LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
I. Mở đầu
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng cũng là ngày đất nước Việt Nam độc lập thống nhất. Sau hàng chục năm chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm tưởng chưng như không thể phát triển được thì nay đã mở ra thời cơ mới, điều kiện mới. Có thể nói con đường mà Đảng, Nhà nước và chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho đất nước Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn đó là con đường XHCN, con đường vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Con đường trên đã bao hàm toàn bộ mối quanhệ giữa sự tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Không những chỉ riêng các nước XHCN và ngay cả các nước TBCN đều xem mối quan hệ này là yếu tố quan trọng để đất phát triển. Vì thế mà không phải ngâu nhiên bộ môn Kinh tế chính trị lại đưa ra vấn đề nổi cộm này. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét:
II. Nội dung
* Khái niệm
1. Tăng trưởng kinh tế
Trước hết ta cần hiểu thế nào là tăng trưởng kinh tế. Nói ngắn gọn tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân trong một thời kỳ nhất định. Hay nói khác đi đó là sự tăng lên các yếu tố của quá trình sản xuất và do đó tăng lên về số lượng và chất lượng sản phẩm xã hội. Tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra theo hai hướng: Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là tăng về số lượng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (như lao động, đất đai, tiền vốn) trên cơ sở kỹ thuật sản xuất cũ.
Tăng trưởng kinh tế theo chiếu sâu là sự phát triển sản xuất trên cơ sở hoàn thiện các yếu tố sản xuất như sử dụng các tư liệu lao động tiến bộ, các đối tượng lao động ít tốn kém, nâng cao trình độ của người lao động, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng sản xuất .v.v...
Trên thực tế việc tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu được kết hợp với nhau và được sử dụng theo hướng phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước ở các giai đoạn khác nhau.
2. Các nhân tố tăng trưởng kinh tế
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và có nhiều cách phân loại, sắp xếp thứ tự các nhân tố đó xong có một số nhân tố cơ bản như sau:
a. Vốn
Vốn là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích luỹ lại và những của cải tự nhiên ban cho như đất đai, khoáng sản đã được cải toạ và chế biến ... Vốn có thể được biểu hiện dưới hình thức hiện vật và dưới hình thức tiền tệ. Vốn là yếu tố đầu vào của sản xuất. Các nhà khoa học đã tìm ra được mối quan hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư, được gọi là hiệu suất sử dụng vốn sản phẩm gia tăng (ICOR). Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỉ lệ tăng của GDP. Những nền kinh tế thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với các chỉ số ICOR thấp, thương không quá 3% có nghĩa là phải tăng đầu tư 3% để tăng 1% GDP.
Về nhân tố vốn không chỉ có vấn đề mức vốn đầu tư mà cả hiệu xuất sử dụng vốn để tăng trưởng.
b. Con người .
Con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó là con người có sức khoẻ, có trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình lao động, được tổ chức chặt chẽ.
Nếu tăng trưởng chủ yếu dựa trên việc khai thác tài nguyên thì sự tằn trưởng đó không thể bền vững, do tài nguyên là có hạn: trái lại, muốn tăng trưởng bền vững thì phải dựa trên nhân tố con người, vì tài năng và trí tuệ của con người là bền vững, vô tận.
Muốn phát huy nhân tố con người phải có hệ thống giáo dục, y tế tốt ... Nhân tố học vấn của con người không thể thông qua cơ chế thị trường mà hình thành được. Thị trường tự nó không đủ khả năng cung cấp một nền giáo dục và đào tạo đúng mức. Do vậy, Chính phủ phải đóng vai trò chủ đạo trong việc đào tạo và sử dụng, tuyển chọn nhân tài.
Đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế cao lại tạo điều kiện cho con người có thời gian rỗi nhiều hơn để phát triển trí lực và thể lực. Ví dụ năm 1910 công nhân thế giới phải làm việc ít nhất 3.000 giờ/ 1 năm. ngày nay, người Nhật Bản làm việc 2.000 giờ/ năm, người Mỹ làm việc 1850giờ/ năm, người Đức làm việc 1600giờ/ năm: Nhờ vào mỗi giờ họ sản xuất ra một lượng sản phẩm lớn hơn 50 lần so với 80 năm trước đó. Nhờ tăng trưởng họ đã tăng chi cho các dịch vụ từ 0% lên 8-12% GDP, cho giáo dục từ 2% GDP lên 10% và cao hơn.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
I. Mở đầu
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng cũng là ngày đất nước Việt Nam độc lập thống nhất. Sau hàng chục năm chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm tưởng chưng như không thể phát triển được thì nay đã mở ra thời cơ mới, điều kiện mới. Có thể nói con đường mà Đảng, Nhà nước và chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho đất nước Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn đó là con đường XHCN, con đường vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Con đường trên đã bao hàm toàn bộ mối quanhệ giữa sự tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Không những chỉ riêng các nước XHCN và ngay cả các nước TBCN đều xem mối quan hệ này là yếu tố quan trọng để đất phát triển. Vì thế mà không phải ngâu nhiên bộ môn Kinh tế chính trị lại đưa ra vấn đề nổi cộm này. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét:
II. Nội dung
* Khái niệm
1. Tăng trưởng kinh tế
Trước hết ta cần hiểu thế nào là tăng trưởng kinh tế. Nói ngắn gọn tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân trong một thời kỳ nhất định. Hay nói khác đi đó là sự tăng lên các yếu tố của quá trình sản xuất và do đó tăng lên về số lượng và chất lượng sản phẩm xã hội. Tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra theo hai hướng: Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là tăng về số lượng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (như lao động, đất đai, tiền vốn) trên cơ sở kỹ thuật sản xuất cũ.
Tăng trưởng kinh tế theo chiếu sâu là sự phát triển sản xuất trên cơ sở hoàn thiện các yếu tố sản xuất như sử dụng các tư liệu lao động tiến bộ, các đối tượng lao động ít tốn kém, nâng cao trình độ của người lao động, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng sản xuất .v.v...
Trên thực tế việc tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu được kết hợp với nhau và được sử dụng theo hướng phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước ở các giai đoạn khác nhau.
2. Các nhân tố tăng trưởng kinh tế
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và có nhiều cách phân loại, sắp xếp thứ tự các nhân tố đó xong có một số nhân tố cơ bản như sau:
a. Vốn
Vốn là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích luỹ lại và những của cải tự nhiên ban cho như đất đai, khoáng sản đã được cải toạ và chế biến ... Vốn có thể được biểu hiện dưới hình thức hiện vật và dưới hình thức tiền tệ. Vốn là yếu tố đầu vào của sản xuất. Các nhà khoa học đã tìm ra được mối quan hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư, được gọi là hiệu suất sử dụng vốn sản phẩm gia tăng (ICOR). Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỉ lệ tăng của GDP. Những nền kinh tế thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với các chỉ số ICOR thấp, thương không quá 3% có nghĩa là phải tăng đầu tư 3% để tăng 1% GDP.
Về nhân tố vốn không chỉ có vấn đề mức vốn đầu tư mà cả hiệu xuất sử dụng vốn để tăng trưởng.
b. Con người .
Con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó là con người có sức khoẻ, có trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình lao động, được tổ chức chặt chẽ.
Nếu tăng trưởng chủ yếu dựa trên việc khai thác tài nguyên thì sự tằn trưởng đó không thể bền vững, do tài nguyên là có hạn: trái lại, muốn tăng trưởng bền vững thì phải dựa trên nhân tố con người, vì tài năng và trí tuệ của con người là bền vững, vô tận.
Muốn phát huy nhân tố con người phải có hệ thống giáo dục, y tế tốt ... Nhân tố học vấn của con người không thể thông qua cơ chế thị trường mà hình thành được. Thị trường tự nó không đủ khả năng cung cấp một nền giáo dục và đào tạo đúng mức. Do vậy, Chính phủ phải đóng vai trò chủ đạo trong việc đào tạo và sử dụng, tuyển chọn nhân tài.
Đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế cao lại tạo điều kiện cho con người có thời gian rỗi nhiều hơn để phát triển trí lực và thể lực. Ví dụ năm 1910 công nhân thế giới phải làm việc ít nhất 3.000 giờ/ 1 năm. ngày nay, người Nhật Bản làm việc 2.000 giờ/ năm, người Mỹ làm việc 1850giờ/ năm, người Đức làm việc 1600giờ/ năm: Nhờ vào mỗi giờ họ sản xuất ra một lượng sản phẩm lớn hơn 50 lần so với 80 năm trước đó. Nhờ tăng trưởng họ đã tăng chi cho các dịch vụ từ 0% lên 8-12% GDP, cho giáo dục từ 2% GDP lên 10% và cao hơn.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links