Henson

New Member

Download miễn phí Immanuel Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người





Trong quan niệm của I. Kant, lý tính điều chỉnh tri giác của con người trong suốt
quá trình nhận thức, dẫn dắt tri giác vào khuôn khổ của các hình thức tất yếu và phổ quát
của nhận thức. Bằng cách đó, lý tính quy định tính khách quan của tri thức. Tuy nhiên,
câu hỏi đặt ra là, cái gì đã tạo ra khảnăng đó của lý tính? Tại sao lý tính lại có thể đưa tri
giác vào các hình thức tiên nghiệm như vậy? Và, cuối cùng thì cái gì đã gắn kết các
phạm trù và các khái niệm vào một chỉnh thể trong hiện thực? I. Kant đã trả lời các câu
hỏi này theo quan điểm hết sức nhất quán của riêng mình: tất cả những thao tác đó là do
đặc thù của chủ thể quy định. Theo I. Kant, cơ sở sâu xa tạo nên sự thống nhất trong
nhận thức luận, mà nếu thiếu sự thống nhất đó thì lý tính không thể thực hiện được chức
năng của nó -đó là hành vi tự nhận thức của chủ thể: cái tôi đang tư duy. I. Kant gọi
hành vi này là sự thống nhất siêu nghiệm của tri giác hay, sự kết hợp của các tri giác
nằm ở ngoài giới hạn của kinh nghiệm.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

là điều thú vị nhất. Khi nghiên cứu I.
Kant, với chúng tôi, điều thú vị nhất là vai trò của I. Kant đối với ngành nhân học
(anthropology).
Thời gian gần đây, khi nhân học được chú ý như một khoa học hiện đại (và có
phần thời thượng nữa) về con người, các nhà nghiên cứu nhân học mới giật mình nhận
ra rằng, mặc dù vẫn coi M. Scheler là ông tổ của nhân học, song từ rất sớm trước M.
Scheler, chính I. Kant chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề xuất và "bảo vệ
một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học độc lập . I. Kant
coi nhân học là một ngành có đối tượng riêng, có cách nghiên cứu riêng, phương
thức vượt ra khỏi khuôn khổ của các cách nhận thức đã biết. Cũng chính là từ
triết học phê phán, khi phân loại các vấn đề nhận thức cơ bản mà con người buộc phải
giải đáp, I. Kant đã đi đến khẳng định vị trí của nhân học, ngành khoa học phải trả lời
câu hỏi muôn thuở - con người là gì. Và, không biết lúc đó I. Kant có hình dung nhân
học lại phát triển một cách mạnh mẽ và thu hút sự quan tâm của con người đến như hiện
nay hay không.
1. Sự ra đời của triết học phê phán
Thực ra, không phải chỉ vì các tác phẩm cơ bản của I. Kant ở giai đoạn
thứ hai trong cuộc đời sáng tạo của ông có tựa đề là "phê phán" mà giai đoạn
này được gọi là giai đoạn phê phán. (Đây là điểm chưa thật chính xác mà một
số tài liệu viết về I. Kantơ hiện vẫn còn lý giải như thế). Vấn đề là ở chỗ, triết
học I. Kant mang tinh thần phê phán hết sức rõ rệt. I. Kant đã phê phán một cách trực
diện và không thương tiếc toàn bộ "linh hồn" của triết học tiền bối, bao gồm cả triết học
kinh nghiệm luận của J. Loke, G. Berkeley, D. Hume và cả triết học duy lý của R.
Descartes, B. Spinoza, G. Leibniz. Sự phê phán của ông được dựa vào một hệ thống tư
tưởng riêng biệt và hết sức độc đáo. Hơn thế nữa, sự phê phán đó cũng phải coi là thật
sự có hiệu quả, nếu so với những phê phán đã từng tồn tại trong lịch sử triết học.
Như đã biết, trước I. Kant, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm thống trị
trong triết học. I. Kant nhìn thấy rất rõ những điểm hợp lý trong các triết học đó, song
ông còn thấy rõ hơn tính chất giáo điều của triết học duy lý và tính chất hoài nghi thiếu
cơ sở trong triết học theo kinh nghiệm luận. Những hạn chế này, theo I. Kant, đã trở
thành căn bệnh "trầm kha" trong lĩnh vực tư tưởng ở thời đại của ông, làm cho triết học
lúc đó rơi vào tình trạng phiến diện và què quặt. Trước thực trạng ấy, I. Kant đặt cho
mình nhiệm vụ phân tích có phê phán năng lực nhận thức của con người, giải phóng
khỏi nhận thức luận cách tiếp cận đang thống trị lúc đó, mà theo I. Kant là cách tiếp cận
giáo điều. Với chủ trương xây dựng một triết học mới thông qua con đường phê phán
bằng vũ khí mới của sự phê phán, ở triết học I. Kant đã nảy sinh một cách tiếp cận riêng
mà ít lâu sau người ta gọi là cách tiếp cận phê phán. Cũng chính vì thế mà triết học I.
Kant còn được gọi là triết học phê phán (Critical philosophy). Đây chính là một nét độc
đáo của triết học I. Kant; bởi lẽ, triết học nào cũng ít nhiều sử dụng vũ khí phê phán,
nhưng phê phán được nâng thành một cách xây dựng tư tưởng, được hệ thống
hóa thành một cách tiếp cận riêng thì chỉ có ở I. Kant.
Nguyên tắc cơ bản của cách tiếp cận phê phán và cũng là của toàn bộ triết học phê
phán đã được I. Kant nêu trong phần mở đầu xuất bản lần thứ hai tác phẩm "Phê phán lý
tính thuần tuý" (The Critique of Pure Reason). I. Kant viết: "Cho đến nay, người ta
thường cho rằng hiểu biết của ta cần phù hợp với đối tượng. Tuy nhiên, mọi cố
gắng thông qua khái niệm để hiểu biết một cái gì đó tiên thiên về đối tượng đều đã kết
thúc một cách không thành công. Bởi vì, tri thức của chúng ta về đối tượng đã không
được mở rộng. Do đó, cần giải thích: phải chăng chúng ta sẽ không giải quyết được
một cách tốt hơn nhiệm vụ của siêu hình học, nếu như ta xuất phát từ giả định rằng, đối
tượng cần phù hợp với nhận thức của ta. Mà điều này lại đáp ứng tốt hơn những đòi
hỏi về khả năng hiểu biết một cách tiên thiên về đối tượng - tri thức cần xác lập về
đối tượng một cái gì đó sớm hơn là nó đem lại cho ta" .
Rõ ràng, tính chất duy tâm của nguyên tắc mà I. Kant nêu ra là điều không phải
bàn cãi. Chẳng những cách đặt vấn đề của I. Kant là duy tâm, mà hơn thế nữa, I. Kant
còn cố tình duy tâm tới mức cực đoan để diễn đạt một điều nan giải có thật trong nhận
thức: cô lập quá trình nhận thức ở bất cứ điểm nào của nó, chúng ta cũng đều có thể rơi
vào sai lầm; và (theo I. Kant) không có quá trình nhận thức nào bắt đầu từ con số không.
Bởi vậy, để nhận thức được đối tượng, phải giả định rằng "đối tượng cần phù hợp
với nhận thức" chứ không phải ngược lại. Bằng cách đó, tri thức buộc phải "xác lập về
đối tượng một cái gì đó" (hình ảnh giả định về đối tượng) trước khi đối tượng được phản
ánh trong nhận thức ("sớm hơn là nó đem lại cho ta"). Nói thế mới thấy được rằng, lối
nhận thức có trước kinh nghiệm (a priori) này quả là có hạt nhân hợp lý của nó.
Cái lộ ra ở đây là cách đặt vấn đề của I. Kant là hết sức độc đáo. Bởi lẽ, như đã
biết, vào thời của I. Kant, hai khuynh hướng cơ bản của triết học Châu Âu (chủ nghĩa
duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm) mâu thuẫn gay gắt với nhau và thể hiện ra ở chính
mâu thuẫn giữa cái duy lý và cái kinh nghiệm. I. Kant muốn khám phá thực chất của
mâu thuẫn này để chỉ ra nguyên nhân sâu xa của tình trạng phiến diện và giáo điều của
triết học đương đại. Trong triết học I. Kant, sự đối lập giữa cái duy lý và cái kinh
nghiệm là đối tượng được ông chú tâm giải quyết trong mọi vấn đề, từ nhận thức vũ trụ
đến nhận thức con người, từ logic học đến đạo đức học, từ khái niệm tiên thiên đến khái
niệm nảy sinh sau kinh nghiệm (a posteriori).
Điều vĩ đại ở I. Kant là ông đã hoàn toàn vượt lên trên và không bị lôi cuốn vào
cách giải quyết mâu thuẫn nói trên theo lối tranh cãi kinh viện hay thuần túy kinh
nghiệm như các nhà triết học đương thời. I. Kant đã bằng chính tư duy phê phán để lập
cho mình một hệ thống tư tưởng riêng, với cách hiểu rất dị thường và đúng là có một
không hai về các phạm trù: Với I. Kant, không gian, thời gian, nhân quả, các phạm trù
logic, các phạm trù đạo đức… hóa ra đều là những "hình thức" có sẵn trong nhận thức,
con người sử dụng chúng để làm ra kinh nghiệm chứ không phải chúng được tạo ra từ
kinh nghiệm. Vật tự nó (Thing in Itself) là một sáng tạo kiệt xuất của nhận
thức loài người thông qua một bộ óc uyên bác cụ thể là Immanuel Kant .
Như chúng ta đã biết, trong triết học Trung cổ và triết học Phục hưng,
tâm điểm của hầu hết các luận thuyết triết học là học thuyết về tồn tại. Người
ta chú ý đặc biệt ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top