justplaying_keepgoing
New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
CNH HĐH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam
A. PHẦN MỞ ĐẦU 2
B. NỘI DUNG 3
1. Kh¸i niÖm vÒ c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸. 3
2. T×nh tÊt yÕu kh¸ch quan cña c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸. 3
II. Mét sè vÊn ®Ò thùc tiÔn lý luËn trong qu¸ tr×nh thùc hiÖn c«ng nghiÖp ho¸. 3
1. Lý luËn chung: 3
2. Thùc tr¹ng: 9
III.Một số đề xuất về giải pháp nhằm phát triển CNH-HĐH ở nước ta hiện nay 12
1.Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và quản lý nhà nước 12
2.Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 12
3.Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 13
KÕT LUËN 14
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 15
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải quan tâm nghiên cứu nó.
Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của cách trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật nh vậy các nước đang phát triển cần tiến hành công nghiệp hoá. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước cùng kiệt nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, cách là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị...
Để góp phần nghiên cứu về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong khuôn khổ bài viết này em xin đề cập đến"CNH-HĐH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam”
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ L Ý LU ẬN VỀ CNH-HĐH Ở NƯỚC TA
1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến độ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2. Tình tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng, tác động vào để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN LÝ LUẬN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ.
1. Lý luận chung:
Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này dược biểu hiện ở lực lượng sản xuất, mặt khác, con người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời – cách sản xuất – mỗi cách sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, và lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các cách cũ lạc hậu tất yếu được thay thế bằng cách sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong mỗi cách sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất chẳng những là thước đo thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người mà còn làm thay đổi quan hệ giữa người với người trong sản xuất, thay đổi các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế xã hội, là cơ sở thực hiện hoạt động sản xuất tinh thần của con người của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.
C.Mác đã đưa ra kết luận rằng: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn của sự phát triển đó là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thành kinh tế xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế này bằng hình
thái kinh tế - xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Rằng sự vật và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các quy luật khách quan.
Ph. Ang - ghen khẳng định "Lịch sử từ xưa đến nay đã tiến triển theo một quá trình tự nhiên, và về căn bản cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như nhau". Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, bị chi phối bởi quy luật như nhau và "một xã hội ngay cả khi đã phát hiện ra quy luật tự nhiên của sự vận động của nó ... cũng không thể nào nhẩy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ nhưng giai đoạn đó, song C.Mác cũng cho rằng "nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ". Điều đó có nghĩa rằng quá trình lịch sử tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thaí kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội nào đó, trong những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Những tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại.
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá hiện vẫn đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì một mặt, chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ xã hội mới. ở đây "công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với căn bản công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới.
Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và theo định hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động, thúc đẩy hỗ trợ cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp".
Như vậy, từ quan điểm của C.Mác về kết cấu chính thể của hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận để khẳng định rằng: sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để tác động sâu xa đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội để xây dựng hình thái kinh tế xã hội ở nước ta. Nhiệm vụ lớn lao mà cuộc cách mạng đó phải thực hiện là "tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái".
a. Tổng kết, hệ thống, khái quát hoá của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá:
- Nh ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội đuợc xây dựng tất cả các nước XHCN đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung. Cơ chế này duy trì một thời gian khá dài và được xem là đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội. Thật sự thì không phải nh vậy. Nền kinh tế tập chung không phải là sản phẩm riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, cũng nưh nền kinh tế thị trường không phải là duy nhất được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế tập chung đã được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản được các nươc stư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập XHCN nhưng họ đã xoá bỏ nó để chuyển sang cơ chế thị trường. Nhưng công bằng mà nói cũng chưa phải là cái duy nhất đảm bảo sự t ăng trưởng và phát triển xã hội theo quan điểm Mác - Lênin thì xã hội cộng sản là một xã hội tiên tiến, con người có thể "làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu" nhưng thực tế trong chủ nghiã xã hội của cải xã hội chưa đạt đến mức hết sức phong phú, dư thừa và cả trong giai đoạn tiếp theo, do vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tồn tại nền sản xuất kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là lẽ đương nhiên.
Những năm vừa qua với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam đã làm thế giới ngỡ ngàng, ca ngợi. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập được với nền kinh tế tiên tiến hiện đại. Tất cả những thành tựu kinh tế mà chúng ta đã đạt được đã nói lên công cuộc đổi mới ở nước ta là cuộc cách mạng thật sự.
- Đổi mới ở nước ta không chỉ giới hạn về lĩnh vực kinh tế mà còn tạo điều kiện cho chóng ta nhận thức mới chính xác hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa Mác - lênin tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước đây ta nhận thức chưa đúng, hơn thế ta còn nhận thức sai lầm nghiêm trọng đầy ảo tưởng duy ý chí về mình. Chúng ta đã nhận thức lại và đánh giá đúng sự thật. Nhờ đổi mới tư duy nhiều ván đề về công nghiệp hoá - hiện đại hoá được nhận thức lại.
- Bảo vệ vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là mục tiêu nhiệm vụ không kém phần quan trọng, làm sang tỏ thêm ý nghĩa vai trò cách mạng của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta hiện nay. Chủ nghĩa Mác - lênin là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không có ai có thể phủ nhận rằng khi lý luận đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân thế giới đã làm lên biến cố lịch sử vĩ đại do vậy Đảng ta đã tuyên bó lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
- Các nước tư bản chủ nghiã đã thực hiện thành cường quốc về kinh tế, nhưng họ lại bất lực trước vấn đề giải quyết quanhệ xã hội họ mang tư tưởng bảo thủ lấy hiện tượng che lấp bản chất, công cuộc đổi mới mục đích là vì kinh tế chứ không phải là vì con người. Một xã hội vẫn tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chính thì con người chỉ là kẻ làm thuê luôn bị bóc lột sức lao động của mình không hưởng quyền của con người. Hiện nay Đảng ta đã đi đôi với công nghiệp hoá đất nước phải thực hiện mục tiêu "ổn định chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân".
- Một mục tiêu cực kỳ quan trọng thể hiện rõ tính cách mạng của công nghiệp hoá Việt Nam đó là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá - hiện đại hoá "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh".
b. Đường lối chỉ đạo:
- Nội dung của công nghiệp hoá ở nước ta bao gồm 2 nội dung chủ yếu là trang bị kỹ thuật và công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Các Mác nhận xét khoa học là động lực của công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, hội nghị TW II một lần nữa nhấn mạnh "cùng với giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, là nhân tố quyết định công nghiệp hoá - hiện đại hoá"
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một hoạt động có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào nhân tố dân số và nhu cầu, điều kiện tự nhiên và tiềm tàng của đất nước, điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất khoa học kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn tích lũy quan hệ kinh tế quốc tế. Theo qui luật của vận
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
CNH HĐH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam
A. PHẦN MỞ ĐẦU 2
B. NỘI DUNG 3
1. Kh¸i niÖm vÒ c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸. 3
2. T×nh tÊt yÕu kh¸ch quan cña c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸. 3
II. Mét sè vÊn ®Ò thùc tiÔn lý luËn trong qu¸ tr×nh thùc hiÖn c«ng nghiÖp ho¸. 3
1. Lý luËn chung: 3
2. Thùc tr¹ng: 9
III.Một số đề xuất về giải pháp nhằm phát triển CNH-HĐH ở nước ta hiện nay 12
1.Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và quản lý nhà nước 12
2.Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 12
3.Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 13
KÕT LUËN 14
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 15
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải quan tâm nghiên cứu nó.
Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của cách trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật nh vậy các nước đang phát triển cần tiến hành công nghiệp hoá. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước cùng kiệt nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, cách là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị...
Để góp phần nghiên cứu về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong khuôn khổ bài viết này em xin đề cập đến"CNH-HĐH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam”
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ L Ý LU ẬN VỀ CNH-HĐH Ở NƯỚC TA
1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến độ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2. Tình tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng, tác động vào để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN LÝ LUẬN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ.
1. Lý luận chung:
Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này dược biểu hiện ở lực lượng sản xuất, mặt khác, con người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời – cách sản xuất – mỗi cách sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, và lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các cách cũ lạc hậu tất yếu được thay thế bằng cách sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong mỗi cách sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất chẳng những là thước đo thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người mà còn làm thay đổi quan hệ giữa người với người trong sản xuất, thay đổi các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế xã hội, là cơ sở thực hiện hoạt động sản xuất tinh thần của con người của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.
C.Mác đã đưa ra kết luận rằng: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn của sự phát triển đó là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thành kinh tế xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế này bằng hình
thái kinh tế - xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Rằng sự vật và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các quy luật khách quan.
Ph. Ang - ghen khẳng định "Lịch sử từ xưa đến nay đã tiến triển theo một quá trình tự nhiên, và về căn bản cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như nhau". Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, bị chi phối bởi quy luật như nhau và "một xã hội ngay cả khi đã phát hiện ra quy luật tự nhiên của sự vận động của nó ... cũng không thể nào nhẩy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ nhưng giai đoạn đó, song C.Mác cũng cho rằng "nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ". Điều đó có nghĩa rằng quá trình lịch sử tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thaí kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội nào đó, trong những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Những tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại.
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá hiện vẫn đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì một mặt, chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ xã hội mới. ở đây "công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với căn bản công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới.
Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và theo định hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động, thúc đẩy hỗ trợ cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp".
Như vậy, từ quan điểm của C.Mác về kết cấu chính thể của hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận để khẳng định rằng: sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để tác động sâu xa đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội để xây dựng hình thái kinh tế xã hội ở nước ta. Nhiệm vụ lớn lao mà cuộc cách mạng đó phải thực hiện là "tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái".
a. Tổng kết, hệ thống, khái quát hoá của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá:
- Nh ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội đuợc xây dựng tất cả các nước XHCN đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung. Cơ chế này duy trì một thời gian khá dài và được xem là đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội. Thật sự thì không phải nh vậy. Nền kinh tế tập chung không phải là sản phẩm riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, cũng nưh nền kinh tế thị trường không phải là duy nhất được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế tập chung đã được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản được các nươc stư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập XHCN nhưng họ đã xoá bỏ nó để chuyển sang cơ chế thị trường. Nhưng công bằng mà nói cũng chưa phải là cái duy nhất đảm bảo sự t ăng trưởng và phát triển xã hội theo quan điểm Mác - Lênin thì xã hội cộng sản là một xã hội tiên tiến, con người có thể "làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu" nhưng thực tế trong chủ nghiã xã hội của cải xã hội chưa đạt đến mức hết sức phong phú, dư thừa và cả trong giai đoạn tiếp theo, do vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tồn tại nền sản xuất kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là lẽ đương nhiên.
Những năm vừa qua với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam đã làm thế giới ngỡ ngàng, ca ngợi. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập được với nền kinh tế tiên tiến hiện đại. Tất cả những thành tựu kinh tế mà chúng ta đã đạt được đã nói lên công cuộc đổi mới ở nước ta là cuộc cách mạng thật sự.
- Đổi mới ở nước ta không chỉ giới hạn về lĩnh vực kinh tế mà còn tạo điều kiện cho chóng ta nhận thức mới chính xác hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa Mác - lênin tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước đây ta nhận thức chưa đúng, hơn thế ta còn nhận thức sai lầm nghiêm trọng đầy ảo tưởng duy ý chí về mình. Chúng ta đã nhận thức lại và đánh giá đúng sự thật. Nhờ đổi mới tư duy nhiều ván đề về công nghiệp hoá - hiện đại hoá được nhận thức lại.
- Bảo vệ vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là mục tiêu nhiệm vụ không kém phần quan trọng, làm sang tỏ thêm ý nghĩa vai trò cách mạng của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta hiện nay. Chủ nghĩa Mác - lênin là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không có ai có thể phủ nhận rằng khi lý luận đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân thế giới đã làm lên biến cố lịch sử vĩ đại do vậy Đảng ta đã tuyên bó lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
- Các nước tư bản chủ nghiã đã thực hiện thành cường quốc về kinh tế, nhưng họ lại bất lực trước vấn đề giải quyết quanhệ xã hội họ mang tư tưởng bảo thủ lấy hiện tượng che lấp bản chất, công cuộc đổi mới mục đích là vì kinh tế chứ không phải là vì con người. Một xã hội vẫn tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chính thì con người chỉ là kẻ làm thuê luôn bị bóc lột sức lao động của mình không hưởng quyền của con người. Hiện nay Đảng ta đã đi đôi với công nghiệp hoá đất nước phải thực hiện mục tiêu "ổn định chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân".
- Một mục tiêu cực kỳ quan trọng thể hiện rõ tính cách mạng của công nghiệp hoá Việt Nam đó là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá - hiện đại hoá "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh".
b. Đường lối chỉ đạo:
- Nội dung của công nghiệp hoá ở nước ta bao gồm 2 nội dung chủ yếu là trang bị kỹ thuật và công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Các Mác nhận xét khoa học là động lực của công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, hội nghị TW II một lần nữa nhấn mạnh "cùng với giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, là nhân tố quyết định công nghiệp hoá - hiện đại hoá"
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một hoạt động có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào nhân tố dân số và nhu cầu, điều kiện tự nhiên và tiềm tàng của đất nước, điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất khoa học kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn tích lũy quan hệ kinh tế quốc tế. Theo qui luật của vận

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt nam từ xưa đến nay, viet nam trong thoi ky cnh hien dai hoa, kết luận về công nghiệp hóa hiện đại hóa, lý luận về công nghiệp hóa hiện đại hóa thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Kết luận về CNH HĐH, nội dung đẩy mạnh cnh hiện đại hóa ở việt nam, Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện CNH,HDH bao gồm, kết luận vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, mặc hạn chế công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt nam hiện nay, kết luận về vai trò của đảng tong sự nghiep công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, tại sao phải đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Liên hệ., Quan điểm đi tắt đón đầu trong CNH, HĐH của đảng ta, đảng ta xác dinh thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH HDH theo dịnh hướng XHCN, vai trò của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong thời kì quá độ, sự khác nhau giữa CNH-HĐH và CNH, HĐH
Last edited by a moderator: