lynne_lov_pik
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Chương i
Tổng quan về Hiệu qủa sản xuất kinh doanh
I. Khái niệm, bản chất, phân loại hiệu qủa sản xuất kinh doanh
1. Khái niệm về hiệu qủa sản xuất kinh doanh
Đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, với các cơ chế quản lý khác nhau thì có các nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động khác nhau. Ngay cả trong mỗi giai đoạn phát triển của mình, doanh nghiệp cũng có các mục tiêu khác nhau. Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, mọi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển thích ứng với các biến động của thị trường, phải xây dựng các kế hoạch và phương án kinh doanh, phải kế hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời phải tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả.
Trong qúa trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động kể trên, các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không thực hiện việc tính toán hiệu quả kinh tế của nó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) là gì? Để hiểu được phạm trù này, trước tiên chúng ta tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung là gì. Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế:
- Theo P. Samerelson và W. Nordhaus thì: "hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá mà không cắt giảm một loạt sản lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó"((1) P. Samueleson và W. Nordhaus: Giáo trình kinh tế học, trích từ bản dịch Tiếng Việt (1991)1).
Đây là quan điểm phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô, nó đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả cao. Có thể nói, mức hiệu quả ở đây mà tác giả đưa ra về mặt lý thuyết là cao nhất, là lý tưởng và không thể có mức hiệu quả nào cao hơn nữa.
- Có một số tác giả lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào qúa trình kinh tế.
- Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred Kuhn, theo ông: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh" ((2) (2)(3) (4) (5) Trích dẫn theo giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trang 407, 4082). Đây là quan điểm được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các qúa trình kinh tế.
- Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị.
Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau: "Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg...) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu...) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật"(3), còn "Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chỉ ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về mặt giá trị"(
4) và "Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền" (5).
Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của hoạt động quản trị chi phí.
- Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý và sử dụng phổ biến đó là: hiệu quả kinh tế của một số hiện tượng (hay một qúa trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung trong đó hàm chứa cả hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ các quan điểm về hiệu quả kinh tế đã nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) của các doanh nghiệp như sau: hiệu qủa sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, tiền vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
2. Phân loại hiệu qủa sản xuất kinh doanh
Tùy theo phạm vi nghiên cứu, kết quả đạt được (có hay không thể lượng hoá) và chi phí bỏ ra mà có các phạm trù hiệu quả khác nhau. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hiệu quả trực tiếp của các doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh hay nói khác đi là hiệu quả sản xuất kinh doanh, còn hiệu quả của các ngành hay hiệu quả của nền kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xã hội. Từ đó, ta có thể phân hiệu quả thành hai loại:
2.1. Hiệu qủa kinh tế của doanh nghiệp
Khi nói tới doanh nghiệp, người ta thường quan tâm nhất, đó là hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp bởi lẽ, các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều với động cơ kinh tế để kiếm lợi nhuận. Do đó, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp lại được chia thành hai loại cơ bản là hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế từng yếu tố.
2.1.1. Hiệu qủa kinh tế tổng hợp
Hiệu quả kinh tế tổng hợp là phạm trù kinh tế biểu hiện tổng thể của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác và lợi dụng các nguồn lực trong qúa trình sản xuất và tái sản xuất nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, hiệu quả kinh tế tổng hợp là thước đo hết sức quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cho việc đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
2.1.2. Hiệu qủa kinh tế của từng yếu tố
Hiệu quả kinh tế của từng yếu tố là phạm trù kinh tế thể hiện trình độ, khả năng khai thác và sử dụng các yếu tố (các nguồn lực) trong qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: hiệu qủa sử dụng vốn, hiệu qủa sử dụng lao động, hiệu quả sử dụng qũy tiền lương, hiệu quả sử dụng tài sản cố định, hiệu qủa sử dụng máy móc và trang thiết bị,... nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Có thể nói, hiệu qủa kinh tế của từng yếu tố của doanh nghiệp là thước đo quan trọng của sự tăng trưởng (tính hiệu qủa) của từng yếu tố và cùng với hiệu qủa kinh tế tổng hợp làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp.
3.2. Hiệu qủa kinh tế - xã hội
Hiệu quả kinh tế - xã hội là phạm trù kinh tế phản ánh hiệu qủa của các hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội và nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế - xã hội được thể hiện qua các mặt như: tăng thu ngân sách cho Nhà nước, nâng cao trình độ dân trí, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội,...
Tóm lại, trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung và trong phạm vi doanh nghiệp nói riêng, phạm trù hiệu quả kinh tế hay hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được biểu hiện ở nhiều loại khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế hay hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả, phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác định những biện pháp nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù rộng, vì vậy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và có rất nhiều cách để phân loại nhân tố đó. Thông thường, người ta chia các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh làm hai nhóm chính sau:
1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp (nhân tố chủ quan)
2. 1.1. Nhân tố lao động
Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mỗi một doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất. Song, chỉ trang bị máy móc thiết bị thôi thì chưa đủ mà một vấn đề quan trọng nữa là vai trò của người lao động. Bởi lẽ, máy móc thiết bị dù có tối tân hiện đại đến đâu cũng đều do con người chế tạo ra, máy móc thiết bị dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng của người lao động thì mới phát huy được tác dụng, tránh lãng phí, hỏng hóc.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan thiết bị hiện đại của nước ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng suất cao lại vừa tốn tiền bảo dưỡng, sửa chữa vì hỏng hóc do không biết sử dụng, hay sử dụng không hết công suất, gây thiệt hại lớn cho hoạt động sản suất kinh doanh, kết quả là hiệu quả sản xuất kinh doanh rất thấp.
Do vậy, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lực lượng lao động có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tác động theo các hướng:
- Nếu trình độ lao động là tương xứng với sự phát triển của các yếu tố vật chất thì sẽ góp phần vận hành có hiệu quả các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nếu cơ cấu lao động phù hợp sẽ góp phần sử dụng có hiệu quả chính bản thân yếu tố lao động đồng thời góp phần tạo lập và điều chỉnh mối quan hệ tỷ lệ hợp lý giữa các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- ý thức, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động,... là các yếu tố cơ bản, quan trọng để phát huy nguồn lực lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực lượng rất tinh nhuệ, có trình độ kỹ thuật cao. Điều này khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Cơ sở vật chất và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
- Khoa học kỹ thuật và công nghệ sẽ tác động tới việc tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp sử dụng hợp lý, tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, kỹ thuật và khoa học công nghệ cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Cơ sở vật chất là nhân tố rất quan trọng trong việc tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm (tức là tăng hiệu qủa sản xuất kinh doanh). Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị tác động mạnh mẽ bởi cơ sở vật chất, trình độ hiện đại, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ.
Thực tiễn nước ta hiện nay cho thấy, nhiều doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu kém, máy móc, thiết bị sản xuất vừa lạc hậu, cũ kĩ vừa không đồng bộ, đồng thời việc quản lý và sử dụng tiết kiệm và hiệu qủa cơ sở vật chất kỹ thuật đó cũng không được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không phát huy được năng lực hiện có của mình, chưa nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Ngày nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn và hiện đại hơn do đó nó có vai trò ngày càng lớn và mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Bởi vậy, các doanh nghiệp phải tìm giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thuật hiện đại... để làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Trong thời đại bùng nổ về khoa học công nghệ thông tin như hiện nay, thông tin và hệ thống xử lý thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị tường. Thông tin được coi là hàng hoá, là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh. Mỗi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được thành công thì cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, về công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ cạnh tranh, về giá cả đồng thời doanh nghiệp cũng cần biết về sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, về sự thay đổi chủ trương, chính sách của Nhà nước và của nước ngoài để có các chiến lược kinh doanh trong tương lai.
Những thông tin kịp thời, chính xác sẽ giúp doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh và hoạch định các chương trình sản xuất kinh doanh trong ngắn hạn đồng thời xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Từ đó, doanh nghiệp xác định phương án sản xuất tối ưu nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn.
1.4. Nhân tố quản lý và điều hành sản xuất
Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, nhân tố quản lý và điều hành sản xuất có vai trò vô cùng quan trọng: Quản lý doanh nghiệp có vai trò xác định cho doanh nghiệp có một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh, xác định chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Chất lượng của chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp, đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh.
Mỗi một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chiến thắng trong cạnh tranh, với các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng. Để đảm bảo cho doanh nghiệp giành chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng quản lý và điều hành sản xuất của các nhà quản trị doanh nghiệp. Như vậy, quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh thể hiện sự kết hợp giữa ứng dụng kiến thức khoa học vào quy trình sản xuất và nghệ thuật kinh doanh của các nhà quản trị doanh nghiệp, nó có tác động rất lớn đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh và có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì, phát triển của doanh nghiệp.
1.5. Nhân tố hạch toán kinh tế
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác định bởi tương quan giữa hai đại lượng kết quả thu được (doanh thu)và chi phí bỏ ra. Cả hai đại lượng nay đều phức tạp và khó đánh giá chính xác. Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh càng ngày người ta càng tìm ra phương pháp đánh giá đảm bảo dần dần tiếp cận với tính “thật” của hai đại lượng này. Trong hai đại lượng đó nếu xét trên phương diện giá trị và coi lợi nhuận là hiệu qủa (tuyệt đối), chi phí là cái bỏ ra thì:
4. Vận dụng mối quan hệ Chi phí - Chất lượng -Thời gian
Mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian là mối quan hệ khá phức tạp mà Công ty cần hiểu rõ và vận dụng nó một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng, giảm thiểu chi phí và đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình xây dựng.
- Chi phí được hiểu là toàn bộ chi phí đầu tư ban đầu cho việc xây dựng công trình và chi phí khai thác vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa công trình trong giai đoạn sử dụng.
- Chất lượng hay giá trị sử dụng được thể hiện bằng các chỉ tiêu như: các chỉ tiêu về công năng, độ bền chắc, trình độ kỹ thuật, mức tiện nghi, tuổi thọ, độ an toàn, mỹ quan, bảo về môi trường,... Vậy chất lượng sản phẩm theo quan điểm này là tổng hợp các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật thoả mãn nhu cầu và phù hợp với công dụng sản phẩm của người tiêu dùng.
- Thời gian xây dựng công trình là tổng toàn bộ thời gian xây dựng để hoàn thành một công trình tính từ giai đoạn chuẩn bị: mua nguyên vật liệu, huy động máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình thi công...đến khi hoàn thiện công trình đưa vào bàn giao.
Vậy, vấn đề đặt ra là: làm sao nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ thi công ứng với chi phí và thời gian bỏ ra.
III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước
Hiện nay, các doanh nghiệp đang hoạt động trong cơ chế thị trường, dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quản lý vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, để thực hiện tốt những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và Công ty Xây dưng số 8 nói riêng thì Nhà nước cần có các chủ trương chính sách sau:
+ Nhà nước cần hỗ trợ can thiệp để Công ty thu hồi nhanh các khoản thu quá hạn vì thực tế các khoản thu quá hạn của Công ty là 11.650 triệu đồng, đây là con số lớn gây nên tình trạng ứ đọng vốn, chi phí vốn của Công ty cao ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng gây thất thu cho Nhà nước.
+ Nhà nước nên có một hệ thống văn bản dưới luật đầy đủ, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong công tác đầu thầu cũng như trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần tăng cường quản lý chặt chẽ đối với lĩnh vực xây dựng, tránh những hiện tượng tiêu cực lợi dụng kẽ hở luật pháp để làm ăn phi pháp ảnh hưởng đến hiệu qủa của ngành xây dựng cũng như môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Xây dựng.
+ Nhà nước cần có các chính sách và biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước để các doanh nghiệp này thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân:
* Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích sản xuất để có thể cạnh tranh được với hàng nhập ngoại, tránh tình trạng như những năm qua các doanh nghiệp nước ta thường nhập về những loại máy móc cũ kỹ, lạc hậu, không giúp được nhiều cho các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài.
* Thực hiện các dịch vụ thanh toán nợ của các doanh nghiệp.
* Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích khả năng tự chủ, năng động của các doanh nghiệp trong công tác huy động và sử dụng vốn.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Chương i
Tổng quan về Hiệu qủa sản xuất kinh doanh
I. Khái niệm, bản chất, phân loại hiệu qủa sản xuất kinh doanh
1. Khái niệm về hiệu qủa sản xuất kinh doanh
Đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, với các cơ chế quản lý khác nhau thì có các nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động khác nhau. Ngay cả trong mỗi giai đoạn phát triển của mình, doanh nghiệp cũng có các mục tiêu khác nhau. Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, mọi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển thích ứng với các biến động của thị trường, phải xây dựng các kế hoạch và phương án kinh doanh, phải kế hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời phải tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả.
Trong qúa trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động kể trên, các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không thực hiện việc tính toán hiệu quả kinh tế của nó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) là gì? Để hiểu được phạm trù này, trước tiên chúng ta tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung là gì. Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế:
- Theo P. Samerelson và W. Nordhaus thì: "hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá mà không cắt giảm một loạt sản lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó"((1) P. Samueleson và W. Nordhaus: Giáo trình kinh tế học, trích từ bản dịch Tiếng Việt (1991)1).
Đây là quan điểm phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô, nó đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả cao. Có thể nói, mức hiệu quả ở đây mà tác giả đưa ra về mặt lý thuyết là cao nhất, là lý tưởng và không thể có mức hiệu quả nào cao hơn nữa.
- Có một số tác giả lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào qúa trình kinh tế.
- Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred Kuhn, theo ông: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh" ((2) (2)(3) (4) (5) Trích dẫn theo giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trang 407, 4082). Đây là quan điểm được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các qúa trình kinh tế.
- Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị.
Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau: "Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg...) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu...) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật"(3), còn "Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chỉ ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về mặt giá trị"(
4) và "Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền" (5).
Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của hoạt động quản trị chi phí.
- Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý và sử dụng phổ biến đó là: hiệu quả kinh tế của một số hiện tượng (hay một qúa trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung trong đó hàm chứa cả hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ các quan điểm về hiệu quả kinh tế đã nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) của các doanh nghiệp như sau: hiệu qủa sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, tiền vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
2. Phân loại hiệu qủa sản xuất kinh doanh
Tùy theo phạm vi nghiên cứu, kết quả đạt được (có hay không thể lượng hoá) và chi phí bỏ ra mà có các phạm trù hiệu quả khác nhau. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hiệu quả trực tiếp của các doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh hay nói khác đi là hiệu quả sản xuất kinh doanh, còn hiệu quả của các ngành hay hiệu quả của nền kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xã hội. Từ đó, ta có thể phân hiệu quả thành hai loại:
2.1. Hiệu qủa kinh tế của doanh nghiệp
Khi nói tới doanh nghiệp, người ta thường quan tâm nhất, đó là hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp bởi lẽ, các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều với động cơ kinh tế để kiếm lợi nhuận. Do đó, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp lại được chia thành hai loại cơ bản là hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế từng yếu tố.
2.1.1. Hiệu qủa kinh tế tổng hợp
Hiệu quả kinh tế tổng hợp là phạm trù kinh tế biểu hiện tổng thể của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác và lợi dụng các nguồn lực trong qúa trình sản xuất và tái sản xuất nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, hiệu quả kinh tế tổng hợp là thước đo hết sức quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cho việc đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
2.1.2. Hiệu qủa kinh tế của từng yếu tố
Hiệu quả kinh tế của từng yếu tố là phạm trù kinh tế thể hiện trình độ, khả năng khai thác và sử dụng các yếu tố (các nguồn lực) trong qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: hiệu qủa sử dụng vốn, hiệu qủa sử dụng lao động, hiệu quả sử dụng qũy tiền lương, hiệu quả sử dụng tài sản cố định, hiệu qủa sử dụng máy móc và trang thiết bị,... nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Có thể nói, hiệu qủa kinh tế của từng yếu tố của doanh nghiệp là thước đo quan trọng của sự tăng trưởng (tính hiệu qủa) của từng yếu tố và cùng với hiệu qủa kinh tế tổng hợp làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp.
3.2. Hiệu qủa kinh tế - xã hội
Hiệu quả kinh tế - xã hội là phạm trù kinh tế phản ánh hiệu qủa của các hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội và nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế - xã hội được thể hiện qua các mặt như: tăng thu ngân sách cho Nhà nước, nâng cao trình độ dân trí, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội,...
Tóm lại, trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung và trong phạm vi doanh nghiệp nói riêng, phạm trù hiệu quả kinh tế hay hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được biểu hiện ở nhiều loại khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế hay hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả, phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác định những biện pháp nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù rộng, vì vậy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và có rất nhiều cách để phân loại nhân tố đó. Thông thường, người ta chia các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh làm hai nhóm chính sau:
1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp (nhân tố chủ quan)
2. 1.1. Nhân tố lao động
Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mỗi một doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất. Song, chỉ trang bị máy móc thiết bị thôi thì chưa đủ mà một vấn đề quan trọng nữa là vai trò của người lao động. Bởi lẽ, máy móc thiết bị dù có tối tân hiện đại đến đâu cũng đều do con người chế tạo ra, máy móc thiết bị dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng của người lao động thì mới phát huy được tác dụng, tránh lãng phí, hỏng hóc.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan thiết bị hiện đại của nước ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng suất cao lại vừa tốn tiền bảo dưỡng, sửa chữa vì hỏng hóc do không biết sử dụng, hay sử dụng không hết công suất, gây thiệt hại lớn cho hoạt động sản suất kinh doanh, kết quả là hiệu quả sản xuất kinh doanh rất thấp.
Do vậy, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lực lượng lao động có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tác động theo các hướng:
- Nếu trình độ lao động là tương xứng với sự phát triển của các yếu tố vật chất thì sẽ góp phần vận hành có hiệu quả các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nếu cơ cấu lao động phù hợp sẽ góp phần sử dụng có hiệu quả chính bản thân yếu tố lao động đồng thời góp phần tạo lập và điều chỉnh mối quan hệ tỷ lệ hợp lý giữa các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- ý thức, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động,... là các yếu tố cơ bản, quan trọng để phát huy nguồn lực lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực lượng rất tinh nhuệ, có trình độ kỹ thuật cao. Điều này khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Cơ sở vật chất và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
- Khoa học kỹ thuật và công nghệ sẽ tác động tới việc tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp sử dụng hợp lý, tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, kỹ thuật và khoa học công nghệ cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Cơ sở vật chất là nhân tố rất quan trọng trong việc tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm (tức là tăng hiệu qủa sản xuất kinh doanh). Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị tác động mạnh mẽ bởi cơ sở vật chất, trình độ hiện đại, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ.
Thực tiễn nước ta hiện nay cho thấy, nhiều doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu kém, máy móc, thiết bị sản xuất vừa lạc hậu, cũ kĩ vừa không đồng bộ, đồng thời việc quản lý và sử dụng tiết kiệm và hiệu qủa cơ sở vật chất kỹ thuật đó cũng không được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không phát huy được năng lực hiện có của mình, chưa nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Ngày nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn và hiện đại hơn do đó nó có vai trò ngày càng lớn và mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Bởi vậy, các doanh nghiệp phải tìm giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thuật hiện đại... để làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Trong thời đại bùng nổ về khoa học công nghệ thông tin như hiện nay, thông tin và hệ thống xử lý thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị tường. Thông tin được coi là hàng hoá, là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh. Mỗi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được thành công thì cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, về công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ cạnh tranh, về giá cả đồng thời doanh nghiệp cũng cần biết về sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, về sự thay đổi chủ trương, chính sách của Nhà nước và của nước ngoài để có các chiến lược kinh doanh trong tương lai.
Những thông tin kịp thời, chính xác sẽ giúp doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh và hoạch định các chương trình sản xuất kinh doanh trong ngắn hạn đồng thời xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Từ đó, doanh nghiệp xác định phương án sản xuất tối ưu nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn.
1.4. Nhân tố quản lý và điều hành sản xuất
Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, nhân tố quản lý và điều hành sản xuất có vai trò vô cùng quan trọng: Quản lý doanh nghiệp có vai trò xác định cho doanh nghiệp có một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh, xác định chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Chất lượng của chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp, đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh.
Mỗi một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chiến thắng trong cạnh tranh, với các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng. Để đảm bảo cho doanh nghiệp giành chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng quản lý và điều hành sản xuất của các nhà quản trị doanh nghiệp. Như vậy, quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh thể hiện sự kết hợp giữa ứng dụng kiến thức khoa học vào quy trình sản xuất và nghệ thuật kinh doanh của các nhà quản trị doanh nghiệp, nó có tác động rất lớn đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh và có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì, phát triển của doanh nghiệp.
1.5. Nhân tố hạch toán kinh tế
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác định bởi tương quan giữa hai đại lượng kết quả thu được (doanh thu)và chi phí bỏ ra. Cả hai đại lượng nay đều phức tạp và khó đánh giá chính xác. Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh càng ngày người ta càng tìm ra phương pháp đánh giá đảm bảo dần dần tiếp cận với tính “thật” của hai đại lượng này. Trong hai đại lượng đó nếu xét trên phương diện giá trị và coi lợi nhuận là hiệu qủa (tuyệt đối), chi phí là cái bỏ ra thì:
4. Vận dụng mối quan hệ Chi phí - Chất lượng -Thời gian
Mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian là mối quan hệ khá phức tạp mà Công ty cần hiểu rõ và vận dụng nó một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng, giảm thiểu chi phí và đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình xây dựng.
- Chi phí được hiểu là toàn bộ chi phí đầu tư ban đầu cho việc xây dựng công trình và chi phí khai thác vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa công trình trong giai đoạn sử dụng.
- Chất lượng hay giá trị sử dụng được thể hiện bằng các chỉ tiêu như: các chỉ tiêu về công năng, độ bền chắc, trình độ kỹ thuật, mức tiện nghi, tuổi thọ, độ an toàn, mỹ quan, bảo về môi trường,... Vậy chất lượng sản phẩm theo quan điểm này là tổng hợp các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật thoả mãn nhu cầu và phù hợp với công dụng sản phẩm của người tiêu dùng.
- Thời gian xây dựng công trình là tổng toàn bộ thời gian xây dựng để hoàn thành một công trình tính từ giai đoạn chuẩn bị: mua nguyên vật liệu, huy động máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình thi công...đến khi hoàn thiện công trình đưa vào bàn giao.
Vậy, vấn đề đặt ra là: làm sao nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ thi công ứng với chi phí và thời gian bỏ ra.
III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước
Hiện nay, các doanh nghiệp đang hoạt động trong cơ chế thị trường, dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quản lý vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, để thực hiện tốt những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và Công ty Xây dưng số 8 nói riêng thì Nhà nước cần có các chủ trương chính sách sau:
+ Nhà nước cần hỗ trợ can thiệp để Công ty thu hồi nhanh các khoản thu quá hạn vì thực tế các khoản thu quá hạn của Công ty là 11.650 triệu đồng, đây là con số lớn gây nên tình trạng ứ đọng vốn, chi phí vốn của Công ty cao ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng gây thất thu cho Nhà nước.
+ Nhà nước nên có một hệ thống văn bản dưới luật đầy đủ, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong công tác đầu thầu cũng như trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần tăng cường quản lý chặt chẽ đối với lĩnh vực xây dựng, tránh những hiện tượng tiêu cực lợi dụng kẽ hở luật pháp để làm ăn phi pháp ảnh hưởng đến hiệu qủa của ngành xây dựng cũng như môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Xây dựng.
+ Nhà nước cần có các chính sách và biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước để các doanh nghiệp này thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân:
* Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích sản xuất để có thể cạnh tranh được với hàng nhập ngoại, tránh tình trạng như những năm qua các doanh nghiệp nước ta thường nhập về những loại máy móc cũ kỹ, lạc hậu, không giúp được nhiều cho các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài.
* Thực hiện các dịch vụ thanh toán nợ của các doanh nghiệp.
* Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích khả năng tự chủ, năng động của các doanh nghiệp trong công tác huy động và sử dụng vốn.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: