cobebandiem56

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Lời mở đầu
Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội loài người, biểu hiện những quan hệ mang tính tự nhiên. Cũng như những hiện tượng xã hội khác, hôn nhân gia đình chịu sự tác động có tính quyết định bởi các điều kiện kinh tế - xã hội. Lịch sử xã hội loài người đã chứng kiến quá trình phát sinh, thay đổi những hình thái hôn nhân và gia đình. Đó là quá trình vận động tất yếu trên cơ sở sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội. Từ khi trong xã hội có Nhà nước, sự liên kết của các cá nhân nhằm xây dựng gia đình được coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh những quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ đơn thuần thể hiện ý chí của Nhà nước. Nhà nước dùng pháp luật điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình. Quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ đơn thuần thể hiện ý chí của các cá nhân mà còn mang ý chí của Nhà nước dùng pháp luật điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình, hướng cho những quan hệ này phát sinh, thay đổi hay chấm dứt đều không bất lợi cho Nhà nước và cho xã hội. Trong những chế độ xã hội khác nhau có các chế độ hôn nhân và gia đình khác nhau.

Nội dung
I. Những lý luận cơ bản về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành và phát triển nguyên tắc của luật hôn nhân và gia đình
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về hôn nhân và gia đình – cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Chủ nghĩa Mác – Lênin nhìn nhận hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội có quá trình phát sinh, phát triển do các điều kiện kinh tế - xã hội quyết định. Mác và Ăng ghen đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng hình thức hôn nhân một vợ một chồng ra đời trên cơ sở sự xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và những tài sản khác có trong xã hội. Được củng cố bởi chính sách, pháp luật của giai cấp thống trị bóc lột, ngay từ khi mới ra đời, chế độ hôn nhân một vợ một chồng đó đã bộc lộ tính giả dối và tiêu cực đối với số đông những người dân lao động. Đồng hành với chế độ hôn nhân một vợ một chồng là nạn mại dâm công khai và tệ ngoại tình. Phản ánh về tình trạng này, Ăng ghen viết: “Ngày nay trong môi trường tư sản hôn nhân được tiến hành theo hai cách. Trong các nước theo đạo thiên chúa, thì vẫn như trước kia, tức là cha mẹ tìm cho đứa con trai tư sản của mình một người vợ xứng đang, và kết quả dĩ nhiên của việc đó là làm cho cái mâu thuẫn chứa đựng trong chế độ một vợ một chồng phát triển đầy đủ nhất…” . Chế độ một vợ một chồng ở thời kỳ này thể hiện công khai quyền gia trưởng của người chồng, người cha trong gia đình. Quá trình thực hiện quyền gia trưởng tuyệt đối đó đồng thời thừa nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái, sự coi hrẻ quyền lợi của con cái. Một điều cơ bản nữa là cơ sở của hôn nhân. Hôn nhân tư sản được xác lập trên cơ sở tiền tài, địa vị, sự tính toán thiệt hơn về kinh tế”. Trong hai trường hợp, hôn nhân đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên và vì vậy, hôn nhân luôn luôn là hôn nhân có tính toán. Từ những phân tích hạn chế cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình như vậy, Mác và Ăng ghen cũng đã chỉ ra một hình thức hôn nhân một vợ một chồng đích thực tiến bộ đã nảy sinh mà chúng ta cần thực hiện và củng cố. Ngay trong lòng của xã hội tư sản, hôn nhan của người vô sản đã nảysinh trên cơ sở tình yêu chân chính của nam – nữ và tồn tại vững chắc trên cơ sở đó. Vượt lên trên những ảnh hưởng kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, những người vô sản tự do kết hôn với nhau: “Trong giai cấp bị áp bức, những cuộc hôn nhân thật sự tự do đó lại là thông lệ”. “Vì do bản chất của nó, tình yêu nam nữ không thể chia sẻ được – cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu nam nữ, do ngay bản chất của nó, là hôn nhân một vợ một chồng. Do đó cần thấy rằng đây là hình thức hôn nhân tiến bộ nhất và cần tạo điều kiện để hôn nhân được thực hiện theo đúng bản chất của nó.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để. Trong cuộc cách mạng đó, chắc chắn là các cơ sở kinh tế trước đây của chế độ một vợ một chồng cũng như của cái bổ sung cho nó là tệ nạn ngoại tình, mại dâm đều bị tiêu diệt. Vây, chế độ một vợ một chồng còn tồn tại hay không khi những nguyên nhân kinh tế đã sinh ra nó không còn? Lúc này hôn nhân mới có điều kiện thể hiện đúng bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng đích thực, phát sinh và tồn tại trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, bình đẳng nhằm xây dựng gia đình để cùng nhu thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần và vật chất.
1.2. Quan điểm, đường lối của Đảng về hôn nhân và gia đình – nền tảng của nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Ở Việt nam, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong việc xây dựng những quan hệ xã hội theo xu hướng tiến bộ. Xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về hôn nhân và gia đình tiến bộ, những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa được hình thành trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và nó trở thành nền tảng của mọi chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ. Ở nước ta, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, nhiệm vụ, mục tiêu được đặt ra là phải xóa bỏ tận gốc rễ những tàn dư, hủ tục lạc hậu do chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến để lại, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của hôn nhân và gia đình tư sản, đồng thời xây dựng những quan hệ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Trong những giai đoạn khác nhau, Đảng và nhà nước có những chủ trương, chính sách về hôn nhân và gia đình phù hợp, nhằm tập trung thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nói trên. Pháp luật hôn nhân và gia đình là sự cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về hôn nhân và gia đình với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nhưng cũng phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Quan điểm của Đảng về việc xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa không phải là một mô hình chung chung, mà mang những nội dung cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam. Những quan điểm này là tư tưởng chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
2. Khái quát chung về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
2.1. Khát quát chung về gia đình một vợ một chồng
Gia đình là một thiết chế xã hội cơ sở, tồn tại rất bền vững và lâu đời. Trong từng giai đoạn lịch sử nhất định thì tổ chức và kết cấu gia đình do điều kiện kinh tế xã hội quyết định. Do tình hình xã hội ngày càng có những biến đổi quan trọng đặc biệt là về kinh tế, bắt đầu có sự phân công lao động xã hội, năng suất lao động ngày càng cao và xuất hiện của cải dư thừa, đầu tiên của cải đó thuộc về thị tộc và rồi chế độ tư hữu bắt đầu xuất hiện, dần dần gia đình đối ngẫu cũng chiếm lấy của cải dư thừa đó và địa vị của người chồng bắt đầu được thay đổi do họ là người chủ yếu làm ra tài sản. Người chồng đã lợi dụng địa vị quan trọng của mình để thay đổi trật tự kế thừa (theo phong tục cũ thì con cái theo huyết thống về đằng mẹ và được thừa kế theo đằng mẹ), điều này đánh một đòn rất mạnh vào chế độ thị tộc mẫu quyền và làm tan rã thị tộc “Thế là, dòng dõi tính theo đằng mẹ và quyền kế thừa mẹ bị xóa bỏ, dòng dõi tính theo đằng cha và quyền kế thừa cha được xác lập”
Trong giai đoạn này còn xuất hiện một hình thái gia đình trung gian là “ gia đình gia trưởng”: Hình thái gia đình đó đánh dấu bước chuyển từ chế độ hôn nhân cặp đôi sang chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Đề đảm bảo sự trung thành của người vợ, do đó, bảo đảm việc con cái đích thật do người cha đẻ ra, người vợ buộc phải phục tùng quyền lực tuyệt đối của người chồng; nếu người chồng có giết vợ chăng nữa thì cũng chỉ là thực hành quyền của mình mà thôi”.
Gia đình một vợ một chồng nảy sinh từ gia đình đối ngẫu “gia đình ấy dựa trên quyền thống trị của người chồng, nhằm chủ đích là làm cho con cái sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng không còn ai tranh cãi được và dòng dõi đó là cần thiết, vì những đứa con đó sau này sẽ có quyền thừa hưởng tài sản của cha với tư cách là người thừa kế trực tiếp”
Gia đình một vợ một chồng là một đơn vị kinh tế độc lập, tồn tại vững chắc, khác với gia đình đối ngẫu là quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn nhiều và người chồng có quyền hành hơn nhiều so với người vợ, thường chỉ có người chồng mới có quyền cắt đứt mội quan hệ đo, chế độ một vợ một chồng không hề cản trở sự công khai hay bí mật có nhiều vợ của người đàn ông, có nghĩa là chỉ một vợ một chồng về phía người vợ mà không phải về phía người chồng. Với bản chất như vậy cho nên đã làm cho chế độ một vợ một chồng hoàn toàn mâu thuẫn và giả tạo.
Chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên không dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế, tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy và tự phát. Sự thống trị của người chồng trong gia đình, sự sinh đẻ con cái và những đứa con này chỉ có thể là con của người chồng và được quyền thừa hưởng tài sản của người ấy – đấy mục đích đặc biệt của chế độ một vợ một chồng.
Tóm lại, chế độ một vợ một chồng đặc biệt quan tâm đến việc sinh đẻ con cái và thừa kế tài sản, đã xác định chính xác người cha, người mẹ đích thực cho đứa trẻ mặc dù hôn nhân của cha mẹ thường do kinh tế quyết định “Chế độ quyết không phải là kết quả của tình yêu cá nhân”. Chế độ một vợ một chồng ra đời cùng với sự ra đời của chế độ tư hữu và nhà nước. Trong xã hội có giai cấp thì quan hệ hôn nhân và gia đình bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị, giai cấp thống trị thông qua nhà nước, bằng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình phát triển phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
2.2. Bản chất của nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Hôn nhân gia đình là một hiện tượng xã hội, vì thế gắn với mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định có một chế độ gia đình khác nhau. Cùng với sự phát triển của xã hội, các hinh thái gia đình cũng phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái gia đình huyết tộc, gia đình Pu-na-lu-an, sang hôn nhân đối ngẫu và cuối cùng là hôn nhân một vợ một chồng. Trong đó, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được coi là hình thái gia đình tiến bộ. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn, hình thái hôn nhân một vợ một chồng tồn tại dưới nhiều biến thể khác nhau tùy thuộc vào bản chất của mỗi chế độ xã hội. Chế độ một vợ một chồng ban đầu xuất hiện trong xã hội tư hữu chủ yếu để bảo vệ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, của cải của người đàn ông trong gia đình. Đồng thời đảm bảo cho con cái do người vợ để ra phải là con của chính người chồng và theo họ cha chứ không theo họ mẹ, nhằm thừa kế tài sản của cha mà thực chất là duy trì chế độ tư hữu bóc lột. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khi mà chế độ mẫu quyền thay bằng chế độ phụ quyền, người mẹ không còn vai trò như trước thì một vợ một chồng chỉ đặt ra với người vợ chứ không đặt ra với người chồng, chế độ hôn nhân một vợ một chồng hoàn toàn mâu thuẫn và giả tạo.
Đến xã hội phong kiến, vị trí gia trưởng của người chồng trong gia đình ngày càng được củng cố một cách vững chắc. Hôn nhân một vợ một chồng không phải được liên kết dựa trên tình cảm mà dựa trên cơ sở tài sản, có tính toán đến lợi ích và mang tính hình thức. Một vợ một chồng có chăng chỉ về phía đàn bà, pháp luật vẫn cho phép người đàn ông được phép lấy nhiều vợ. Chính chế độ hôn nhân một vợ một chồng chỉ về phía người vợ đó không hề làm trở ngại chút nào đến chế độ nhiều vợ công khai hay bí mật của người đàn ông. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân trong thời kỳ phong kiến và gây nên nhiều đau khổ cho người phụ nữ.
Đến Nhà nước tư bản, lần đầu tiên nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng đã được thừa nhận trong các văn bản pháp luật. Chế độ đa thê đã bị bãi bỏ thay vào đó là hình thái hôn nhân một vợ một chồng ở cả hai phía, cả người vợ và người chồng, nhưng xét về bản chất “hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê”, trên thực tế “nguyên tắc đó đã bị phá vỡ do tệ nạn ngoại tình và mại dâm công khai”. Ngay trong xã hội tư bản, hôn nhân một vợ một chồng tồn tại cũng chưa thực sự đúng với bản chất của nó. Vậy, bản chất của hôn nhân một vợ một chồng là gì? Hôn nhân một vợ một chồng tức là một vợ một chồng phải cả từ hai phía, chứ không chỉ áp đặt cho riêng ở phía người đàn ông hay người phụ nữ. Hôn nhân được xuất phát từ tình yêu, thực sự có nguyện vọng chung sống, gắn bó lâu dài với nhau mà không bị chi phối bởi mục đích kinh tế hay nhằm bảo vệ quyền tư hữu về tài sản.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, “khi các tư liệu sản xuất biến thành tài sản xã hội, thì chế độ lao động làm thuê sẽ mất đi và tình trạng một số phụ nữ cần bán mình vì đồng tiền sẽ mất đi. Tệ nạn mại dâm sẽ mất đi và chế độ một vợ một chồng không những bị suy tàn mà cuối cùng còn trở thành hiện thực ngay cả với đàn ông nữa”. Vì thế, hôn nhân một vợ một chồng không hề mất đi mà trái lại nó thực sự tồn tại một cách đầy đủ nhất, “một vợ một chồng theo nghĩa giữ nguyên, chứ tuyệt nhiên không phải theo nghĩa lịch sử của danh từ”. Chế độ một vợ một chồng được ghi nhận trong pháp luật nước ta có bản chất khác với chế độ một vợ một chồng cổ điển, lúc mà nó vừa ra đời và tồn tại trong các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng. Nếu nguồn gốc của chế độ một vợ một chồng do điều kiện kinh tế và mục đích để duy trì chế độ tư hữu bóc lột thì dưới xã hội chủ nghĩa hôn nhân một vợ một chồng được tồn tại như bản chất vốn có của nó, tức là lấy tình yêu chân chính giữa nam và nữ làm cơ sở và mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận, bền vững. Trong gia đình, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng phải được tôn trọng, và chỉ khi quyền bình đẳng vợ chồng được thực hiện hoàn toàn mới đảm bảo chế độ hôn nhân một vợ một chồng mới được xác lập một cách vững chắc.
2.3. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở Việt Nam
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc hiến định và là một nguyên tắc cơ bản được cụ thể hóa trong Luật HN&GĐ. Nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân gia đình là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình nhằm mục đích xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc và bền vững.
Với quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa nam và nữ, xóa bỏ hoàn toàn chế độ đa thể, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng đã trở thành nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật HN&GĐ, từ luật HN&GĐ năm 1959, luật HN&GĐ năm 1986 đến luật HN&GĐ năm 2000. Tại khoản 1 – điều 2 luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” là nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình.
Về bản chất, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng có nghĩa trong thời kỳ hôn nhân chỉ tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp và là quan hệ hôn nhân duy nhất. Theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng thì chỉ những người chưa có vợ, chưa có chồng hay tuy đã kết hôn nhưng hôn nhân đó đã chấm dứt (vợ hay chồng họ đã chết hay vợ chồng đã ly hôn) thì mới có quyền kết hôn với người khác. Việc kết hôn của họ phải với những người đang không có vợ hay đang không có chồng, đó là những người thuộc trường hợp nêu tại Mục 1 điểm c.1 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng không chỉ là một điều kiện kết hôn cần được tuân thủ, mà còn nhằm điều chỉnh cả hành vi chung sống như vợ chồng. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ không có đăng ký kết hôn nhưng về sống chung với nhau; có thể tổ chức lễ cưới hay không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán; gia đình có thể chấp nhận hay không chấp nhận. Việc chung sống như vợ chồng là thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng và có tài sản chung. Sẽ không phải là chung sống như vợ chồng nếu nam và nữ lén lút quan hệ với nhau, mà không chung sống công khai. Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ có thể xảy ra hai trường hợp: chung sống trái pháp luật và chung sống không trái pháp luật. Theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, trường hợp người đang có vợ, có chồng mà chung sống với người khác hay ngược lại người đang không có vợ, có chồng mà chung sống với người đang có vợ, đang có chồng là chung sống trái pháp luật. Pháp luật chỉ cho phép nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi cả hai bên không có vợ, không có chồng. Như vậy, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng mang tính bắt buộc đối với cả hai chiều chủ thể tham gia quan hệ. Nguyên tắc này không chỉ đặt ra đối với người đang có vợ, có chồng mà còn là yêu cầu đối với cả người chưa có vợ, chưa có chồng cũng phải tuân thủ. Có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được thực hiện một cách nghiêm túc trong thực tế.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là tư tưởng chủ đạo quán triệt toàn bộ các quy phạm pháp luật hôn nhân gia đình, quy định người đang có vợ, có chồng không được phép kết hôn hay chung sống như vợ chồng với người khác và ngược lại, bất cứ một người nào khác cũng không được phép kết hôn hay chung sống như vợ chồng với người khác đang có vợ, có chồng; đồng thời thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết các trường hợp vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
2. Thực tiễn giải quyết và một số bất cập
3.1. Thực tiễn
Ở nước ta, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là một nguyên tắc hiến định và dần trở thành nguyên tắc của cuộc sống gia đình, là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh, phát triển bền vững. Tuy nhiên trong thực tế, tình trạng ngoại tình, nam nữ chung sống như vợ chồng ngày càng phổ biến ở nhiều địa phương, nhất là các thành phố lớn.
