Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
1. Tính hiện thực của bản chất con người
Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của triết học các thời đại trước, C Mác đã khắc phục sự nghiên cứu con người một cách trìu tượng bằng việc xác lập quan điểm khoa học, xem xét con người hiện thực trong lịch sử phát triển của nó. Ông đã chỉ ra rằng, con người không phảI do một đấng siêu nhiên hay thần thánh, thượng đế tạo ra như sự bịa đặt của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, mà là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát triển lâu dài của vật chất. Nếu như tất cả các nhà triết học trước Mác xem xét bản chất con người trong từng cá nhân riêng lẻ mà không thấy các mối quan hệ xã hội hiện thực của nó, thì với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng. C Mác đã nêu ra một luận điểm rất nổi tiếng: “bản chất con người không phảI là một cáI trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”
Với luận điểm này, có thể nói điều đầu tiên mà C Mác muôn nêu bật lên đó là: bản chất con người không phải là cái gì đó có sẵn, hay cái gì nhất thành bất biến, mà là cái được hình thành nên, được bộc lộ ra trong cuộc sống hiện thực của nó; nghĩa là phải xem xét bản chất con người trong tính hiện thực của nó.
Hiện thực theo từ điển triết học: là đang thực tế tồn tại và phát triển chứa đựng bản chất của chính nó và quy luật trong bản thân nó, và cũng bao hàm những kết quả của sự hoạt động và phát triển của chính nó. Thực tại khách quan với tất cả tính cụ thể của nó chính là hiện thực đó. Với ý nghĩa đó hiện thực không những khác với tất cả cái bề ngoài, cái tưởng tượng mà còn khác với tất cả chỉ là cái logic (cái tư duy), còn khác với tất cả chỉ là cái khả năng cái có thể có nhưng chưa tồn tại.
Như vậy C Mác đã đặt bản chất con người trong tính hiện thực, điều đó có nghĩa con người là hiện thực, không phải là cái gì trìu tượng mà là cụ thể-cảm tính. Con người được hiện ra dưới dạng hoạt động thực tiễn, phong phú đa dạng. Đó là một con người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định với các điều kiện tự nhiên, sinh quyển... và những mối quan hệ phức tạp, ngày càng phong phú cùng với sự phát triển của văn minh. Con người cụ thể hiện thực đối tượng đầu tiên mà C Mác nghiên cứu là những người Vô sản.
Khi giai cấp Vô sản tay cầm cờ đỏ bước lên vũ đài chính trị, thì ngay trong những tác phẩm đầu tay, Mác đã thấy: “từ bộ mặt thô rám đi vi lao động của họ toả đến chúng ta sự cao quý của con người”. Đây không những là tình cảm ban đầu của C Mác đối với giai cấp Vô sản mà còn là cách nhìn mới mẻ nhất trong lịch sử về những người lao động xưa nay vẫn bị coi là dưới mức phát triển của con người.
Chúng ta phải thấy rằng sở dĩ, khi bàn đến con người C Mác đã đặt trong tính hiện thực bởi vì: trong triết học cổ điển Đức, con người được xem xét một cách sai lệch. Hêghen đã quan niệm duy tâm về con người, cho con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới”, còn Phoi ơ Bắc lại tách con người ra khỏi đời sống, quy tính sinh vật vào bản tính con người. Để chống lại các quan điểm sai lầm đó, C Mác đã xem xét con người trong tính hiện thực của nó. Mặt khác, trong triết học C Mác, vấn đề thực tiễn là điểm xuất phát có tính chất nền tảng. Trong “luận cương về Phoi ơ Bắc” C Mác đã nhấn mạnh đến vai trò của thực tiễn: “các nhà triết học trước kia chỉ nhận thức thế giới bằng nhiều cách khác nhau xong vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”.
Hoạt động thực tiễn của con người rất phong phú, đa dạng, xong hoạt động cơ bản nhất đó là hoạt động sản xuất vật chất. Con người thông qua hoạt động lao động mà quan hệ với tự nhiên. Chính trong hoạt động sản xuất ra đời sống của mình, con người có những quan hệ năng động, tích cực hai chiều và nhiều chiều với tự nhiên, với đồng loại. Qua sự tác động của con người với tự nhiên, con người làm biến đổi tự nhiên, đồng thời làm biến đối chính bản thân mình. Trong “Tư bản”, C Mác viết: “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Bản thân con người đối diện với thực tiễn tự nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên. Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về bản thân của họ: “tay và chân, đầu và hai bàn tay. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó làm thay đổi tự nhiên con người đồng thời làm thay đổi bản tính của chính họ”.
Bằng lao động, con người đã tạo ra những tư liệu để thoả mãn nhu cầu của mình. Bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra bên ngoài là các nhu cầu tất yếu khách quan như: ăn, ở, mặc... Hoạt động để thoả mãn nhu cầu sinh học của con người khác với con vật. ở con người, hoạt động này không phải là hoạt động bản năng, hoạt động đơn thuần sinh vật mà nó đã mang tính xã hội. Trong “bản thảo kinh tế-triết học 1844” C Mác khẳng định: “con người có một hoạt động sinh sống có ý thức. Đó không phải là cái có tính quy định mà với nó con người trực tiếp hoà làm một. Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống của con vật”.
Hoạt động có ý thức, có mục đích của con người là đặc trưng để phân biệt giữa con người và con vật “bản thân con người bắt đầu phân biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu của mình-sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình như thế là con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất của mình và đó chính là hành vi lịch sử đầu tiên”. Chính vì thế, sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là hoạt động bản chất nhất của con người. C Mác khẳng định nét đặc trưng riêng của quá trình lao động của con người là sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động, vì thế C Mác đã nhất trí với Phranclin khi ông định nghĩa con người là “động vật chế tạo công cụ”.
Như vậy, hoạt động lao động đã làm biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên con người, tạo lập ra bản chất xã hội của con người. Hoạt động xã hội của con người chủ yếu là hoạt động lao động sản xuất, hoạt động cách mạng cải tạo thế giới đã làm biến đổi mặt sinh học của con người một cách đáng kể và làm cho mặt sinh vật trở thành “người hoá”. Chính toàn bộ sự hoạt động ấy đã làm cho những nhu cầu sinh vật ở con người trở thành những nhu cầu xã hội. Nếu con vật chỉ thuần tuý là sản phẩm của tự nhiên, hoàn toàn chịu sự chi phối và thống trị của tự nhiên thì con người với tư cách là một sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, lại luôn tìm cách chế ngự chinh phục và làm chủ tự nhiên để thoả mãn những nhu cầu của bản thân mình. Nếu con vật chỉ biết thích nghi với môi trường tự nhiên vây quanh nó một cách hoàn toàn thụ động bằng cách biến đổi cơ thể cho phụ hợp với những điều kiện của môi trường thì con người bằng hoạt động của mình lại luôn tìm cách sử dụng và biến đổi môi trường xung quanh để tồn tại và phát triển. Lao động sáng tạo nên con người và nhờ tham gia lao động xã hội con người xẽ hoàn thiện các bản chất đặc thù của mình. Chính vì thế Ăngghen viết: “trên một nghĩa nhất định nào đó, chúng ta phải nói rằng: lao động sáng tạo ra bản thân con người”. Nhờ lao động loài người đã trải qua những biến đổi về mặt sinh học, đồng thời xét đến cùng lao động đã hình thành nên bản chất con người và quy định phẩm chất xã hội đặc biệt của con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nhờ lao động có mục đích nên con người đã thoát khỏi ra tình trạng loài vật, xong không có nghĩa là con người thoát ra khỏi hoàn toàn tự nhiên. Ăngghen đã nói rất đúng rằng: “chúng ta, với cả xương, thịt, máu bộ não của chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên và chúng ta nằm trong giới tự nhiên. Hơn thế nữa, cũng giống như bất kỳ sinh vật nào, con người phảI thích ứng với tự nhiên, xong con người thích ứng với tự nhiên bằng cách bắt tự nhiên đáp ứng nhu cầu của mình. Sự thích ứng ấy có tính chất môI giới và thực hiện thông qua lao động. Nhờ lao động có mục đích mà con người tác động và giới tự nhiên và sáng tạo ra thế giới vật chất riêng của mình. Khi thoả mãn nhu cầu, trong điều kiện thay đổi môI trường tự nhiên, con người đã thể hiện bản chất loài của mình và tự biến mình thành một thực thể xã hội.
Hoạt động thực tiễn của con người không chỉ tạo nên mối quan hệ giữa con người với xã hội mà nó còn làm cho con người thực sự trở thành người, làm cho mối quan hệ giữa con người với tự nhiên chuyển sang hình thức mối quan hệ giữa con người với con người. Theo Mác, trong xã hội thống nhất biện chứng giữa con người với tự nhiên là xã hội. vì bản chất tự nhiên của con người chỉ tồn tại với con người xã hội. Chỉ có trong đời sống xã hội, tự nhiên đối với con người mới là khâu liên hệ con người với con người, mới là nhân tố sinh hoạt của con người. Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với con người. Tự nhiên có trước con người, còn xã hội ra đời cùng với con người. Song tự nhiên và xã hội luôn có mối quan hệ với nhau. Tính tự nhiên của con người không tồn tại bên cạnh tính xã hội của con người mà chúng hoà quyện vào nhau, tồn tại trong yếu tố xã hội. Như vậy con người hiện thực của Mác là con người với tư cách là tổng thể tồn tại bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Con người hiện thực được hiện ra với các hoạt động thực tiễn và cũng chính thông qua các hoạt động thực tiễn bản chất của con người được hình thành và tính tự nhiên của con người đã mang tính xã hội, được chuyển vào hoà nhập trong xã hội. Như vậy, tính hiện thực của con người cũng chính là sự tồn tại của con người trong hiện thực khách quan, trong thực tiễn của nó. Tính hiện thực của con người trước hết được thể hiện ở chỗ con người tồn tại thực, hiển nhiên, cảm tính, trong mối quan hệ với tự nhiên với xã hội, trong một hoàn cảnh nhất định, một thời đại nhất định, chứ không phải là sự tồn tại trìu tượng. Điều này đã được Mác khẳng định trong “hệ tư tưởng Đức” rằng: “chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương, bằng thịt. Không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ”.
Trong “luận cương về Pho Ơ Bắc” Mác đã lý giải con người hiện thực bằng cách đưa ra định nghĩa con người hiện thực: “bản chất của con người không phải là cái trìu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tính tổng hoà các quan hệ xã hội”. Định nghĩa trên về bản chất con người chứa đựng một tư tưởng hết sức sâu sắc, nhưng lại được trình bày một cách cô đọng, vắn tắt nên nó thường bị giải thích một cách phiến diện. Định nghĩa trên thường bị các sách báo Tư sản và những người chống lại Mác xuyên tạc một số giảI thích Mác hiểu con người là tổng hoà những mối quan hệ sản xuất. Một số khác khẳng định rằng: dường như trong luận cương của Mác không thể hiện được cơ sở tích cực, cơ sở hoạt động trong con người. Thực ra luận điểm trên của Mác cần hiểu rằng, Mác đã vạch ra yếu tố cấu thành con người là các quan hệ xã hội hơn nữa nó lại là bản chất xã hội đặt trong tính hiện thực trực tiếp của nó. Cái quyết định bản chất của con người là cái xã hội cái bản chất ấy được hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn, trước hết là thực tiễn lao động sản xuất của cải vật chất. Đó là hành vi lịch sử đầu tiên làm cho con người mang bản chất khác với loài vật.
chế thị truờng đang có nguy cơ làm giảm đi những giá trị văn hoá tinh thần trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Đó là biểu hiện của lối sống thực dụng chỉ coi trọng những giá trị vật chất, coi trọng đồng tiền hơn nhân phẩm và những giá trị truyền thống. Chính từ những nguyên nhân đó mà nền giáo dục ở nước ta đang đứng trứơc thử thách rất lớn, là một trong những mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Vì vậy Đảng ta càng cần có những biện pháp, chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo con người Việt Nam phù hợp với su thế mới của thời đại.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là điều kiện cần thiết để phát huy nhân tố con người. Đảng ta rất chú ý và ngày càng đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thuật và chăm lo đào tạo đội ngũ giáo viên, có chính sách thoả đáng với người thầy giáo. Chúng ta phải nhận thức được rằng: “Phải đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội”. Vì thế hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương (khoá VII) đã đề ra rất nhiều chủ chương, chính sách và các biện pháp lớn: sắp xếp lại hệ thống các trường nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư sử dụng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. phấn đầu đến năm 2000 thanh toán nạn mù chữ cho những lao động ở độ tuổi từ 15 đến 35 thu hẹp diện người mù chữ ở độ tuổi khác. Hình thành bậc trung học mới nhằm chuẩn bị cho một bộ phận học sinh tiếp tục học lên và đa số tốt nghiệp có thể vào đời. Mở rộng giáo dục nghề nghiệp. Mở rộng quy mô đào tạo đại học. Xác định mục tiêu phải thiết kế lại chương trình kế hoạch nội dung phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng cấp, bậc học, nghành học. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ. Tăng cường sự lãnh đạo các cấp uỷ đảng đối với sự nghiệp giáo dục. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục. Đổi mới quản lí giáo dục và đào tạo…
Ngày nay ở nước ta, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đang phát triển mạnh mẽ, nhân tố con người lại càng có vai trò quan trọng, để phát triển con người càng phải nhấn mạnh giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “ Tăng cường đầu tư và phát triển con người thông qua phát triển mạn giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đảm bảo nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng đáp ứng ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với giáo dục và đào tạo, tăng cương tiềm lực và đóng góp của khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế – xã hội, tiếp tục tăng đầu tư thích đáng từ ngân sách nhà nước, đòng thời phát huy mọi nguồn lực cho nghiên cứu những lĩnh vực khoa học và công nghệ mới. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ, ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghhiệp nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục ở nước ta chiếm khoảng 15% tổng ngân sách nhà nước, điều đó chứng tỏ rằng Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục- đào tạo với mục đích vì sự phát triển của xã hội, vì con người
MỤC LỤC
1. Tính hiện thực của bản chất con người 1
2. Bản chất con người-tổng hoà các mối quan hệ xã hội 8
3. Về chiến lược con người ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá 14
PHẦN KẾT LUẬN 20
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
1. Tính hiện thực của bản chất con người
Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của triết học các thời đại trước, C Mác đã khắc phục sự nghiên cứu con người một cách trìu tượng bằng việc xác lập quan điểm khoa học, xem xét con người hiện thực trong lịch sử phát triển của nó. Ông đã chỉ ra rằng, con người không phảI do một đấng siêu nhiên hay thần thánh, thượng đế tạo ra như sự bịa đặt của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, mà là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát triển lâu dài của vật chất. Nếu như tất cả các nhà triết học trước Mác xem xét bản chất con người trong từng cá nhân riêng lẻ mà không thấy các mối quan hệ xã hội hiện thực của nó, thì với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng. C Mác đã nêu ra một luận điểm rất nổi tiếng: “bản chất con người không phảI là một cáI trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”
Với luận điểm này, có thể nói điều đầu tiên mà C Mác muôn nêu bật lên đó là: bản chất con người không phải là cái gì đó có sẵn, hay cái gì nhất thành bất biến, mà là cái được hình thành nên, được bộc lộ ra trong cuộc sống hiện thực của nó; nghĩa là phải xem xét bản chất con người trong tính hiện thực của nó.
Hiện thực theo từ điển triết học: là đang thực tế tồn tại và phát triển chứa đựng bản chất của chính nó và quy luật trong bản thân nó, và cũng bao hàm những kết quả của sự hoạt động và phát triển của chính nó. Thực tại khách quan với tất cả tính cụ thể của nó chính là hiện thực đó. Với ý nghĩa đó hiện thực không những khác với tất cả cái bề ngoài, cái tưởng tượng mà còn khác với tất cả chỉ là cái logic (cái tư duy), còn khác với tất cả chỉ là cái khả năng cái có thể có nhưng chưa tồn tại.
Như vậy C Mác đã đặt bản chất con người trong tính hiện thực, điều đó có nghĩa con người là hiện thực, không phải là cái gì trìu tượng mà là cụ thể-cảm tính. Con người được hiện ra dưới dạng hoạt động thực tiễn, phong phú đa dạng. Đó là một con người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định với các điều kiện tự nhiên, sinh quyển... và những mối quan hệ phức tạp, ngày càng phong phú cùng với sự phát triển của văn minh. Con người cụ thể hiện thực đối tượng đầu tiên mà C Mác nghiên cứu là những người Vô sản.
Khi giai cấp Vô sản tay cầm cờ đỏ bước lên vũ đài chính trị, thì ngay trong những tác phẩm đầu tay, Mác đã thấy: “từ bộ mặt thô rám đi vi lao động của họ toả đến chúng ta sự cao quý của con người”. Đây không những là tình cảm ban đầu của C Mác đối với giai cấp Vô sản mà còn là cách nhìn mới mẻ nhất trong lịch sử về những người lao động xưa nay vẫn bị coi là dưới mức phát triển của con người.
Chúng ta phải thấy rằng sở dĩ, khi bàn đến con người C Mác đã đặt trong tính hiện thực bởi vì: trong triết học cổ điển Đức, con người được xem xét một cách sai lệch. Hêghen đã quan niệm duy tâm về con người, cho con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới”, còn Phoi ơ Bắc lại tách con người ra khỏi đời sống, quy tính sinh vật vào bản tính con người. Để chống lại các quan điểm sai lầm đó, C Mác đã xem xét con người trong tính hiện thực của nó. Mặt khác, trong triết học C Mác, vấn đề thực tiễn là điểm xuất phát có tính chất nền tảng. Trong “luận cương về Phoi ơ Bắc” C Mác đã nhấn mạnh đến vai trò của thực tiễn: “các nhà triết học trước kia chỉ nhận thức thế giới bằng nhiều cách khác nhau xong vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”.
Hoạt động thực tiễn của con người rất phong phú, đa dạng, xong hoạt động cơ bản nhất đó là hoạt động sản xuất vật chất. Con người thông qua hoạt động lao động mà quan hệ với tự nhiên. Chính trong hoạt động sản xuất ra đời sống của mình, con người có những quan hệ năng động, tích cực hai chiều và nhiều chiều với tự nhiên, với đồng loại. Qua sự tác động của con người với tự nhiên, con người làm biến đổi tự nhiên, đồng thời làm biến đối chính bản thân mình. Trong “Tư bản”, C Mác viết: “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Bản thân con người đối diện với thực tiễn tự nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên. Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về bản thân của họ: “tay và chân, đầu và hai bàn tay. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó làm thay đổi tự nhiên con người đồng thời làm thay đổi bản tính của chính họ”.
Bằng lao động, con người đã tạo ra những tư liệu để thoả mãn nhu cầu của mình. Bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra bên ngoài là các nhu cầu tất yếu khách quan như: ăn, ở, mặc... Hoạt động để thoả mãn nhu cầu sinh học của con người khác với con vật. ở con người, hoạt động này không phải là hoạt động bản năng, hoạt động đơn thuần sinh vật mà nó đã mang tính xã hội. Trong “bản thảo kinh tế-triết học 1844” C Mác khẳng định: “con người có một hoạt động sinh sống có ý thức. Đó không phải là cái có tính quy định mà với nó con người trực tiếp hoà làm một. Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống của con vật”.
Hoạt động có ý thức, có mục đích của con người là đặc trưng để phân biệt giữa con người và con vật “bản thân con người bắt đầu phân biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu của mình-sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình như thế là con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất của mình và đó chính là hành vi lịch sử đầu tiên”. Chính vì thế, sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là hoạt động bản chất nhất của con người. C Mác khẳng định nét đặc trưng riêng của quá trình lao động của con người là sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động, vì thế C Mác đã nhất trí với Phranclin khi ông định nghĩa con người là “động vật chế tạo công cụ”.
Như vậy, hoạt động lao động đã làm biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên con người, tạo lập ra bản chất xã hội của con người. Hoạt động xã hội của con người chủ yếu là hoạt động lao động sản xuất, hoạt động cách mạng cải tạo thế giới đã làm biến đổi mặt sinh học của con người một cách đáng kể và làm cho mặt sinh vật trở thành “người hoá”. Chính toàn bộ sự hoạt động ấy đã làm cho những nhu cầu sinh vật ở con người trở thành những nhu cầu xã hội. Nếu con vật chỉ thuần tuý là sản phẩm của tự nhiên, hoàn toàn chịu sự chi phối và thống trị của tự nhiên thì con người với tư cách là một sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, lại luôn tìm cách chế ngự chinh phục và làm chủ tự nhiên để thoả mãn những nhu cầu của bản thân mình. Nếu con vật chỉ biết thích nghi với môi trường tự nhiên vây quanh nó một cách hoàn toàn thụ động bằng cách biến đổi cơ thể cho phụ hợp với những điều kiện của môi trường thì con người bằng hoạt động của mình lại luôn tìm cách sử dụng và biến đổi môi trường xung quanh để tồn tại và phát triển. Lao động sáng tạo nên con người và nhờ tham gia lao động xã hội con người xẽ hoàn thiện các bản chất đặc thù của mình. Chính vì thế Ăngghen viết: “trên một nghĩa nhất định nào đó, chúng ta phải nói rằng: lao động sáng tạo ra bản thân con người”. Nhờ lao động loài người đã trải qua những biến đổi về mặt sinh học, đồng thời xét đến cùng lao động đã hình thành nên bản chất con người và quy định phẩm chất xã hội đặc biệt của con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nhờ lao động có mục đích nên con người đã thoát khỏi ra tình trạng loài vật, xong không có nghĩa là con người thoát ra khỏi hoàn toàn tự nhiên. Ăngghen đã nói rất đúng rằng: “chúng ta, với cả xương, thịt, máu bộ não của chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên và chúng ta nằm trong giới tự nhiên. Hơn thế nữa, cũng giống như bất kỳ sinh vật nào, con người phảI thích ứng với tự nhiên, xong con người thích ứng với tự nhiên bằng cách bắt tự nhiên đáp ứng nhu cầu của mình. Sự thích ứng ấy có tính chất môI giới và thực hiện thông qua lao động. Nhờ lao động có mục đích mà con người tác động và giới tự nhiên và sáng tạo ra thế giới vật chất riêng của mình. Khi thoả mãn nhu cầu, trong điều kiện thay đổi môI trường tự nhiên, con người đã thể hiện bản chất loài của mình và tự biến mình thành một thực thể xã hội.
Hoạt động thực tiễn của con người không chỉ tạo nên mối quan hệ giữa con người với xã hội mà nó còn làm cho con người thực sự trở thành người, làm cho mối quan hệ giữa con người với tự nhiên chuyển sang hình thức mối quan hệ giữa con người với con người. Theo Mác, trong xã hội thống nhất biện chứng giữa con người với tự nhiên là xã hội. vì bản chất tự nhiên của con người chỉ tồn tại với con người xã hội. Chỉ có trong đời sống xã hội, tự nhiên đối với con người mới là khâu liên hệ con người với con người, mới là nhân tố sinh hoạt của con người. Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với con người. Tự nhiên có trước con người, còn xã hội ra đời cùng với con người. Song tự nhiên và xã hội luôn có mối quan hệ với nhau. Tính tự nhiên của con người không tồn tại bên cạnh tính xã hội của con người mà chúng hoà quyện vào nhau, tồn tại trong yếu tố xã hội. Như vậy con người hiện thực của Mác là con người với tư cách là tổng thể tồn tại bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Con người hiện thực được hiện ra với các hoạt động thực tiễn và cũng chính thông qua các hoạt động thực tiễn bản chất của con người được hình thành và tính tự nhiên của con người đã mang tính xã hội, được chuyển vào hoà nhập trong xã hội. Như vậy, tính hiện thực của con người cũng chính là sự tồn tại của con người trong hiện thực khách quan, trong thực tiễn của nó. Tính hiện thực của con người trước hết được thể hiện ở chỗ con người tồn tại thực, hiển nhiên, cảm tính, trong mối quan hệ với tự nhiên với xã hội, trong một hoàn cảnh nhất định, một thời đại nhất định, chứ không phải là sự tồn tại trìu tượng. Điều này đã được Mác khẳng định trong “hệ tư tưởng Đức” rằng: “chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương, bằng thịt. Không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ”.
Trong “luận cương về Pho Ơ Bắc” Mác đã lý giải con người hiện thực bằng cách đưa ra định nghĩa con người hiện thực: “bản chất của con người không phải là cái trìu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tính tổng hoà các quan hệ xã hội”. Định nghĩa trên về bản chất con người chứa đựng một tư tưởng hết sức sâu sắc, nhưng lại được trình bày một cách cô đọng, vắn tắt nên nó thường bị giải thích một cách phiến diện. Định nghĩa trên thường bị các sách báo Tư sản và những người chống lại Mác xuyên tạc một số giảI thích Mác hiểu con người là tổng hoà những mối quan hệ sản xuất. Một số khác khẳng định rằng: dường như trong luận cương của Mác không thể hiện được cơ sở tích cực, cơ sở hoạt động trong con người. Thực ra luận điểm trên của Mác cần hiểu rằng, Mác đã vạch ra yếu tố cấu thành con người là các quan hệ xã hội hơn nữa nó lại là bản chất xã hội đặt trong tính hiện thực trực tiếp của nó. Cái quyết định bản chất của con người là cái xã hội cái bản chất ấy được hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn, trước hết là thực tiễn lao động sản xuất của cải vật chất. Đó là hành vi lịch sử đầu tiên làm cho con người mang bản chất khác với loài vật.
chế thị truờng đang có nguy cơ làm giảm đi những giá trị văn hoá tinh thần trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Đó là biểu hiện của lối sống thực dụng chỉ coi trọng những giá trị vật chất, coi trọng đồng tiền hơn nhân phẩm và những giá trị truyền thống. Chính từ những nguyên nhân đó mà nền giáo dục ở nước ta đang đứng trứơc thử thách rất lớn, là một trong những mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Vì vậy Đảng ta càng cần có những biện pháp, chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo con người Việt Nam phù hợp với su thế mới của thời đại.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là điều kiện cần thiết để phát huy nhân tố con người. Đảng ta rất chú ý và ngày càng đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thuật và chăm lo đào tạo đội ngũ giáo viên, có chính sách thoả đáng với người thầy giáo. Chúng ta phải nhận thức được rằng: “Phải đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội”. Vì thế hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương (khoá VII) đã đề ra rất nhiều chủ chương, chính sách và các biện pháp lớn: sắp xếp lại hệ thống các trường nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư sử dụng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. phấn đầu đến năm 2000 thanh toán nạn mù chữ cho những lao động ở độ tuổi từ 15 đến 35 thu hẹp diện người mù chữ ở độ tuổi khác. Hình thành bậc trung học mới nhằm chuẩn bị cho một bộ phận học sinh tiếp tục học lên và đa số tốt nghiệp có thể vào đời. Mở rộng giáo dục nghề nghiệp. Mở rộng quy mô đào tạo đại học. Xác định mục tiêu phải thiết kế lại chương trình kế hoạch nội dung phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng cấp, bậc học, nghành học. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ. Tăng cường sự lãnh đạo các cấp uỷ đảng đối với sự nghiệp giáo dục. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục. Đổi mới quản lí giáo dục và đào tạo…
Ngày nay ở nước ta, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đang phát triển mạnh mẽ, nhân tố con người lại càng có vai trò quan trọng, để phát triển con người càng phải nhấn mạnh giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “ Tăng cường đầu tư và phát triển con người thông qua phát triển mạn giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đảm bảo nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng đáp ứng ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với giáo dục và đào tạo, tăng cương tiềm lực và đóng góp của khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế – xã hội, tiếp tục tăng đầu tư thích đáng từ ngân sách nhà nước, đòng thời phát huy mọi nguồn lực cho nghiên cứu những lĩnh vực khoa học và công nghệ mới. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ, ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghhiệp nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục ở nước ta chiếm khoảng 15% tổng ngân sách nhà nước, điều đó chứng tỏ rằng Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục- đào tạo với mục đích vì sự phát triển của xã hội, vì con người
MỤC LỤC
1. Tính hiện thực của bản chất con người 1
2. Bản chất con người-tổng hoà các mối quan hệ xã hội 8
3. Về chiến lược con người ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá 14
PHẦN KẾT LUẬN 20
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: