Link tải luận văn miễn phí cho ae
Mục lục:
Đặt vấn đề.
I.Giới thiệu Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Hồ Chí Minh từ một chiến sĩ yêu nước, đấu tranh vì độc lập dân tộc thành một chiến sĩ cộng sản, vận động biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp - sự phát triển trong con người HCM.
2.Khái niệm, điều kiện lịch sử, nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
II.Biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
2.Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
3.Mối quan hệ biện chứng hai vấn đề trên
4.Thực tế cách mạng Việt Nam và sự đúng đắn của mối quan hệ biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
III. Kết luận
BÀI LUẬN
Trước năm 1930, có rất nhiều phong trào yêu nước như Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, Đông du, Duy tân… chống thực dân Pháp đã diễn ra nhưng đều thất bại vì không có đường lối đấu tranh đúng đắn. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mac-Lênin được truyền bá vào nước ta, đường lối Cách mạng được Hồ Chí Minh xác định, Đảng Cộng sản tập hợp, lãnh đạo toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất chống giặc ngoại xâm, xây dựng xã hội mới thì Cách Mạng nước ta mới thu được thành quả như mong đợi: giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng Tổ quốc giàu mạnh… Sự khác biệt cơ bản dẫn tới sự thành công của Cách mạng tháng Tám-1945 chính là sự lãnh đạo của Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Chính nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến thành công này.
I. Giới thiệu Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Hồ Chí Minh từ một chiến sĩ yêu nước, đấu tranh vì độc lập dân tộc thành một chiến sĩ cộng sản, vận động biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp - sự phát triển trong con người HCM.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, và còn nhiều tên khác nữa), sinh ngày 19-5-1890 ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (quê nội là làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Cụ thân sinh là quan phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước, có tư tưởng tiến bộ, thân dân; mẫu thân là bà Hoàng Thị Loan, con gái một nhà Nho, là một phụ nữ giàu đức hi sinh cho chồng cho con; chị là bà Nguyễn Thị Thanh và anh là ông Nguyễn Sinh Khiêm (tự là Tất Đạt) đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.
Cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là một quá trình biện chứng liên tục, một sự vân động từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội, đem chủ nghĩa xã hội về giác ngộ quần chúng nhân dân, vạch ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc, dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Lòng yêu nước, yêu nhân dân hình thành rất sớm trong con người Hồ Chí Minh. Sinh ra trong một gia đình nho giáo giàu truyền thống, những tư tưởng của quan phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ảnh hưởng rất nhiều tới các con. Tận mắt chứng kiến cuộc sống lầm than của nhân dân trong vùng, những lam lũ nhọc nhằn của mẹ, những trăn trở của những nhà Nho yêu nước thường đến bàn bác cùng cha... cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã sớm có mong muốn giúp dân cưú nước. Tháng 9 năm 1907, Người vào học tại trường Quốc học Huế, ngay khi còn đi học, Bác đã hòa mình vào những phong trào đấu tranh của nhân dân. Cuối tháng 5 năm 1908, Bác tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, Người bị triều đình phong kiến phản động và bọn thực dân gây sức ép đuổi học. Những năm tháng đi học, được tiếp xúc với văn hóa Pháp, Bác ấn tượng với “ tự do, bình đẳng, bác ái” mà người Pháp vẫn nói, Người muốn đi sang Pháp tìm hiểu những giá trị thực sự của nó và những tiến bộ khác về giúp xây dựng nước nhà. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên tàu Đô đốc Latouche-Tréville, bắt đầu những ngày bôn ba tìm đường cứu nước. Bác đã nhận ra mâu thuẫn giữa lời nói “tự do, bình đẳng, bác ái” của thực dân Pháp và hành động thực dân của chúng. Đi tới đâu, khắp châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi Bác đều chứng kiến cuộc sống khổ cực lầm than của nhân dân lao động, hoà mình tham gia lao động và đấu tranh trực tiếp trong hàng ngũ giai cấp công nhân, Bác kết luận trên đời chỉ có hai loại người, đó là những người bóc lột và những người bị bóc lột. Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp, ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm với hai nội dung chính là đòi sự bình đẳng về mặt pháp lý cho người dân An Nam và quyền tự do dân chủ tối thiểu cho người dân An Nam, kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á. Nhưng bản yêu sách không được chấp nhận, chủ nghĩa Wilson chỉ là trò bịt bợm, Bác kết luận chỉ có đấu tranh bằng con đường bạo lực mới có thể giành độc lập. Tháng Bảy năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, trong đó có đưa ra những vấn đề chiến lược, tiến bộ về dân tộc, thuộc địa như khẳng định quyền tự do, độc lập tự chủ về mọi mặt của các dân tộc trong đó có các dân tộc thuộc địa, nhân dân các nước chính quốc phải giúp đỡ các dân tộc thuộc địa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhiệm vụ đấu tranh của các dân tộc thuộc địa không chỉ là đấu tranh chống các lực lượng ngoại xâm mà còn phải chống lại các lực lượng phản động trong nước, sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, các dân tộc thuộc địa có thể lựa chọn con đường xây dựng CNXH, bỏ qua CNTB, Liên Xô sẽ trở thành thành trì của nền hoà bình thế giới và Quốc tế Cộng sản trở thành bộ tham mưu chiến đấu của các phong trào đấu tranh quốc tế. Nhận thấy những quan điểm đúng đắn, tiến bộ và phù hợp với tình hình đấu tranh của dân tộc mình trong bản sơ thảo trên Nguyễn Ái Quốc đã đứng hoàn toàn về phía Quốc tế Cộng sản. Người tìm hiểu, khảo sát cuộc cách mạng tháng Mười Nga, tự học và tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Người tham gia Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành đảng Xã hội Pháp ra nhập Quốc tế cộng sản và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành nười cộng sản. Người khẳng định “muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”.
Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
Mục lục:
Đặt vấn đề.
I.Giới thiệu Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Hồ Chí Minh từ một chiến sĩ yêu nước, đấu tranh vì độc lập dân tộc thành một chiến sĩ cộng sản, vận động biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp - sự phát triển trong con người HCM.
2.Khái niệm, điều kiện lịch sử, nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
II.Biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
2.Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
3.Mối quan hệ biện chứng hai vấn đề trên
4.Thực tế cách mạng Việt Nam và sự đúng đắn của mối quan hệ biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
III. Kết luận
BÀI LUẬN
Trước năm 1930, có rất nhiều phong trào yêu nước như Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, Đông du, Duy tân… chống thực dân Pháp đã diễn ra nhưng đều thất bại vì không có đường lối đấu tranh đúng đắn. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mac-Lênin được truyền bá vào nước ta, đường lối Cách mạng được Hồ Chí Minh xác định, Đảng Cộng sản tập hợp, lãnh đạo toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất chống giặc ngoại xâm, xây dựng xã hội mới thì Cách Mạng nước ta mới thu được thành quả như mong đợi: giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng Tổ quốc giàu mạnh… Sự khác biệt cơ bản dẫn tới sự thành công của Cách mạng tháng Tám-1945 chính là sự lãnh đạo của Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Chính nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến thành công này.
I. Giới thiệu Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Hồ Chí Minh từ một chiến sĩ yêu nước, đấu tranh vì độc lập dân tộc thành một chiến sĩ cộng sản, vận động biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp - sự phát triển trong con người HCM.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, và còn nhiều tên khác nữa), sinh ngày 19-5-1890 ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (quê nội là làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Cụ thân sinh là quan phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước, có tư tưởng tiến bộ, thân dân; mẫu thân là bà Hoàng Thị Loan, con gái một nhà Nho, là một phụ nữ giàu đức hi sinh cho chồng cho con; chị là bà Nguyễn Thị Thanh và anh là ông Nguyễn Sinh Khiêm (tự là Tất Đạt) đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.
Cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là một quá trình biện chứng liên tục, một sự vân động từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội, đem chủ nghĩa xã hội về giác ngộ quần chúng nhân dân, vạch ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc, dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Lòng yêu nước, yêu nhân dân hình thành rất sớm trong con người Hồ Chí Minh. Sinh ra trong một gia đình nho giáo giàu truyền thống, những tư tưởng của quan phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ảnh hưởng rất nhiều tới các con. Tận mắt chứng kiến cuộc sống lầm than của nhân dân trong vùng, những lam lũ nhọc nhằn của mẹ, những trăn trở của những nhà Nho yêu nước thường đến bàn bác cùng cha... cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã sớm có mong muốn giúp dân cưú nước. Tháng 9 năm 1907, Người vào học tại trường Quốc học Huế, ngay khi còn đi học, Bác đã hòa mình vào những phong trào đấu tranh của nhân dân. Cuối tháng 5 năm 1908, Bác tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, Người bị triều đình phong kiến phản động và bọn thực dân gây sức ép đuổi học. Những năm tháng đi học, được tiếp xúc với văn hóa Pháp, Bác ấn tượng với “ tự do, bình đẳng, bác ái” mà người Pháp vẫn nói, Người muốn đi sang Pháp tìm hiểu những giá trị thực sự của nó và những tiến bộ khác về giúp xây dựng nước nhà. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên tàu Đô đốc Latouche-Tréville, bắt đầu những ngày bôn ba tìm đường cứu nước. Bác đã nhận ra mâu thuẫn giữa lời nói “tự do, bình đẳng, bác ái” của thực dân Pháp và hành động thực dân của chúng. Đi tới đâu, khắp châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi Bác đều chứng kiến cuộc sống khổ cực lầm than của nhân dân lao động, hoà mình tham gia lao động và đấu tranh trực tiếp trong hàng ngũ giai cấp công nhân, Bác kết luận trên đời chỉ có hai loại người, đó là những người bóc lột và những người bị bóc lột. Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp, ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm với hai nội dung chính là đòi sự bình đẳng về mặt pháp lý cho người dân An Nam và quyền tự do dân chủ tối thiểu cho người dân An Nam, kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á. Nhưng bản yêu sách không được chấp nhận, chủ nghĩa Wilson chỉ là trò bịt bợm, Bác kết luận chỉ có đấu tranh bằng con đường bạo lực mới có thể giành độc lập. Tháng Bảy năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, trong đó có đưa ra những vấn đề chiến lược, tiến bộ về dân tộc, thuộc địa như khẳng định quyền tự do, độc lập tự chủ về mọi mặt của các dân tộc trong đó có các dân tộc thuộc địa, nhân dân các nước chính quốc phải giúp đỡ các dân tộc thuộc địa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhiệm vụ đấu tranh của các dân tộc thuộc địa không chỉ là đấu tranh chống các lực lượng ngoại xâm mà còn phải chống lại các lực lượng phản động trong nước, sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, các dân tộc thuộc địa có thể lựa chọn con đường xây dựng CNXH, bỏ qua CNTB, Liên Xô sẽ trở thành thành trì của nền hoà bình thế giới và Quốc tế Cộng sản trở thành bộ tham mưu chiến đấu của các phong trào đấu tranh quốc tế. Nhận thấy những quan điểm đúng đắn, tiến bộ và phù hợp với tình hình đấu tranh của dân tộc mình trong bản sơ thảo trên Nguyễn Ái Quốc đã đứng hoàn toàn về phía Quốc tế Cộng sản. Người tìm hiểu, khảo sát cuộc cách mạng tháng Mười Nga, tự học và tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Người tham gia Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành đảng Xã hội Pháp ra nhập Quốc tế cộng sản và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành nười cộng sản. Người khẳng định “muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”.
Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links