Việc giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trong thực tế có nhiều vấn đề còn tồn tại. Cụ thể:
Thứ nhất, các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng xảy ra trong thực tế rất nhiều, trong khi các vụ việc được giải quyết trước pháp luật là rât nhỏ, thông thường các bên tự thỏa thuận giải quyết cho hành vi vi phạm, các bên vẫn tiếp tục chung sống với nhau
Thứ hai, khi người có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật hay không công nhận quan hệ vợ chồng đối với một quan hệ nam nữ. Tòa án không ra quyết định đó ngay mà sẽ tiến hành điều tra xem quan hệ nam nữ đó có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Do tính chất của quan hệ vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là quan hệ riêng tư, mang tính tình cảm, cá nhân nên các quan hệ này thường ít bộc lộ ra bên ngoài. Không những thế, các đương sự thường có tâm lý muốn che đậy, giấu diếm phần vì họ ngại dư luận xã hội, muốn giữ cho gia đình yên ấm, con cái hòa thuận, phần vì “xấu chàng hổ ai..”
Thứ ba, hiện nay, tình trạng nam nữ chung sống với nhau mà không có đăng ký kết hôn diễn ra ngày càng phổ biến, được coi là bình thường, nhất là ở các thành phố lớn. Đặc biệt ở các vùng núi, vùng dân tộc ít người tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng xuất hiện ngày càng diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. Các trường hợp vi phạm không có chiều hướng giảm mà ngày càng tăng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó một phần là do hoàn cảnh xã hội. Ở nước ta do tác động từ nền kinh tế thị trường đã hình thành trong xã hội một bộ phận dân cư khá giỏi, có lối sống tiêu xài. Cùng với đó là lối sống gấp, sống thực dụng, buông thả trong tầng lớp thanh niên làm cho các trường hợp vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng xuất hiện ngày càng phức tạp, với nhiều biến tướng như: góp gạo thổi cơm chung, chấp nhận làm cô vợ hờ không thân phận chỉ để được bao ăn ở. Tuy nhiên đáng buồn là hiện tượng này đang dần trở nên bình thường, vốn thế; đó cũng là vấn đề bức xúc hiện nay của xã hội.
Thứ tư, một thực tế cho thấy là hiện nay có quan hệ hôn nhân hợp pháp vẫn ngang nhiên có quan hệ ngoài hôn nhân. Vì thế, làm cho người còn lại trong quan hệ hôn nhân hợp pháp cảm giác căng thẳng, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, nên chính họ - người không vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng lại đâm đơn yêu cầu ly hôn. Chính điều này đã giải thoát cho người vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tiếp tục được thực hiện hành vi vi phạm, thậm chí hợp lý hóa quan hệ pháp luật của mình theo quy định tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP
3.2. Những bất cập trong việc giải quyết các trường hợp vi phạm
Mặc dù có nhiều văn bản hướng dẫn khá cụ thể nhưng thực tế vẫn còn bất cập
2.2.1. Về mặt lý luận
Trong quá trình giải quyết các vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng còn nhiều trường hợp các văn bản pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể việc giải quyết tận cùng vấn đề. Cụ thể:
Thứ nhất, theo nghị quyết 35/2000/QH10, trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì được nhà nước công nhận là có quan hệ vợ chồng, không phụ thuộc vào việc có đăng ký hay không. Như vậy, nghị quyết chỉ căn cứ vào mốc thời gain các bên bắt đầu chung sống như vợ chồng là có quan hệ vợ chồng hay không. Điều này là không chặt chẽ và không đúng trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau là người có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời hay giữa họ đã từng có quan hệ thích thuộc về trực hệ. Do nghị quyết 35 không quy định rõ vấn đề này, nên việc áp dụng có công nhận hay không việc chung sống này giữa những người có quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời hay đã từng có quan hệ thích thuộc về trực hệ là có quan hệ vợ chồng trong thực tế là khác nhau.
Nam nữ có quan hệ huyết thống trong phạm vi có họ ba đời là quan hệ giữa cha mẹ với con cái; ông bà với các cháu; anh, chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; bác ruột, chú ruột, cậu ruột với cháu gái; cô ruột, dì ruột với cháu triai; anh, chị em con chú con bác con cô con câu con dì. Theo khoản d điều 7 luật 1986 quy định: “cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hay cung mẹ khác cha; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời”. Đến luật năm 2000 quy định tại khoản 3 điều 10. Đối với quan hệ thích thuộc về trục hệ, Luật 2000 quy định tại khoản 4 điều 10. Nhận thấy khi pháp luật quy định các trường hợp cấm tức là đã cân nhắc kỹ lưỡng tác hại của hành vi đó đến đời sống xã hội nếu không cấm. Việc cấm kết hôn trong các trường hợp này đảm bảo lợi ích gia đình, làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình; phòng ngừa các hành vi vi phạm tội hình sự có thể xảy ra; giữ gìn được các trật tự kỷ cương, tiến bộ của xã hội và phù hợp với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Đối với trường hợp giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời, chung sống như vợ chồng từ trước ngày 1/3/1987 không được chấp nhận là có quan hệ vợ chồng. Bởi vào thời điểm họ bắt đầu chung sống pháp luật đã quy định cấm người có họ quan hệ huyết thống với nhau, họ nhận thức được điều này nhưng vẫn cố tình vi phạm. Việc chung sống này có tính chất loạn luận, ảnh hưởng trực tiếp đến giống nòi sau này. Việc không công nhận ở đây là đảm bảo quá trình áp dụng pháp luật.
Nhưng pháp luật cũng cần quy định chặt chẽ hơn vấn đề này để việc áp dụng pháp luật giải quyết các trường hợp này trong thực tế được thống nhất
Thứ hai, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP mục 2 điểm d3, trường hợp một người đang có vợ, có chồng nhưng tình trạng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được mà đã kết hôn với người khác. Khi tòa án tiến hành xét xử kết hôn trái pháp luật mà họ đã ly hôn với vợ hay chồng của lần trước kết hôn thì Tòa án không hủy kết hôn sau, là hôn nhân hợp pháp. Quy định này hoàn toàn hợp lý khi tính đến thực chất quan hệ tình cảm của hai người kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế, việc xác định thế nào là “đời sống vợ chồng trầm trọng, hôn nhân không thể kéo dài” là việc xác định khoảng thời gian vợ chồng mâu thuẫn là rất khó khăn và tế nhị. Đây là một kẽ hở của pháp luật, cố tình kết hôn trái pháp luật sau đó lại hợp lý hóa quan hệ trái pháp luật đó bằng việc cho rằng quan hệ hôn nhân trước không hạnh phúc. Vì thế pháp luật cần quy định chặt chẽ hơn vấn đề này để việc áp dụng các quy định để giải quyết vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng giữa các tòa được thống nhất.

2.2.2. Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, liên quan đến việc xác định tình trạng hôn nhân của UBND cấp cơ sở còn nhiều sai sót, lơ mơ, xác nhận không chính xác đã kéo theo hệ lụy phát sinh các trường hợp kết hôn trái pháp luật, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Căn cứ nghị định 158/2005/NĐ-CP khi tiến hành đăng ký kết hôn các bên phải xác nhận tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp một người cư trú ở xã phường thị trấn này nhưng đăng ký kết hôn ở xã, phường thị trấn khác thì phải có xác nhận của UBND này nhưng đăng ký kết hôn ở UBND xã, phường thị trấn khác thì phải có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó. Tuy nhiên qua kiểm tra cho thấy, có nhiều hồ sơ một trong các bên không tiến hành xác nhận tình trạng hôn nhân theo luật định, hay có xác nhận tình trạng hôn nhân nhưng đã quá hạn 6 tháng. Lẽ ra, trong trường hựp này phải yêu cầu xác nhận lại tình trạng hôn nhân nhưng cán bộ hộ tịch cơ sở đốt cháy giai đoạn vẫn giải quyết cho đương sự đăng ký kết hôn, điều này không đúng. Trong khi đó, nhiều UBND xã xác nhận tình trạng hôn nhân của đương sự không đầy đủ, “lấp lửng”, hiểu sao cũng được, thậm chí là xác nhận không chính xác. Điều này gây khó khăn cho cơ quan tiếp nhận đồng thời vô tình cấp “giấy thông hành” cho người đang có vợ, có chồng lợi dụng kết hôn với người khác, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Mà đáng lẽ ra, hậu quả đó có thể ngăn chặn ngay từ khi xin đăng ký kết hôn
Thứ hai, liên quan đến việc xác nhận các bên đăng ký kết hôn có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật, cụ thể là họ có quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời hay đã từng có quan hệ thích thuộc trực hệ hay không. Thông thường khi đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải nộp tờ khải theo mẫu quy định và xuất trình chứng minh thư, nhưng những thủ tục trên không đủ chứng mình là giữa họ không có họ trong phạm vi ba đời hay chưa từng có quan hệ thích thuộc về trực hệ với nhau. Bởi việc xác định các mối quan hệ giữa cá nhân với nhua, đặc biệt là quan hệ giữa bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, con riêng của vợ hay chồng vời bố dượng, mẹ kế… trong thực tế là vấn đề mang tính tế nhị và phức tạp. Chỉ những người xung quanh mới biết quan hệ của họ, chưa kể các bên che giấu các quan hệ của mình. Chính điều này đã gây không ít khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Điều này đòi hỏi cán bộ tư pháp cấp xã phải thực sự nắm rõ tình trạng trên địa bàn mình quản lý, có như vậy mới đảm bảo việc kết hôn không vi phạm về điều kiện kết hôn.
Thứ ba, trong thực tiễn giải quyết các án kiện về hôn nhân ở các tòa án, đã chỉ ra một hiện tượng: việc hiểu và công nhận trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng là có quan hệ vợ chồng ở TAND các cấp là không thống nhất với nhau. Hai vụ việc với những tình tiết phản ánh mức độ chung sống như vợ chồng là giống nhau nhưng có Tòa lại công nhận là có quan hệ vợ chồng, có Tòa án lại không chấp nhận. Từ nhận định có khác nhau nên cách thức giải quyết của hai Tòa án về nội dung vụ việc là khác nhau. Điều này làm cho rất nhiều các vụ việc nam nữ chung sống như vợ chồng chưa được giải quyết do không thống nhất chung về đường lối xử lý.
Thứ tư, khi công cụ pháp lý bị lãng quên, tính khả thi của các hình thức xử lý vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tỏng HNGĐ thực tế là chưa cao. Theo Luật, khi giải quyết vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, Tòa án chỉ có thể ra quyết định “ không công nhân quan hệ vợ chồng” đối với trường hợp chung sống trái pháp luật và hủy tuyên bố kết hôn trái pháp luật đối với trường hợp đang có vợ hay chồng kết hôn với người khác và ngược lại. Kèm theo đó là yêu cầu các bên chấm dứt hành vi vi phạm của mình mà không có một chế tài bắt buộc, cưỡng chế đảm bảo các bên sẽ thực hiện quyết định của tòa án. Điều này dẫn đến các trường hợp vi phạm chưa giải quyết triệt để, hình thức xử lý vi phạm chưa thực sự có tác dụng cảnh cáo, ngăn chặn các hành vi vi phạm. Trong thực tế, các bên sau khi bị xử lý vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng vẫn cố tình tái phạm, chung sống với nhau như vợ chồng.

I. Một số giải pháp khắc phục vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở nước ta hiện nay

Thứ nhất, về mặt lý luận, tăng cường hoàn thiện các quy định pháp luật về việc giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, để giải quyết các trường hợp vi phạm thực sự mang lại hiệu quả cao.
- Đối với trường hợp ngoại lệ, người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác và lần kết hôn sau được công nhận là hợp pháp theo NQ02/2000, cần có hướng dẫn cụ thể quan hệ vợ chồng đầu tiên thế nào là “đang trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Từ đo, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan xét xử áp dụng pháp luật để giải quyết các trường hợp vi phạm trong thực tế, đồng thời tránh việc các đương sự lợi dụng quy định này để hợp pháp các quan hệ trái pháp luật.
- Pháp luật cần chỉ rõ: trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 theo Nghị quyết 35 mà vi phạm một trong các điều kiện kết hôn như: giữa những người có quan hệ cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; người đang có vợ, đang có chồng chung sống với người khác… thì không thể công nhận có quan hệ vợ chồng.
- Để nâng cao hiệu quả của hoạt động xác nhận tình trạng nhân thân của các cá nhân trên địa bàn UBND xã quản lý, cán bộ hộ tịch cần tăng cường tuyên truyền, giải thích rõ cho hai bên nam, nữ hiểu trước khi đăng ký kết hôn rằng họ phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn trong đó có quy định giữa những người có quan hệ huyết thống hay đã từng có quan hệ thích thuộc trực hệ thì sẽ không được kết hôn bằng văn bản là giữa họ không có quan hệ huyết thông, hay chưa từng có quan hệ thích thuộc trực hệ, quan hệ giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi và phải chịu trách nhiệm với cam kết này.
- Đặc biệt, quy định cụ thể việc giải quyết các hậu quả pháp lý về tài sản, quyền nuôi con khi các quan hệ nam nữ chung sống chấm dứt. Tạo cơ sở pháp lý giải quyết các quan hệ tranh chấp liên quan đến việc xử lý các trường hợp vi phạm, tránh để những tranh chấp này kéo dài mà vẫn chưa được giải quyết.
- Nhà nước cần nghiên cứu và áp dụng chế tài xử lý các trường hợp vi phạm nguyên tắc chặt chẽ và kiên quyết hơn. Có như vậy, việc giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng mới thực sự thỏa đáng, răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm trong tương lai. Từ đó nâng cao ý thức của người dân trong việc tôn trọng và tuân thủ.

Thứ hai, xác định rõ trách nhiệm, tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực HNGĐ, phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc phát hiện và giải quyết vi phạm. Bên cạnh đo, hoàn thiện cả về tổ chức lẫn con người, nhất là cán bộ hộ tịch ở cấp cơ sở. Tổ chức đợt huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ hộ tịch cấp cơ sở, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, nâng cao mức trợ cấp cho họ để yên tâm công tác. Đồng thời cần thường xuyên kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện ra nhưng sai phạm trong quản lý hộ tịch, từ đó loại trừ dần các trường hợp kết hôn trái pháp luật do vi phạm nguyên tăc.
Thứ ba, tăng cường vai trò của tổ chức, cá nhân trong việc tham gi vào việc khởi kiện, yêu cầu tòa án hủy kết hôn trái pháp luật, không công nhận quan hệ vợ chồng theo điều 15 để các trường hợp vi phạm kịp thời được phát hiện và xử lý đạt hiệu quả cao. Đồng thời, đối với trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng được pháp luật công nhận có quan hệ hôn nhân hợp pháp thì cần có cách nhìn cởi mở hơn. Đặc biệt khi các bên xảy ra tranh chấp có yêu cầu tòa án giải quyết thì các yêu cầu của họ phải tiến hành một cách công tâm để họ không cảm giác “ ngại” trước Tò, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng các bên.

Thứ tư, nhằm đảm bảo tính khả thi trong các quyết định xử lý các trường hợp vi phạm, cần nâng cao ý thực của chính cặp vợ chồng trong hôn nhân hợp pháp, để họ tham gia phối hợp vào việc giám sát, nhắc nhở cá nhân vi phạm, ngăn chăn các trường hợp vi phạm tiếp tục xảy ra.

Thứ năm, nhà nước cần chú trọng mở rộng, nâng cao nhận thức của đồng bảo dân tộc thiểu số, đưa các quy định pháp luật đến với đồng bào. Tích cực đổi mới các hình thức tuyên truyền pháp luật đa dạng, linh động cả về nội dung và hình thực, phù hợp với mỗi vùng miền nhằm đật hiệu quả tuyên truyền cao nhất. Mặt khác, động viên kịp thời những tấm gương tuyên truyền, thuyết phụ người dân tuân thủ luật HNGĐ của gia làng, trưởng bản…

Kết luận
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc tiến bộ đối với bất kỳ xã hội nào, nhưng vi phạm nguyên tắc này gần như là tất yếu của xã hội trong nền kinh tế thị trường, thậm chí nó tồn tại không phụ thuộc vào trình độ dân trí, ý thức pháp luật người dân cao hay thấp. Do đó, chỉ bằng các quy định pháp luật mà xóa bỏ hẳn hiện tượng này là điều không khả thi. Nhà nước cần có những giải pháp tích cực về văn hóa, phổ biến và giáo dục pháp luật cho sâu rộng người dân, nhất là tầng lớp thanh niên, để họ hiểu rằng: “nhà nước tôn trọng quyền tự do cá nhân của họ nhưng không thừa nhận lợi ích ích kỷ cá nhân, buộc mọi công dân phải có trách nhiệm với lợi ích chung của cộng đồng”. Từ đó cần có thái độ tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
K Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự năm 1999 Luận văn Luật 0
G Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam Luận văn Luật 2
C Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luât Hôn nhân và gia đình năm 2000 Luận văn Luật 2
D Chế độ tài sản của vợ chồng và chia tài sản chung của vợ chồng theo hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam Luận văn Luật 0
B vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện quy định của Luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng Luận văn Luật 0
R Nêu và lý giải những điểm khác nhau giữa chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, 2000 Tài liệu chưa phân loại 2
P Chế độ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Tài liệu chưa phân loại 2
T Nêu và lý giải điểm khác nhau giữa chế độ tài sản của vợ chồng theo luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, luật Hôn nhân và gia đình 1986 và luật Hôn nhân và gia đình 2000 Tài liệu chưa phân loại 0
A Chế độ tài sản ước định trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 2
M Những vướng mắc bất cập về chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và hướng hoàn thiện Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top