm tính tích cực, sự nhiệt tình của sinh viên đối với các môn học cũng như hoạt động học tập. Bên cạnh đó, “trang thiết bị dạy học, phòng thực hành, thí nghiệm còn thiếu” (45.1%) cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến hứng thú học tập của sinh viên. Sinh viên khó có thể vận dụng những kiến thức đã học qua thực tế tại phòng thực hành, thí nghiệm. Điều này cũng làm giảm khả năng kết hợp
67
lý thuyết với thực hành để kích thích sinh viên đi sâu nghiên cứu tri thức của bài học, môn học, ngành học. Do đó, nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất để đảm bảo hoạt động dạy – học, góp phần kích thích hứng thú học tập của sinh viên.
- Các yếu tố chủ quan:
Trong các yếu tố chủ quan chỉ có một yếu tố ảnh hưởng tích cực đến hứng thú học tập của sinh viên là “bản thân tích cực, tự giác với hoạt động học tập” (tỉ lệ lựa chọn của sinh viên là 48.3%). Đây là một yếu tố quan trọng để hoạt động học tập ở đại học có kết quả tốt, vì học tập ở môi trường mới này đòi hỏi sự tích cực, tự giác và chủ động của sinh viên trong học tập, lĩnh hội tri thức và phát triển toàn diện. Do đó, để nâng cao kết quả học tập, có hứng thú với các môn học thì người học phải tự giác tìm hiểu, hoàn thành nhiệm vụ người giảng viên giao, từ đó khơi dậy niềm say mê với các bộ môn khoa học. Mặt khác, mỗi sinh viên phải ý thức được vai trò của mình trong việc học tập, cần tích cực học tập mọi lúc mọi nơi, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn,... hơn nữa vì vẫn còn 37.5% sinh viên bị ảnh hưởng tiêu cực do “bản thân chưa tích cực, tự giác với hoạt động học tập”.
Ngoài ra, có thể kể đến các yếu tố chủ quan ảnh hưởng tiêu cực đến hứng thú học tập của một tỉ lệ lớn sinh viên như: “ít hiểu biết về ngành nghề mình đang theo học”, “chưa hiểu vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các bộ môn trong chương trình học”, “bản thân chưa có phương pháp học tập hợp lý”, “chưa thích ứng với cách tổ chức học tập ở đại học”.
Yếu tố có lựa chọn cao nhất làm cho sinh viên chưa hứng thú với hoạt động học tập nghề nghiệp là “ít hiểu biết về ngành nghề mình đang theo học” (chiếm 71.1%). Chính điều này sẽ làm cho sinh viên khó tiếp thu, lĩnh hội và đi sâu tìm hiểu, khám phá tri thức của một ngành khoa học cụ thể.
68
Yếu tố thứ hai làm giảm hứng thú học tập của sinh viên là “chưa hiểu vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các bộ môn trong chương trình học” (chiếm 64.8%). Điều này cho thấy ngoài việc bản thân sinh viên năm thứ nhất phải nỗ lực để hiểu rõ về ngành nghề, các môn học trong chương trình đào tạo thì thầy, cô trong quá trình giảng dạy phải làm cho sinh viên hiểu vị trí, tầm quan trọng của môn học mình phụ trách, đồng thời vận dụng kiến thức của môn học vào chính thực tế ngành nghề sinh viên đang theo học. Nhưng với cách bố trí một số môn học đại cương của sinh viên năm thứ nhất là thường ghép nhiều lớp ở các khoa khác nhau vào học chung sẽ gây khó khăn rất nhiều cho giảng viên trong quá trình giảng dạy cũng như vận dụng kiến thức của môn học vào từng ngành nghề cụ thể. Từ đó, sinh viên khó có thể hiểu được ý nghĩa của các môn học trong chương trình đào tạo và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hứng thú học tập bộ môn của chính họ. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho thái độ học tập của sinh viên ở mức “chỉ thích thú, say mê một số môn học” như đã khảo sát ở phần thực trạng về hứng thú học tập.
Yếu tố được đánh giá cao thứ ba là “chưa có phương pháp học tập hợp lý” (chiếm 61.9%). Điều này cho thấy có đến 61.9% sinh viên năm thứ nhất chưa có được phương pháp học tập hợp lý, dẫn đến việc học tập chưa mang lại hiệu quả cao.
Chính sự ảnh hưởng tiêu cực của yếu tố “chưa có phương pháp học tập hợp lý” và “bản thân chưa thích ứng với cách tổ chức học tập ở đại học” đã làm cho hành vi học tập ngoài lớp của sinh viên chưa thực sự tích cực, chủ động như đã khảo sát ở phần trước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại đã đặt ra
những yêu cầu cao về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Tổ chức UNESCO đã khẳng định: “Nền giáo dục hôm nay và tương lai phải dựa trên 04 trụ cột: Learning to know - học để biết; Learning to do - học để làm; Learning to be - học để khẳng định mình và Learning to live together - học để cùng chung sống”. Vì thế, làm thế nào để người học có hứng thú tập trung chú ý trong học tập, nắm được những tri thức khoa học cơ bản, đặc biệt, họ có khả năng tự học, tự nghiên cứu, có kỹ năng, kỹ xảo để đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của thực tế, ... là vấn đề luôn được coi trọng.
Sinh viên là đội ngũ trí thức tương lai của đất nước, sự phát triển của đất nước đòi hỏi phải có lực lượng lao động có trình độ khoa học, tay nghề cao,... Học tập ở đại học là một hoạt động tâm lý được tổ chức một cách độc đáo nhằm mục đích giúp sinh viên trở thành những chuyên gia phát triển toàn diện sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao. Do đó, hứng thú học tập giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của các quá trình học tập.
Hứng thú học tập chính là thái độ nhận thức đặc biệt của chủ thể đối với hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống của cá nhân. Nhờ hứng thú, sinh viên có thể giảm mệt mỏi, căng thẳng, tăng sự chú ý, thúc đẩy tính tích cực tìm tòi, sáng tạo trong quá trình học tập và dễ dàng thành công trong học tập.
Thực tế cho thấy, sinh viên năm thứ nhất, trong đó có sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến, phần lớn là học sinh đang thực hiện bước chuyển tiếp từ môi trường học tập ở phổ thông sang môi trường học tập ở bậc đại học với nhiều khác biệt về khối lượng, nội dung tri thức, phương pháp
2
giảng dạy, hình thức học tập,.... Học tập của sinh viên diễn ra trong trường đại học cũng khác với hoạt động đó ở học sinh phổ thông. Ở trường phổ thông, học sinh lĩnh hội những tri thức đã được biên soạn sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, còn ở đại học sinh viên phải tiếp thu những tri thức cơ bản, hệ thống và có tính khoa học cao của một khoa học nhất định. Việc chuyển từ học tập ở trường phổ thông sang trường đại học có những biến đổi mạnh mẽ, ảnh hưởng nhất định đến việc học tập, hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất.
Vì vậy, tìm hiểu hứng thú và tìm ra biện pháp nâng cao hứng thú trong học tập của sinh viên năm thứ nhất là việc làm cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của họ.
Thời gian qua, cũng đã có các công trình nghiên cứu về hứng thú học tập của học sinh, sinh viên với một môn học cụ thể nào đó và hứng thú học tập của sinh viên nói chung. Nhưng vấn đề hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất với những thay đổi về môi trường học tập mới vẫn chưa được quan tâm.
Xuất phát từ lí do trên, tui đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu hứng thú học tập và những yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp để nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên năm thứ nhất.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể nghiên cứu: sinh viên năm thứ nhất Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đối tượng nghiên cứu: hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất.
3
4. GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
- Hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất chưa cao.
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm
thứ nhất trường Đại học Văn Hiến, nhưng yếu tố cơ bản nhất làm cho hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất chưa cao là do ít hiểu biết về ngành nghề bản thân đang theo học.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: hoạt động học tập của sinh viên, hứng thú, hứng thú học tập, đặc điểm hứng thú học tập của sinh viên, biểu hiện của hứng thú học tập, các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất.
- Nghiên cứu thực trạng hứng thú học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến.
- Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên năm thứ nhất hứng thú với việc học tập.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu như sau:
- Chỉ nghiên cứu trên nhóm 315 sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Văn Hiến.
- Chỉ nghiên cứu hứng thú học tập ở các biểu hiện: nhận thức, thái độ
và hành vi đối với học tập; đồng thời nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến.
7. CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Cách tiếp cận
Đề tài tiến hành dựa trên cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo hướng tiếp cận sau:
- Hướng tiếp cận thực tiễn:
4
Hứng thú học tập của sinh viên phải được khảo sát thực trên một mẫu đủ độ khái quát. Hơn nữa, việc khảo sát này phải đảm bảo thu thập được những số liệu thực tiễn, chính xác.
- Hướng tiếp cận hoạt động:
Hứng thú học tập của nhóm sinh viên năm thứ nhất được khảo sát phải tìm hiểu qua hoạt động học tập của sinh viên. Bởi vì, hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất được hình thành thông qua hoạt động học tập.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu lý luận và kết quả nghiên cứu thực tiễn về hứng thú học tập của sinh viên.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Bảng hỏi được xây dựng dưới dạng phiếu thăm dò ý kiến.
- Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn cá nhân: chọn một số vấn đề nào đó nổi trội trong phần trả
lời để phỏng vấn sâu ở một số đối tượng.
- Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phần mềm SPSS 11.5 for
window để xử lý các số liệu thống kê. 8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài mô tả thực trạng hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến, chỉ ra các biểu hiện hứng thú học tập, các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng, đặc biệt yếu tố cơ bản nhất làm cho hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất chưa cao là do ít hiểu biết về ngành nghề đang học. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Văn Hiến.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.1. Ở nước ngoài
Những công trình nghiên cứu về hứng thú ở trên thế giới xuất hiện tương đối sớm và ngày càng được phát triển.
Herbart (1776-1841) nhà tâm lý học nhà triết học, nhà giáo dục học, người Đức. Ông là người sáng lập ra trường phái giáo dục hiện đại ở Đức thế kỷ XIX. Ông đã đưa ra 4 mức độ của dạy học: tính sáng rõ, tính liên tưởng, tính hệ thống, tính phong phú, đặc biệt hứng thú là yếu tố quyết định kết quả học tập của người học.
Ovide Decroly (1871 – 1932) bác sĩ và nhà tâm lý người Bỉ khi nghiên cứu về khả năng tập đọc, tập làm tính của trẻ đã xây dựng học thuyết về những trung tâm hứng thú và về lao động tích cực.
John Dewey, (1859 – 1952) nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mỹ sáng lập lên trường thực nghiệm vào năm 1896, trong đó ưu tiên hứng thú của học sinh và nhu cầu của học sinh trong từng lứa tuổi. Ông cho rằng, hứng thú thực sự xuất hiện khi cái tui đồng nhất với một ý tưởng hay một vật thể đồng thời tìm thấy ở chúng phương tiện biểu lộ.
I.K. Strong đã nghiên cứu “Sự thay đổi hứng thú cùng với lứa tuổi”. Từ những năm 1931, ông đã đưa ra quan điểm và phương pháp nghiên cứu hứng thú bằng bảng câu hỏi.
Năm 1938, Ch.Buher trong công trình “Phát triển hứng thú ở trẻ em” đã tìm hiểu khái niệm hứng thú.
Đến năm 1946, E.Clapade với vấn đề “Tâm lý trẻ em và thực nghiệm sư phạm” đã đưa ra khái niệm hứng thú dựa trên bản chất sinh học. Trong
6
giáo dục chức năng, Clapade đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hứng thú trong hoạt động của con người và cho rằng quy luật của hứng thú là cái trục duy nhất mà tất cả hệ thống phải xoay quanh nó.
Từ những thập niên 40 của thế kỷ XX, A.F.Bêliep đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về “Tâm lý học hứng thú”. Các nhà tâm lý học như S.LRubinstein, G.Morodov... đã quan tâm nghiên cứu khái niệm hứng thú, con đường hình thành hứng thú, và cho rằng hứng thú là biểu hiện của ý chí, tình cảm.
Năm 1955, A.P.Ackhadop có công trình nghiên cứu về sự phụ thuộc của tri thức học viên với hứng thú học tập. Kết quả cho thấy tri thức của học viên có mối quan hệ khăng khít với hứng thú học tập. Trong đó sự hiểu biết nhất định về môn học được xem là một tiền đề cho sự hình thành hứng thú đối với môn học.
D.Super trong “Tâm lý học hứng thú”(1961) đã xây dựng phương pháp nghiên cứu về hứng thú trong cấu trúc nhân cách.
Năm 1966, N.I. Ganbiô bảo vệ luận án tiến sĩ về đề tài “Vận dụng tính hứng thú trong giảng dạy tiếng Nga”. Tác giả cho rằng hứng thú học tập của học sinh là một phương tiện để nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Nga trong nhà trường.
Năm 1967, N.G. Marôzôva nghiên cứu sự khác nhau trong việc hình thành hứng thú của trẻ em trong sự phát triển bình thường và phát triển không bình thường. N.G. Marôzôva cũng đã nghiên cứu vấn đề “Tác dụng của việc giảng dạy, nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của sinh viên”. Đến năm 1976, tác giả đưa ra cấu trúc tâm lý của hứng thú, đồng thời còn phân tích những điều kiện và khả năng giáo dục hứng thú trong quá trình học tập và lao động của học sinh.
đi vào tìm hiểu và giải quyết những vấn đề trong bài học. Qua đó, sinh viên sẽ hiểu và lĩnh hội kiến thức một cách sâu hơn.
Yếu tố “Giảng viên đánh giá công bằng với sinh viên” cũng là yếu tố ảnh hưởng tích cực tới hứng thú học tập của sinh viên (chiếm 42.5%). Thầy cô biết đánh giá sinh viên một cách công bằng, kích thích sinh viên tin vào khả năng nhận thức của bản thân một cách đúng đắn, ... thì sẽ thúc đẩy được hứng thú học tập của sinh viên.
Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên lựa chọn các yếu tố trên vẫn chỉ dao động ở mức 50% (trung bình) và còn nhiều sinh viên vẫn cảm giác chưa hứng thú học tập do những yếu tố này chưa được đảm bảo (44.8% chưa hứng thú vì phương pháp giảng dạy chưa hay). Vì vậy, giảng viên cần chú trọng hơn nữa trong việc đổi mới và áp dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp để mỗi bài học, môn học thật sự hứng thú và có tác động tích cực đối với sinh viên. Bên cạnh đó, thái độ vui vẻ và sự đánh giá công bằng với sinh viên cũng cần được giảng viên quan tâm hơn để tạo ra một môi trường học tập thật sự hứng thú cho sinh viên.
Ngoài ra, các yếu tố khách quan khác như “sách, giáo trình, tài liệu tham khảo ở thư viện chưa nhiều”, “trang thiết bị dạy học, phòng thực hành, thí nghiệm còn thiếu” ảnh hưởng tiêu cực đến hứng thú học tập của sinh viên với tỉ lệ khá lớn là 60%, 45.1%. Nguồn tài liệu, giáo trình tham khảo không phong phú làm cho sinh viên khó có điều kiện nghiên cứu, đào sâu kiến thức của bài học, môn học và chuyên ngành học của bản thân. Điều này cũng làm giảm tính tích cực, sự nhiệt tình của sinh viên đối với các môn học cũng như hoạt động học tập. Bên cạnh đó, “trang thiết bị dạy học, phòng thực hành, thí nghiệm còn thiếu” (45.1%) cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến hứng thú học tập của sinh viên. Sinh viên khó có thể vận dụng những kiến thức đã học qua thực tế tại phòng thực hành, thí nghiệm. Điều này cũng làm giảm khả năng kết hợp
67
lý thuyết với thực hành để kích thích sinh viên đi sâu nghiên cứu tri thức của bài học, môn học, ngành học. Do đó, nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất để đảm bảo hoạt động dạy – học, góp phần kích thích hứng thú học tập của sinh viên.
- Các yếu tố chủ quan:
Trong các yếu tố chủ quan chỉ có một yếu tố ảnh hưởng tích cực đến hứng thú học tập của sinh viên là “bản thân tích cực, tự giác với hoạt động học tập” (tỉ lệ lựa chọn của sinh viên là 48.3%). Đây là một yếu tố quan trọng để hoạt động học tập ở đại học có kết quả tốt, vì học tập ở môi trường mới này đòi hỏi sự tích cực, tự giác và chủ động của sinh viên trong học tập, lĩnh hội tri thức và phát triển toàn diện. Do đó, để nâng cao kết quả học tập, có hứng thú với các môn học thì người học phải tự giác tìm hiểu, hoàn thành nhiệm vụ người giảng viên giao, từ đó khơi dậy niềm say mê với các bộ môn khoa học. Mặt khác, mỗi sinh viên phải ý thức được vai trò của mình trong việc học tập, cần tích cực học tập mọi lúc mọi nơi, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn,... hơn nữa vì vẫn còn 37.5% sinh viên bị ảnh hưởng tiêu cực do “bản thân chưa tích cực, tự giác với hoạt động học tập”.
Ngoài ra, có thể kể đến các yếu tố chủ quan ảnh hưởng tiêu cực đến hứng thú học tập của một tỉ lệ lớn sinh viên như: “ít hiểu biết về ngành nghề mình đang theo học”, “chưa hiểu vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các bộ môn trong chương trình học”, “bản thân chưa có phương pháp học tập hợp lý”, “chưa thích ứng với cách tổ chức học tập ở đại học”.
Yếu tố có lựa chọn cao nhất làm cho sinh viên chưa hứng thú với hoạt động học tập nghề nghiệp là “ít hiểu biết về ngành nghề mình đang theo học” (chiếm 71.1%). Chính điều này sẽ làm cho sinh viên khó tiếp thu, lĩnh hội và đi sâu tìm hiểu, khám phá tri thức của một ngành khoa học cụ thể.
68
Yếu tố thứ hai làm giảm hứng thú học tập của sinh viên là “chưa hiểu vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các bộ môn trong chương trình học” (chiếm 64.8%). Điều này cho thấy ngoài việc bản thân sinh viên năm thứ nhất phải nỗ lực để hiểu rõ về ngành nghề, các môn học trong chương trình đào tạo thì thầy, cô trong quá trình giảng dạy phải làm cho sinh viên hiểu vị trí, tầm quan trọng của môn học mình phụ trách, đồng thời vận dụng kiến thức của môn học vào chính thực tế ngành nghề sinh viên đang theo học. Nhưng với cách bố trí một số môn học đại cương của sinh viên năm thứ nhất là thường ghép nhiều lớp ở các khoa khác nhau vào học chung sẽ gây khó khăn rất nhiều cho giảng viên trong quá trình giảng dạy cũng như vận dụng kiến thức của môn học vào từng ngành nghề cụ thể. Từ đó, sinh viên khó có thể hiểu được ý nghĩa của các môn học trong chương trình đào tạo và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hứng thú học tập bộ môn của chính họ. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho thái độ học tập của sinh viên ở mức “chỉ thích thú, say mê một số môn học” như đã khảo sát ở phần thực trạng về hứng thú học tập.
Yếu tố được đánh giá cao thứ ba là “chưa có phương pháp học tập hợp lý” (chiếm 61.9%). Điều này cho thấy có đến 61.9% sinh viên năm thứ nhất chưa có được phương pháp học tập hợp lý, dẫn đến việc học tập chưa mang lại hiệu quả cao.
Chính sự ảnh hưởng tiêu cực của yếu tố “chưa có phương pháp học tập hợp lý” và “bản thân chưa thích ứng với cách tổ chức học tập ở đại học” đã làm cho hành vi học tập ngoài lớp của sinh viên chưa thực sự tích cực, chủ động như đã khảo sát ở phần trước.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: thực tiễn ý thức tự học của sinh viên hiện nay đại học văn hiến, hng thu hoc tap sinh vien truong dh van hien pdf, hứng thú nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng, 5 ấn tượng khi học môn tâm lý học đại cương, các tài liệu viết về hứng thú học tập sinh viên, tài liệu về hứng thú học tập của sinh viên đại học, Hứng thú nghề điều dưỡng của sinh viên trường đại học điều dưỡng nam định, hứng thú học tập điều dưỡng, hứng thú nghề nghiệp điều dưỡng tổng quan tài liệu
Last edited by a moderator: