Link tải miễn phí Luận văn: Một số vấn đề logic học trong tác phẩm Organon của Aristotle : Luận văn ThS. Triết học: 60 22 80
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2009
Chủ đề: Aristotle
Logic học
Organon
Triết học cổ đại
Luận văn ThS. Triết học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
Nghiên cứu những tư tưởng logic học trước Aristotle. Làm rõ tiền đề ra đời lôgic học Aristotle. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp lôgic học của Aristotle và một số quan điểm chuẩn bị cho lôgic học. Trình bày và phân tích một số nội dung chính lôgic học của Aristotle được thể hiện trong tác phẩm “Organon” về các hình thức và quy luật của tư duy
Ănghen đã từng nhận định: Không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và
Đế chế La Mã thì không có Châu Âu hiện đại, và không ai có thể phủ nhận được
những giá trị, những thành tựu mà nền văn minh Hy La để lại. Trong đó có thể nói
rằng, những thành tựu triết học của Platon và Aristotle là đỉnh cao của tư tưởng triết
học Hy Lạp cổ đại. Tác động của những tư tưởng do họ đưa ra đến sự phát triển triết
học và văn hóa sau này vượt nhiều lần so với sự tác động của những gì do các bậc
tiền bối của họ tạo ra.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, thời kỳ này triết học lúc đầu thể hiện hoàn
toàn không như là khoa học đặc biệt, không như là lĩnh vực tri thức đặc biệt đã tách
ra được đối tượng nghiên cứu của mình, mà nó xem xét tất cả những gì rơi vào tầm
nhìn của sinh thể tư duy. Khi đó, đối tượng của triết học hòa nhập với đối tượng của
tư duy nói chung, và triết học đồng nghĩa với thế giới quan nói chung. Vì vậy, thời
kỳ này triết học bao chứa trong mình tất cả những tri thức của các khoa học, sự phát
triển của triết học cũng chính là sự phát triển của những hiểu biết khoa học về thế
giới xung quanh.
Triết học thời kỳ này không giản đơn nghiên
phái triết học luôn đấu tranh với nhau để bảo vệ quan điểm của mình. Trong các
cuộc tranh luận triết học đó, tất yếu phải nảy sinh những chuẩn mực của tư duy để
có thể xác định được một lập luận như thế nào là đúng, như thế nào là sai. Tư đó,
các tư tưởng về logic học dần dần được hình thành cùng với sự phát triển của triết
học. Trước khi hệ thống logic học của Aristotle được hình thành như một khoa học
độc lập, thì trong triết học Hy Lạp, các tư tưởng về logic học đã được hình thành,
tuy chưa thành hệ thống. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, đặc điểm bao trùm ở
thời kỳ trước Aristotle này là các tư tưởng triết học và logic học chưa tách bạch
nhau, các quy luật, quy tắc logic hay hình thức tư duy nằm lẫn trong các lập luận
triết học, ngoài ra còn một đặc điểm cần kể đến là ở thời kỳ này những quy luật
của tư duy lẫn lộn với những quy luật của tồn tại.
Nhà triết học đầu tiên có những tư tưởng liên quan đến logic học là nhà triết
học Pacmenit thuộc trường phái Êlê. Ông là người đầu tiên đưa ra công thức siêu
hình học của quy luật đồng nhất (đồng thời cũng là quy luật phi mâu thuẫn): “Tồn
tại có, không có không tồn tại” [trích theo 32, tr. 32].
Zenon, học trò của Pacmenit đã biết dùng quy luật phi mâu thuẫn một cách tự
phát để lập luận chứng minh trong nghịch lý “mũi tên đang bay, không bay” của
mình. Ông là người đầu tiên chỉ ra tính mâu thuẫn của vận động và thể hiện mâu
thuẫn này trong khái niệm vận động, do đó đã bác bỏ vận động như là một thuộc
tính của vật chất.
Aristotle gọi Zenon là người
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2009
Chủ đề: Aristotle
Logic học
Organon
Triết học cổ đại
Luận văn ThS. Triết học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
Nghiên cứu những tư tưởng logic học trước Aristotle. Làm rõ tiền đề ra đời lôgic học Aristotle. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp lôgic học của Aristotle và một số quan điểm chuẩn bị cho lôgic học. Trình bày và phân tích một số nội dung chính lôgic học của Aristotle được thể hiện trong tác phẩm “Organon” về các hình thức và quy luật của tư duy
Ănghen đã từng nhận định: Không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và
Đế chế La Mã thì không có Châu Âu hiện đại, và không ai có thể phủ nhận được
những giá trị, những thành tựu mà nền văn minh Hy La để lại. Trong đó có thể nói
rằng, những thành tựu triết học của Platon và Aristotle là đỉnh cao của tư tưởng triết
học Hy Lạp cổ đại. Tác động của những tư tưởng do họ đưa ra đến sự phát triển triết
học và văn hóa sau này vượt nhiều lần so với sự tác động của những gì do các bậc
tiền bối của họ tạo ra.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, thời kỳ này triết học lúc đầu thể hiện hoàn
toàn không như là khoa học đặc biệt, không như là lĩnh vực tri thức đặc biệt đã tách
ra được đối tượng nghiên cứu của mình, mà nó xem xét tất cả những gì rơi vào tầm
nhìn của sinh thể tư duy. Khi đó, đối tượng của triết học hòa nhập với đối tượng của
tư duy nói chung, và triết học đồng nghĩa với thế giới quan nói chung. Vì vậy, thời
kỳ này triết học bao chứa trong mình tất cả những tri thức của các khoa học, sự phát
triển của triết học cũng chính là sự phát triển của những hiểu biết khoa học về thế
giới xung quanh.
Triết học thời kỳ này không giản đơn nghiên
phái triết học luôn đấu tranh với nhau để bảo vệ quan điểm của mình. Trong các
cuộc tranh luận triết học đó, tất yếu phải nảy sinh những chuẩn mực của tư duy để
có thể xác định được một lập luận như thế nào là đúng, như thế nào là sai. Tư đó,
các tư tưởng về logic học dần dần được hình thành cùng với sự phát triển của triết
học. Trước khi hệ thống logic học của Aristotle được hình thành như một khoa học
độc lập, thì trong triết học Hy Lạp, các tư tưởng về logic học đã được hình thành,
tuy chưa thành hệ thống. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, đặc điểm bao trùm ở
thời kỳ trước Aristotle này là các tư tưởng triết học và logic học chưa tách bạch
nhau, các quy luật, quy tắc logic hay hình thức tư duy nằm lẫn trong các lập luận
triết học, ngoài ra còn một đặc điểm cần kể đến là ở thời kỳ này những quy luật
của tư duy lẫn lộn với những quy luật của tồn tại.
Nhà triết học đầu tiên có những tư tưởng liên quan đến logic học là nhà triết
học Pacmenit thuộc trường phái Êlê. Ông là người đầu tiên đưa ra công thức siêu
hình học của quy luật đồng nhất (đồng thời cũng là quy luật phi mâu thuẫn): “Tồn
tại có, không có không tồn tại” [trích theo 32, tr. 32].
Zenon, học trò của Pacmenit đã biết dùng quy luật phi mâu thuẫn một cách tự
phát để lập luận chứng minh trong nghịch lý “mũi tên đang bay, không bay” của
mình. Ông là người đầu tiên chỉ ra tính mâu thuẫn của vận động và thể hiện mâu
thuẫn này trong khái niệm vận động, do đó đã bác bỏ vận động như là một thuộc
tính của vật chất.
Aristotle gọi Zenon là người
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: