Download miễn phí Đề tài Khảo sát tình hình sử dụng thuốc trong điều trị vô sinh bằng phương pháp Thụ tinh trong ống nghiệm
Nhóm I có tỷ lệ số bệnh nhân bị quá kích buồng trứng (2,6%) lớn hơn nhóm III (2,3%), tuy nhiên sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê với P(I,III) > 0,05. Nhóm II không có trường hợp nào bị quá kích buồng trứng.
Nguyên nhân là do: Khoảng cách giữa đáp ứng tốt và quá kích buồng trứng là rất nhỏ. Số lượng nang noãn phát triển thể hiện sự đáp ứng của buồng trứng với phác đồ KTBT. Buồng trứng đáp ứng càng tốt, số lượng nang noãn phát triển càng nhiều thì nguy cơ quá kích buồng trứng càng cao.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2015-08-20-de_tai_khao_sat_tinh_hinh_su_dung_thuoc_trong_dieu_tri_vo_si.VVVuofQc6t.swf /tai-lieu/de-tai-khao-sat-tinh-hinh-su-dung-thuoc-trong-dieu-tri-vo-sinh-bang-phuong-phap-thu-tinh-trong-ong-nghiem-81640/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
Sau khi phóng noãn, hoàng thể sẽ được tạo thành. Nếu không có thai, hoàng thể tồn tại khoảng 10 –14 ngày. Nếu có thai, hoàng thể tồn tại đến tuần thứ 10 – 12 của thai kỳ.
1.4. sử dụng thuốc phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm
Trong phương pháp Thụ tinh trong ống nghiệm, thuốc sử dụng được chia thành 2 pha:
Kích thích buồng trứng
Hỗ trợ hoàng thể.
1.4.1. Kích thích buồng trứng [8][16][24]
Kích thích buồng trứng (KTBT) là bước quan trọng quyết định thành công của chu trình IVF.
Nguyên tắc chung của các phác đồ KTBT là làm tăng nồng độ FSH trong huyết thanh kéo dài để tăng số lượng nang noãn phát triển ở cả hai buồng trứng, số noãn và số phôi thu được sẽ nhiều hơn. Nhờ đó có cơ hội để lựa chọn nhiều phôi chất lượng tốt, có khả năng làm tổ cao để chuyển vào buồng tử cung. Số phôi còn lại sau chuyển phôi còn có thể trữ lạnh, sử dụng lại sau này, góp phần làm tăng khả năng có thai của bệnh nhân với một lần KTBT. Ngoài ra, phác đồ KTBT còn tạo điều kiện nội mạc tử cung thuận lợi cho sự làm tổ của phôi.
Để có một chu trình IVF có hiệu quả, số lượng nang noãn trung bình cần đạt được sau kích thích buồng trứng là 8 – 10 nang noãn trưởng thành.
Ban đầu, FSH ngoại sinh được sử dụng đơn thuần để kích thích các nang noãn phát triển. Tuy nhiên trong khoảng 20 – 30% các chu kỳ KTBT, các nang noãn phát triển không đồng bộ, có sự tăng đột ngột đỉnh LH nội sinh gây hiện tượng hoàng thể hoá sớm, rụng trứng sớm. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc hủy bỏ chu trình điều trị.
Do đó vào những năm 1980, các thuốc tương tự GnRH (GnRH agonist: GnRHa) đã được sử dụng phối hợp với FSH nhằm ngăn ngừa đỉnh LH nội sinh trước khi thu hoạch noãn làm tăng tỷ lệ có thai. Sự phối hợp này đã được chứng minh là có hiệu quả hơn hẳn so với việc dùng FSH đơn thuần [20].
Cũng với mục đích ngăn ngừa đỉnh LH nội sinh, hiện nay nhiều trung tâm đã nghiên cứu đưa chất đối kháng GnRH (GnRH antagonist: GnRH anta) vào sử dụng trên lâm sàng và thu được những kết quả khả quan.
Hiện nay các phác đồ KTBT luôn bao gồm: FSH/ GnRHa hay GnRH anta/ hCG.
Việc lựa chọn phác đồ KTBT do bác sĩ quyết định, tuỳ từng trường hợp vào từng bệnh nhân, kinh nghiệm của bác sĩ với nguyên tắc: Thu được số lượng nang noãn cần thiết cho thụ tinh trong ống nghiệm, lượng thuốc sử dụng ở mức tối thiểu và hạn chế được quá kích buồng trứng.
1.4.1.1. Thuốc sử dụng trong kích thích buồng trứng
FSH [5][9]
Đặc tính chung:
FSH là hormon do tuyến yên tiết ra, có tác dụng kích thích phát triển và làm trưởng thành các nang noãn và noãn.
Các chất có hoạt tính FSH bao gồm:
- Urofollitropin: được chiết xuất từ nước tiểu phụ nữ sau mãn kinh, có hoạt tính FSH.
- Human menopausal gonadotropin (Menotropin): được chiết xuất và tinh chế từ nước tiểu phụ nữ sau mãn kinh, chứa hoạt tính FSH và LH với hàm lượng tương đương.
Follitropin alpha, Follitropin beta: Hormon tái tổ hợp FSH của người.
Gonadotropin huyết thanh được lấy từ huyết thanh ngựa cái mang thai, hiện nay ít dùng.
Chế phẩm FSH tái tổ hợp có nhiều ưu điểm hơn các chế phẩm FSH chiết xuất từ nước tiểu: độ tinh khiết cao (99%), không chứa LH. Sử dụng FSH trong kích thích buồng trứng đạt được nhiều nang noãn phát triển đều đặn hơn, số phôi thu được, tỷ lệ có thai tăng lên. Các nghiên cứu chỉ ra rằng FSH tái tổ hợp có hiệu quả điều trị tốt hơn FSH có nguồn gốc từ nước tiểu. [19][24]
Dạng thuốc và hàm lượng
Bột pha tiêm (kèm dung môi):
Urofollitropin: ống 100 IU, 150 IU.
Menotropin: ống 75 IU FSH + 75 IU LH; 150 IU FSH + 150 IU LH.
Follitropin alpha: ống 75 IU, 150 IU.
Follitropin beta: ống 50 IU, 75 IU, 100 IU, 150 IU. Ngoài ra, Follitropin beta còn được bào chế dưới dạng dung dịch tiêm với hàm lượng 50 IU, 75 IU, 100 IU, 150 IU, 200 IU/ lọ.
Cách dùng và liều lượng:
Urofollitropin, Menotropin dùng theo đường tiêm bắp. Follitropin alpha và Follitropin beta dùng theo đường tiêm bắp hay tiêm dưới da.
Trong KTBT, liều dùng của FSH ban đầu tuỳ từng trường hợp vào từng người bệnh, dựa theo tuổi, thể trọng, đặc điểm nội tiết và tiền sử đáp ứng của người bệnh. Liều FSH ban đầu thông thường được sử dụng là từ 100 – 300 IU/ ngày. Liều dùng sau đó tuỳ từng trường hợp vào đáp ứng của người bệnh. Thuốc phải được dùng với liều thấp nhất có hiệu quả.
GnRHa [5][9]
Đặc tính chung:
GnRHa là những thuốc tổng hợp có cấu trúc tương tự GnRH. GnRHa có thời gian bán thải dài hơn và hoạt tính sinh học mạnh hơn so với GnRH tự nhiên.
Khi bắt đầu sử dụng, GnRHa gây tăng tiết cả hai hormon FSH và LH, sau đó nếu sử dụng liên tục GnRHa (khoảng 10 –14 ngày) sẽ gây giảm tiết FSH, LH vì các thụ thể ở tuyến yên sẽ giảm về số lượng và tính nhạy cảm đối với GnRH nội sinh. Hiệu quả quan trọng của GnRHa trong KTBT là ngăn ngừa đỉnh LH nội sinh trước khi thu hoạch noãn.
Dạng thuốc và hàm lượng:
Buserelin (Suprefact): Thuốc tiêm 1 mg (dạng acetat)/ ml và phun mũi (dạng acetat): 100 microgam/ liều xịt định trước.
Leuprorelin acetat (Prostap, Lucrin, Enantone): Bột pha tiêm: 3,75 mg + dung môi 1 hay 2 ml hay bột pha tiêm 5 mg/ ml.
Goserelin (Zoladex): 3,6 mg (base); 10,8 mg (base), chứa trong 1 bơm tiêm chuyên dụng cấy dưới da 1 lần.
Triptorelin (Decapeptyl, Dipherilin): Bột pha tiêm 0,1 mg; 3,75 mg + dung môi 1 ml hay 2ml.
Nafarelin (Synarel): Thuốc xịt mũi: 1 xịt = 200 microgam.
Cách dùng và liều lượng:
Được dùng theo đường tiêm dưới da, tiêm bắp, hay xịt mũi. Liều dùng tuỳ từng trường hợp vào từng chế phẩm.
c. GnRH anta [7][12]
Đặc tính chung:
GnRH anta là những thuốc tổng hợp cũng có cấu trúc tương tự GnRH, nhưng nhiều vị trí acid amin bị thay đổi. GnRH anta không làm tăng tiết FSH và LH, mà ngược lại cạnh tranh với GnRH tại thụ thể làm ức chế việc tiết FSH và LH của tuyến yên chỉ vài giờ sau khi sử dụng. Do đó nồng độ LH nội sinh trong cơ thể được kiểm soát. Khi phối hợp với FSH để KTBT, GnRH anta được sử dụng vào thời điểm có nguy cơ xuất hiện đỉnh LH nội sinh.
Dạng thuốc và hàm lượng:
Cetrorelix: Bột pha tiêm 0,25 mg + 1 ml dung môi.
Ganirelix: Dung dịch tiêm 0,25 mg/ 0,5 ml.
Cách dùng và liều lượng:
GnRH anta được dùng qua đường tiêm dưới da, liều sử dụng là 0,25 mg/ ngày.
d. hCG (Human Chorionic Gonadotropin) [5][8]
Đặc tính chung:
Là một hormon do nhau thai của phụ nữ có thai tiết ra và được lấy từ nước tiểu phụ nữ sau mãn kinh.
hCG có tác dụng giống LH nhưng mạnh hơn và kéo dài hơn. Trong KTBT, hCG được dùng thay thế để tạo đỉnh LH thay cho đỉnh LH nội sinh giúp cho sự trưởng thành cuối cùng của nang noãn trước khi chọc hút noãn.
Chế phẩm hCG được sử dụng hiện nay là chế phẩm được chiết xuất từ nước tiểu phụ nữ có thai.
Dạng thuốc và hàm lượng:
Bột pha tiêm (kèm dung môi): hCG ống 1500 IU, 2000 IU, 5000 IU, 10000 IU
Cách dùng và liều lượng:
hCG được dùng qua đường tiêm bắp với liều duy nhất 5000 – 10000 IU.
1.4.1.2. Các phác đồ thuốc kích thích buồng trứng
Hiện nay có ba phác đồ thường được sử dụng là:
Phác đồ dài: gồm FSH/ GnRHa/ hCG
Phác đồ ngắn dùng GnRHa: gồm FSH/ GnRHa/ hCG
Phác đồ ngắn dùng GnRH anta: gồm FSH/ GnRH anta/ hCG
Việc phân chia phác đồ dài và phác đồ ngắn là d