daigai

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
Bài giảng Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1.1.Đối tượng nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm “đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập ngày 3-2-1930, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lê nin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn và trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Đường lối đúng là nguyên nhân cơ bản đầu tiên đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi; để có đường lối đúng, Đảng đã nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, bám sát thực tiễn tìm tòi nghiên cứu, nắm bắt quy luật khách quan; chống chủ quan, duy ý chỉ, máy móc học kinh nghiệm nước ngoài.
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam được thể hiện trong cương lĩnh, nghị quyết của Đảng.
Về tổng thể, đường lối cách mạng của Đảng bao gồm đường lối đối nội và đường lối đối ngoại.
Đường lối cách mạng của Đảng là toàn diện và phong phú. Có đường lối chính trị chung xuyên suốt cả quá trình cách mạng. Có đường lối cho từng thời kỳ cách mạng. Có đường lối cho từng lĩnh vực hoạt động.
2
Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi phản ảnh đúng quy luật vận động khách quan.
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của môn học
Môn học Đường lối cách mạng của Đảng CSVN cơ bản nghiên cứu sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối do Đảng đề ra trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay.
Đối tượng nghiên cứu cơ bản của môn học là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách, của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam- từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, có quan hệ mật thiết với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lê nin và môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì đường lối cách mạng của Đảng là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Do đó nắm vững hai môn học này sẽ trang bị cho sinh viên tri thức và phương pháp luận khoa học để nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, một cách sâu sắc và toàn diện hơn.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, nghiên cứu sự ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam- chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.
Hai là, làm rõ quá trình hình thành, bổ sung đường lối cách mạng của Đảng. Đặc biệt là làm rõ đường lối của Đảng trên một số lĩnh vực của thời kỳ đổi mới.
Ba là, làm rõ kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng trên một số lĩnh vực cơ bản trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Yêu cầu đối với người dạy: phải nắm vững Cương lĩnh đường lối của Đảng theo yêu cầu của môn học và cập nhật đường lối quan điểm của Đảng một cách thường xuyên qua các kỳ Đại hội Đảng, qua các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng; giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn.
Đối với người học, nắm vững những nội dung cơ bản để vận dụng trong học tập và công tác.
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC 2.1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dực trên cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê nin, các quan điểm có tính chất phương pháp luận của Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu phải kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với logic là cơ bản nhất
và các phương pháp nghiên cứu liên ngành như: phân tích, tổng hợp, so sánh; chú trọng 3

gắn việc hoạch định đường lối của Đảng với kết quả thực hiện đường lối để làm rõ ưu điểm, khuyết điểm của việc đề ra và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối đã đề ra.
2.2. Ý nghĩa học tập của môn học
Trang bị cho người học những hiểu biết cơ bản về quá trình ra đời của Đảng,về đường lối của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối đổi mới của Đảng.
Bồi dưỡng niềm tin, niềm tự hào có cơ sở khoa học và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng, từ đó định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
Học tập môn này tạo cơ sở vận dụng kiến thức đã học chủ động, tích cực đóng góp phần mình thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, vững bước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đã lựa chọn.
--------
CÂU HỎI
1. Phân tích khái niệm Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Cho
ví dụ.
2. Phân tích đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu môn học Đường
lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
4

CHƯƠNG 1
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Mục tiêu của chương:
- Về kiến thức: cung cấp cho người học những nội dung khách quan, chân thực về lịch sử yêu cầu cấp bách của dân tộc Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX, làm rõ sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước trước khi có Đảng, từ đó khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn về sự kiện trọng đại đó là: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930), trong đó đặc biệt là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Về tư tưởng: cung cấp cơ sở lịch sử khẳng định con đường cách mạng vô sản là khát vọng của nhân dân Việt Nam, của chính lịch sử dân tộc Việt Nam; góp phần củng cố niềm tin đối với sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
- Về kỹ năng: Từ những bài học lịch sử của quá trình vận động thành lập Đảng, đến sự sáng tạo, nắm bắt đặc điểm thực tiễn của dân tộc Việt Nam để có những quyết sách mang tầm chiến lược cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, góp phần nâng cao năng lực tư duy, nhận thức của người học.
NỘI DUNG CHÍNH
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
2. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng NỘI DUNG CHI TIẾT
1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1.1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1.1. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chúng đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược các nước nhỏ yếu làm thuộc địa, làm thức tỉnh ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Ngày 1-8-1914 chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ (1914-1918), cuộc chiến làm cho các nước tư bản suy yếu, mâu thuẫn giữa các nước tư bản và đế quốc tăng lên.
1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác- Lê nin
Chủ nghĩa Mác ra đời từ giữa thế kỷ XIX, là vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và đã được phong trào công nhân các nước tiếp thu, dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do C.Mác và
5

Ph. Ăngghen viết năm 1848 đã nói “Những người cộng sản luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản”. V.I.Lê nin đã phát triển chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa Mác- Lê nin và thành lập Đảng cộng sản (b) Nga năm 1903.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác- Lê nin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3-2-1930).
1.1.3. Tác động của cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế cộng sản
Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lê nin và Đảng Cộng sản Bôn sê vich Nga đã lãnh đạo Cách mạng tháng Mười (7-11-1917) thắng lợi và đưa nước Nga đi lên chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới là “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc” sự kiện này cổ vũ và thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc & cách mạng thế giới phát triển.
Đối với các dân tộc thuộc địa Cách mạng Tháng Mười đã nêu gương sáng trong việc giải phóng cho các dân tộc bị áp bức.
Tháng 3-1919, theo sáng kiến của V.I. Lênin Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập do V.I. Lê nin lãnh đạo; tại Đại hội II (1920) Quốc tế Cộng sản đã thông qua: “Luận cương những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin; Luận cương chỉ rõ phương hướng giải phóng dân tộc cho các dân tộc thuộc địa và mở ra con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân thuộc địa đó là con đường cách mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, Quốc tế III, có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê nin và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nói “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế (Quốc tế III)”.
1.2. Hoàn cảnh trong nước
1.2.1. Xã hội Việt Nam dưới thời thống trị của thực dân Pháp
* Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam; nhân dân
ta đã liên tiếp đứng lên chống Pháp nhưng đều bị thất bại; bằng sức mạnh quân sự đến ngày 6-6- 1884 Pháp nắm trọn quyền thống trị Việt Nam (sau khi triều đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước Pa tơ nốt).
Từ khi xâm lược, Pháp áp đặt chính sách cai trị thâm độc và tàn bạo: Chuyên chế về chính trị; độc quyền về kinh tế; ngu dân về văn hóa. Hậu quả là làm cho nước ta mất hoàn toàn độc lập, trở thành “xứ thuộc địa nửa phong kiến” dân ta mất hoàn toàn tự do, người lao động sống trong cảnh lầm than, bần hàn, cơ cực.
6

Về chính trị, Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực của triều đình nhà Nguyễn; thực hiện “chia để trị”, Pháp chia nước ta thành ba xứ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Pháp câu kết với địa chủ, phong kiến để bóc lột nhân dân ta về kinh tế và áp bức về chính trị....
Về kinh tế, Pháp tước đoạt ruộng đất để lập đồn điền; khai thác tài nguyên của nước ta, tiến hành khai thác thuộc địa, làm cho một số ngành kinh tế mới (giao thông, điện lực, bến cảng...) ra đời để phục vụ cho việc bóc lột của Pháp. Kinh tế nước ta lệ thuộc vào Pháp...
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách văn hóa, giáo dục thực dân; dung túng duy trì các hủ tục lạc hậu, đầu độc nhân dân ta bằng rượu, cồn và thuốc phiện... người dân phải sống trong cảnh ngu dốt, tối tăm... không có quyền tự do học tập.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
Tác động của chính sách thống trị của thực dân Pháp đến xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã làm cho xã hội phân hóa sâu sắc:
Giai cấp địa chủ từ địa vị thống trị nay trở thành tay sai của Pháp, câu kết với
thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam đã có sự phân hóa, một bộ phân địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân, đã tham gia đấu tranh chống Pháp.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số, là giai cấp lao động và là lực lượng cách mạng đông đảo, bị thực dân, phong kiến bóc lột, áp bức nặng nề. Tình cảnh đó đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến, làm tăng thêm ý chí cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam
- Ra đời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình khai thác thuộc địa của Pháp, tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà nội, Sài gòn, Hải phòng...Giai cấp công nhân Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông dân, là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy họ có mối liên hệ trực tiếp với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân bị đế quốc và phong kiến bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là“ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam và vừa lớn lên đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê nin”.
Giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời nhưng được tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga và được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dìu dắt nên đã sớm bước lên vũ đài chính trị, trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giai cấp tư sản Việt Nam là giai cấp mới, bao gồm tư sản công nghiệp và tư sản 7

thương nghiệp là giai cấp bóc lột; giai cấp này khi mới ra đời đã bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép do đó nhỏ bé và yếu ớt về kinh tế và chính trị, nên không thể lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản chiếm khoảng 8% dân số, bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề tự do. Trong đó giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng.Tiểu tư sản Việt Nam là tầng lớp có lòng yêu nước là lực lượng cách mạng khá đông đảo và quan trọng, đời sống của họ bấp bênh, đễ bị phá sản; họ rất nhiệt tình và hăng hái cách mạng và thường là ngòi nổ của các cuộc đấu tranh.
Tóm lại:
Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam xuất hiện hai giai cấp mới là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận mất nước, nô lệ, ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và tay sai phong kiến, đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ, phong kiến. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuận giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi, từ một xã hội phong kiến, độc lập nay trở thành “ xã hội thuộc địa nửa phong kiến”.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, phải xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân; xã hội Việt Nam muốn phát triển phải giải quyết các mâu thuẫn trên; Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
1.2.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra rất mạnh mẽ. Các phong trào tiêu biểu nhất là:
Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết lãnh đạo (1885 - 1896), phát triển mạnh ở Trung kỳ và Bắc kỳ.
Cuộc khởi nghĩa nông dân Yên thế (1884-1913) tỉnh Bắc Giang, do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài gần 30 năm, đến 1913 thất bại. Chấm dứt vai trò của giai cấp phong kiến và nông dân Việt Nam chống Pháp với hệ tư tưởng phong kiến.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước thắng lợi.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của các sỹ phu yêu nước 8

chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nỗi, tiêu biểu là:
Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo theo xu hướng bạo động và phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh lãnh đạo theo xu hướng cải cách chống Pháp. Ngoài ra còn có nhiều phong trào chống Pháp khác như Phong trào Đông kinh nghĩa
thục (1907)... theo khuynh hướng dân chủ tư sản đều thất bại.
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) của Việt Nam quốc dân Đảng do Nguyễn Thái
Học lãnh đạo cũng thất bại, chấm dứt vai trò của giai cấp tư sản chống Pháp theo hệ tư tưởng tư sản.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời trong bối cảnh chịu tác động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và bị phân hóa giữa hai khuynh hướng cách mạng và cải lương. Cuối cùng, khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản đã thắng thế.
Việt Nam quốc dân Đảng là tổ chức chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, chấm dứt vai trò của tổ chức này.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nước ta, có ý nghĩa rất quan trọng.Nó tiếp bước cho truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta và chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin, quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh.Phong trào yêu nước đã trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
1.2.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
* Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng – Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước. Người đi nhiều nước trên thế giới, học hỏi kinh nghiệm cách mạng các nước.
Người nghiên cứu Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789); Người cho rằng: Đây là hai cuộc cách mạng không đến nơi, cách mạng không đến nơi chẳng khác nào người đi nửa đường đứt gánh, cách mạng đã xong lâu rồi mà nhân dân lao động vẫn còn khổ; họ đang mưu tính cuộc cách mạng lần hai. Ta không nên theo cuộc cách mạng này.
Nguyễn Aí Quốc khẳng định: Con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại 9

độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Ngày 7 tháng 11 năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm và nghiên cứu cuộc cách mạng này và rút ra kết luận: “Trong thế giới ngày nay, chỉ có cách mệnh Nga là thành công và thành công đến nơi; nghĩa là dân chúng mới được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc “ Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Tác phẩm này làm cho Người cảm động, sung sướng, phấn khởi, tin tưởng và sáng tỏ; vì đã tìm thấy con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam đó là con đường cách mạng vô sản và từ đó Người hoàn toàn tin theo V.I. Lênin, tin Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản.
Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp tại thành phố Tua, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản Pháp; tán thành Đảng Cộng sản Pháp gia nhập Quốc tế thứ III. Từ người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành Đảng viên cộng sản đầu tiên (tại Pháp) và Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”.
Sau khi trở thành Đảng viên Cộng sản và tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin, vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam; chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Aí Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê nin vảo Việt Nam thong qua các bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp(1925).
Ngày 11-11-1924, Người đến Quảng Châu, Trung Quốc.Tháng 6-1925 Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Chương trình và Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới... sau khi cách mạng thành công tiến lên xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh Niên.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hồ Chí Minh đã trực tiếp giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lênin cho các Hội viên của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu; đào tạo lớp cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam (75 người). Hội viên Việt Nam cách mạng thanh niên sau khi học, về nước thực hiện chủ trương “vô sản hóa” để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin ( năm 1928). Chuẩn bị thành lập Đảng.
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gởi đi học tại trường đại học Phương Đông (Liên Xô) như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập ...và một số đi học trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
10

Những bài giảng của Người được Bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành sách "Đường cách mệnh” (năm 1927).
Nội dung tác phẩm Đường cách mệnh chỉ rõ: Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau. Vai trò củ
1.1.3. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
Kết quả:
Về chính trị- xã hội: Ngày 6-1-1946, cử tri trong cả nước đi bầu cử Quốc hội
khóa 1 và Hội đồng nhân dân các cấp, Quốc hội khóa I có 333 đại biểu; Bộ máy chính quyền từ Trung ương đến làng, xã được thiết lập và tăng cường. Xây dựng Mặt trận Việt Minh và các tổ chức chính trị- xã hội của quần chúng vững mạnh (Tổng công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ...) nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc để giữ vững thành quả cách mạng.
Về kinh tế: Đảng lãnh đạo đẩy mạnh phong trào thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, “hũ gạo cứu đói”, “ Hũ gạo kháng chiến” và “ Tuần lễ vàng gây quỹ độc lập”. Bác Hồ nói: “Đói là một thứ giặc”, Người kêu gọi dân ta: “Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa" “Một nắm khi đói bằng một gói khi no”. Kết quả là: Cuối năm 1945 nạn đói bị đẩy lùi; tuần lễ vàng dân góp 370 kg vàng và 60 triệu đồng Đông Dương.Tháng 11 năm 1946 giấy bạc “ Cụ Hồ” được phát hành, nền tài chính quốc gia vượt qua bước hiểm nghèo.
Về văn hóa: Đảng lãnh đạo đẩy mạnh phong trào xóa bỏ văn hóa độc hại, xây dựng đời sống văn hóa mới ở cơ sở và phát động nhân dân đầy mạnh phong trào bình dân học vụ, xóa mù. Bác nói: “Dốt là một thứ giặc", kết quả sau một năm đã có trên 2,5 triệu người biết đọc, biết viết; đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên, đặc biệt là ý thức về cuộc đời mới và người dân ở một nước độc lập mà Đảng và Bác Hồ đã mang lại cho họ.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Đảng lãnh đạo từ tháng 9-1945 đến tháng 3- 1946, ta thực hiện hòa với Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng chống Pháp, ở miền Nam. Ngày 28-2-1946 sau khi hiệp ước Hoa –Pháp được kí ở Trùng Khánh. Ta chủ trương “hòa với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước”. Hồ Chí Minh đã ký với phía Pháp: Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946 tại Hà Nội; chúng ta có thêm những ngày tháng hòa bình để xây dựng đất nước, làm cho thế và lực của ta được tăng cường.
Về quân sự
- Đảng lãnh đạo tích cực xây dựng lực lượng vũ trang chính quy và phát triển sâu rộng
lực lượng dân quân, du kích, tự vệ; phong trào diệt ác, trừ gian, bảo mật được đẩy mạnh; 29

- Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn - Gia Định, rồi đánh rộng ra các tỉnh Nam Bộ. Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống Pháp và phát động phong trào Nam tiến gấp rút lên đường chi viện cho Nam Bộ, ngăn chặn không cho Pháp đánh ra Trung Bộ.
- Từ 23-9-1945, nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, chặn đứng được âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý và nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng; tháng 2- 1946 Bác Hồ tặng đồng bào Nam Bộ bốn chữ vàng: “thành đồng Tổ quốc”.
Ý nghĩa
Với tinh thần đoàn kết chiến đấu dũng cảm của toàn dân, sau 16 tháng kháng chiến kiến quốc đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới. Chuẩn bi được những điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp.
Nguyên nhân thắng lợi: Đảng đã đánh giá đúng tình hình đất nước, kịp thời đề ra đường lối kháng chiến, kiến quốc đúng đắn; xây dựng, phát huy đại đoàn kết dân tộc; lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù...
Bài học kinh nghiệm
Đảng đã phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; dựa vào nhân dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khảng chiến chống Pháp xâm lược; Đã triệt để sử dụng sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù nhân nhượng có nguyên tắc và tập trung lực lượng vào đánh kẻ thù nguy hiểm nhất. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đề cao cảnh giác khi kẻ địch bội ước.
1.2. Đường lối kháng chiến chống Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1946-1954)
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau 16 tháng kháng chiến kiến quốc thế và lực của ta tăng lên rất nhiều. Kẻ thù ngoại xâm lúc này là Pháp, với bản chất xâm lược và hành động ngang ngược Pháp liên tục vi phạm các Hiệp định đã ký kết: Ngày 20-11-1946, Pháp đánh ta ở Hải Phòng và Lạng Sơn. Ngày 17-12-1946, Pháp gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún, Hà Nội. Ngày 18-12-1946 Pháp gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí lực lượng vũ trang ta ở Thủ đô...Pháp âm mưu cướp nước ta một lần nữa. Chúng ta vẫn chủ trương đàm phán với Pháp, nhưng không có kết quả. Khả năng hòa vớp Pháp không còn. Nếu hòa hoãn nữa sẽ mất nước.
Trước tình hình trên ta chỉ còn một con đường đánh Pháp để cứu Tổ quốc, ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở làng Vạn Phúc (Hà Đông), dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi.
30

Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20-12-1946. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cả nước đã nhất tề đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc
Thuận lợi của ta khi bước vào cuộc kháng chiến là chúng ta chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc, đánh địch trên đất nước mình là chính nghĩa. Ta cũng có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt. Thực dân Pháp có nhiều khó khăn ở trong nước và ở Đông Dương.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận ngoại giao, giúp đỡ. Pháp có vũ khí tối tân, đã chiếm được Campuchia, Lào, một số nơi ở Nam Bộ...
1.2.2. Quá trình hình thành và nội dung của đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
+ Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn thiện qua thực tiễn.
Ngay sau cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã nhận định tình hình và chỉ rõ thực dân Pháp là kẻ thù nguy hiểm nhất, tập trung mũi nhọn vào chúng; trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:

 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top