nhi_nhanh767
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Nghiên cứu hiệu quả kinh tế sản xuất chôm chôm chôm nguyên liệu trường hợp nghiên cứu điển hình tại một số xã thuộc tỉnh Đồng Nai và tỉnh Tiền Giang
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................i
2.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế................................................................3
2.2 Quan điểm đánh giá hiệu quả kinh tế của sự phát triển kinh tế sản
xuất.......................................................................................................................5
2.1.3 Phân loại hiệu quả kinh tế .......................................................................7
3.2.2.4 Phương pháp phân tích thông tin.........................................................46
II 4.3.8.5 Tổ chức sản xuất.......................................................................................97
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Yêu cầu sinh thái cây trồng đối với yếu tố khí hậu thời tiết...............Error:
Reference source not found
Bảng 3.2: Tình hình sử dụng đất của TX Long Khánh....Error: Reference source not
found
Bảng 3.3: Hiệu quả kinh tế - xã hội của cây trồng ở TX Long Khánh................Error:
Reference source not found
Bảng 3.4: Tình hình sử dụng đất từ năm 1990 đến năm 2010 của tỉnh Tiền Giang. .Error:
Reference source not found
Bảng 3.5: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (Theo giá so sánh năm 1994)
.................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.6: Nguồn số liệu đã công bố.......................Error: Reference source not found
Bảng 3.7: Tỉ lệ giàu cùng kiệt của các hộ (mẫu) chọn điều tra....Error: Reference source not
found
Bảng 4.1: Diện tích đất nông nghiệp, đất trông cây ăn quả của các hộ...............Error:
Reference source not found
Bảng 4.2: Diện tích, năng suất, sản lượng chôm chôm – TX Long Khánh.........Error:
Reference source not found
Bảng 4.3: Diện tích – năng suất – sản lượng cây ăn quả xã Bình Lộc – Thị Xã long
Khánh tỉnh Đồng Nai thời kỳ 1995 – 2020................Error: Reference source not found
Bảng 4.4: Lý do người dân trồng cây chôm chôm. Error: Reference source not found
Bảng 4.5: Tình hình đất quy hoạch và sự thay đổi diện tích trồng chôm chôm..Error:
Reference source not found
4.1.1.3 Tình hình sử dụng công nghệ sản xuất.......Error: Reference source not found
Bảng 4.6: Nguồn sử dụng giống của hộ.................Error: Reference source not found
Bảng 4.7: Đánh giá chất lượng giống theo ý kiến người dân. Error: Reference source
not found
Bảng 4.8 : Tình hình áp dụng kỹ thuật tiên tiến của hộ....Error: Reference source not
found
Bảng 4.9: Kỹ thuật tiên tiến các hộ áp dụng..........Error: Reference source not found
iv
Bảng 4.10: Tình hình sử dụng công nghệ sau khi thu hoạch..Error: Reference source
not found
Bảng 4.11: Tình hình tham gia các tổ hội sản xuất của các hộ điều tra..............Error:
Reference source not found
Bảng 4.12: Đối tượng, giá bán và số lượng bán sản phẩm của các hộ điều tra...Error:
Reference source not found
Bảng 4.13: Tình hình tiêu thụ chôm chôm của các hộ được điều tra.Error: Reference
source not found
Bảng 4.14: Hiệu quả kinh tế thu được trên 1ha, các loại cây trồng...Error: Reference
source not found
Bảng 4.15: Đầu tư và hoạch toán hiệu quả kinh tế năm kinh doanh cây chôm chôm (1ha)..Error:
Reference source not found
Bảng 4.16: Đầu tư và hạch toán hiệu quả kinh tế năm kinh doanh cây chôm chôm (1ha)
.....................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.17: Đầu tư và hoạch toán hiệu quả kinh tế năm kinh doanh cây chôm chôm (1ha)
.......................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.18: Đầu tư trồng mới và kiến thiết cơ bản cây chôm chôm (DT:1ha)....Error:
Reference source not found
Bảng 4.19: Đầu tư trồng mới và kiến thiết cơ bản cây chôm chôm (Diện tích: 1ha)....Error:
Reference source not found
v
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay cây ăn quả đã trở thành một trong những loại cây là thế mạnh kinh
tế ở Việt Nam. Sản phẩm cây ăn quả ngoài cung cấp cho thị trường trong nước,
đồng thời là nguồn xuất khẩu sang các nước trong khu vực cũng như một số thị
trường lớn trên thế giới như Châu Âu và sắp tới là Hoa Kỳ. Cùng với sự phát triển
của các ngành công nghiệp, sản phẩm cây ăn quả ở Việt Nam ngoài việc sử dụng ăn
tươi, còn là nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Do đó, cây ăn quả có vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Ở Việt Nam cây ăn quả nói chung và Chôm chôm nói riêng ra hoa theo mùa
nên ở thời điểm thu hoạch quả tập trung, giá rẻ trong khi trái vụ rất khan hiếm và
giá lại rất cao. Xuất phát từ thực tế này các hộ nông dân luôn tìm cách để khắc phục
tình trạng trên nhằm mang lại hiệu quả sản xuất cao hơn.
Nước ta được thiên nhiên ưu đãi cho một tiềm năng phát triển cây ăn quả đặc
sản từ Bắc chí Nam. Đất đai phong phú, đa dạng, khí hậu nhiệt đới điển hình tạo
nên các vùng sinh thái đặc trưng cho mỗi miền, cùng với các loại cây ăn quả đặc
trưng cho mỗi vùng sinh thái. Một trong các cây đặc sản đó là Chôm chôm ở Đồng
Nai và Tiền Giang.
Chôm chôm là loại quả chứa nhiều chất dinh dưỡng, được nhiều người ưa
chuộng. Nước ta đang chú trọng xuát khẩu sang các thị trường lớn. Tuy nhiên hiện
nay các hộ trồng chôm chôm ở Đồng Nai và Tiền Giang đang gặp khó khăn trong
việc nâng cao hiệu quả sản xuất Chôm chôm nguyên liệu. Từ thực tế đó ta đặt ta
những câu hỏi bức thiết: Cơ sở lý luận hay thực tiễn nào để đánh giá hiệu quả sản
xuất của các hộ, trang trại? Đánh giá hiệu quả sản xuất của các hộ, trang trại trồng
Chôm chôm nguyên liệu như thế nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hiệu quả
kinh tế của việc trồng Chôm chôm? Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả sản xuất
Chôm chôm nguyên liệu? Từ tình hình thực tế đó tui tiến hành chọn nghiên cứu đề
tài: “Nghiên cứu hiệu quả kinh tế sản xuất Chôm chôm nguyên liệu: trường hợp
nghiên cứu điển hình một số xã tại tỉnh Đồng Nai và tỉnh Tiền Giang”.
1
1.2
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu hiệu quả sản xuất Chôm chôm nguyên liệu của các hộ trồng
chôm chôm tại tỉnh Đồng Nai và tỉnh Tiền Giang.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
(1) Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
khóa luận;
(2) Đánh giá được thực trạng hiệu quả kinh tế sản xuất Chôm chôm nguyên liệu của
các hộ trồng chôm chôm tại tỉnh Đồng Nai và Tiền Giang;
(3) Nghiên cứu, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của các
hộ nông dân trồng Chôm chôm tại tỉnh Đồng Nai và Tiền Giang;
(4) Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất Chôm chôm, tạo thu nhập ổn
định cho các hộ nông dân trồng Chôm chôm nguyên liệu tại tỉnh Đồng Nai và Tiền Giang.
1.3
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Khóa luận nghiên cứu tình hình sản xuất Chôm chôm về thời vụ, giống, các
cách canh tác khác nhau của sản Chôm chôm nguyên liệu. Đối tượng
nghiên cứu là hiệu quả sản xuất của các hộ nông trồng chôm chôm tại tỉnh Đồng
Nai và Tiền Giang.
1.4
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về nội dung
- Hiệu quả kinh tế của trồng Chôm chôm trong nông hộ.
- So sánh hiệu kinh tế của trồng Chôm chôm với cây trồng chủ yếu khác tại
địa phương.
- Xác định biến động, dự báo của việc trồng Chôm chôm trong thời gian tới.
1.4.2 Phạm vi về không gian
Các hộ trồng chôm chôm: Trường hợp nghiên cứu tại xã Bình Lộc Thị Xã
Long Khánh tỉnh Đồng Nai và xã Tân Phong huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang.
1.4.3 Phạm vi về thời gian
- Thời gian nghiên cứu khóa luận: các số liệu đã công bố lấy trong khoảng thời
gian 3 năm: 2008 đến năm 2010.
- Thời gian thực hiện khóa luận: từ 26/01/2011 đến 26/05/2011.
2
PHẦN 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
HIỆU QUẢ KINH TẾ
2.1 Các khái niệm, quan niệm có liên quan
2.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất có liên quan trực tiếp
đến nền sản xuất hàng hoá cùng rất nhiều các phạm trù và các quy luật kinh tế khác.
Có nhiều quan niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Khi đề cập đến hiệu quả các tác
giả Farrell (1950), Schuhz (1964), Rizzo (1979), Đỗ Kim Chung (1997) (Phạm Vân
Đình, 1997) đều thống nhất cần phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản là hiệu quả kĩ
thuật, hiệu quả phân bổ nguồn lực và hiệu quả kinh tế. Đó là khả năng thu được kết
quả sản xuất tối đa với việc sử dụng các yếu tố đầu vào theo những tỉ lệ nhất định.
Theo Farrell chỉ đạt được HQKT khi và chỉ khi đạt được hiệu quả kĩ thuật và cả
hiệu quả phân bổ (David Colman, 1994). Tiêu chuẩn để đánh giá HQKT là cơ sở để
lựa chọn những chỉ tiêu kinh tế phù hợp nhằm đánh giá chất lượng của việc sử dụng
nguồn lực. Trong điều kiện hiện nay để lượng hoá kết quả sản xuất và HQKT của
sản xuất Chôm chôm, chúng tui lựa chọn tiêu chuẩn về tài chính.
Nền sản xuất của chế độ xã hội chủ nghĩa phát triển luôn vì mục đích thoả
mãn ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của mỗi thành viên trong xã
hội. Mức độ thoả mãn này về mặt kinh tế rõ ràng phụ thuộc đáng kể vào khối lượng cơ
cấu và giá trị sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp cũng như sự phù hợp
của nó với nhu cầu của xã hội. Tiêu chuẩn cơ bản của sự lựa chọn các quyết định kinh
tế sản xuất, trong điều kiện đó phải dựa vào hiệu quả kinh tế của sự phát triển.
Khái niệm HQKT mang tính chất tương đối về không gian và thời gian, phụ
thuộc vào trình độ phát triển về kinh tế, xã hội, đặc điểm lịch sử và truyền thống
cũng như những điều kiện tự hiên của mỗi quốc gia, mỗi địa phương và vùng lãnh
thổ ảnh hưởng bởi sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự phát triển và biến
động của nền kinh tế trong nước và quốc tế, sự thay đổi về nhu cầu và thị hiếu
người tiêu dùng. HQKT không phải là mục đích cuối cùng của sản xuất mà phải đáp
ứng nhu cầu vật chất và tinh thần cho toàn xã hội.
3
Khái niệm về hiệu quả sản xuất không chỉ đề cập đến kinh tế tài chính mà
còn gắn với hiệu quả xã hội và môi trường. Mục đích của hoạt động sản xuất kinh
doanh là “sinh lời - lợi nhuận” (Lê Trọng, 1995). Tuy nhiên, trong điều kiện nền
kinh tế mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước thì không nên đơn giản hoá coi lợi nhuận như là tiêu chuẩn
duy nhất để đánh giá HQKT. Các nhà khoa học kinh tế đều thống nhất quan điểm
đánh giá HQKT phải dựa trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội, môi trường.
Cơ sở cho sự phát triển xã hội là tăng lên không ngừng của lực lượng vật
chất. Phát triển kinh tế có hiệu quả tăng khả năng tích luỹ và tiêu dùng, tạo điều
kiện cho việc nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi
trường sinh thái, an ninh quốc phòng… giải quyết tốt những vấn đề xã hội chẳng
những là mục tiêu mà còn là động lực phát triển lâu dài nền kinh tế quốc dân.
Trong nông nghiệp khi đề cập đến HQKT, chúng ta thường nói đến hiệu quả
sử dụng các nguồn lực như đất đai, lao động, vốn … Vậy nói đến hiệu quả kinh tế
như thế nào cho đúng? Về hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp đã được nhiều tác
giả bàn đến như Farrell (1975), Ellis (1993). Các học thuyết đều đi đến thống nhất
là cần phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản về hiệu quả: hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả
phân bổ các nguồn lực và hiệu quả kinh tế.
2.1.2 Hiệu quả kỹ thuật
Theo Nguyễn Tiến Mạnh (1995), Hiệu quả kỹ thuật được hiểu là trình độ kỹ
thuật của người sản xuất trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản
xuất. Hiệu quả kỹ thuật được xác định bằng tỷ số giữa năng suất thực tế đạt đựợc
của người sản xuất so với mức năng suất cao nhất có thể đạt được tại mỗi mức đầu
vào nhất định trong điều kiện công nghệ sản xuất và giá cả các yếu tố đầu vào, đầu
ra không đổi.
Hiệu quả kỹ thuật được áp dụng phổ biến trong kinh tế vi mô để xem xét tình
hình sử dụng nguồn lực cụ thể. Hiệu quả này liên quan đến phương diện vật chất
của sản xuất đem lại cho bao nhiêu đơn vị sản xuất.
Hiệu quả kỹ thuật thường được phản ánh trong mối quan hệ về hàm sản xuất:
Q=f(X1, X2…Xn ). Nó liên quan đến phương diện của sản xuất. Nó phụ thuộc nhiều
4
vào bản chất kỹ thuật, trình độ công nghệ sản xuất, khoa học kỹ thuật được áp dụng
trong quá trình sản xuất kinh doanh, kỹ năng của người sản xuất trong quá trình sản
xuất.
2.1.3 Hiệu quả phân bổ
Theo Nguyễn Tiến Mạnh (1995), Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu để đánh giá
hiệu quả trong yếu tố sản xuất và giá đầu vào, được tính để phản ánh giá trị sản
phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất
của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của yếu tố đầu
ra, vì thế nó còn được gọi là hiệu quả giá. Việc xác định hiệu quả này giống như các
điều kiện về lý thuyết biên để tối đa hoá lợi nhuận, điều đó có nghĩa là giá trị biên của
sản phẩm phải tính bằng giá trị chi phí biên của nguồn lực sử dụng vào sản xuất.
Như vậy: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế mà trong đó đạt hiệu quả
kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị
đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt
được một trong hai yếu tố trên thì mới là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ
để đạt được hiệu quả kinh tế, chỉ khi nào việc sử dụng nguồn lực đạt cả hai chỉ tiêu
trên thì khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế.
Vì vậy khi nhấn mạnh HQKT cần đồng thời quan tâm đến giải quyết
những vấn đề xã hội và môi trường, tạo nên môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh,
môi trường sinh thái phát triển bền vững.
2.2 Quan điểm đánh giá hiệu quả kinh tế của sự phát triển kinh tế sản xuất
Phạm trù HQKT xuất hiện trong các văn bản pháp quy vào năm 1920. Khi
đó người ta mới chỉ nói đến HQKT của vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đến nay đã có
rất nhiều quan điểm khác nhau về HQKT và nó trở thành một phạm trù rất quan
trọng trong nền kinh tế thị trường.
Tiêu chuẩn để đánh giá HQKT sản xuất là vấn đề phức tạp và có nhiều ý
kiến chưa thống nhất. Tuy nhiên, có thể tóm tắt theo 3 quan điểm sau:
* HQKT theo hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng HQKT được xác định
bởi tỉ số giữa kết quả thu được (như các nguồn lực, vật lực, tiền vốn…) và chi phí bỏ
ra để đạt kết quả đó. Theo quan điểm này HQKT được thể hiện qua công thức sau:
5
Kết quả thu được
- HQKT = -------------------------Chi phí bỏ ra
Q
≈ H = ----C
Ưu điểm: Phản ánh rõ việc sử dụng nguồn lực thể hiện thông qua chi phí sản
xuất.
Nhược điểm: Không phản ánh được quy mô của HQKT, có thể trong thực
tiễn tỉ lệ có đạt cao, song mức độ đạt được không đáng kể do lượng tuyệt đối nhỏ và
lợi ích kinh doanh mang lại không nhiều. Theo quan điểm này cũng chưa phân tích
được sự tác động, sự ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực tự nhiên.
* HQKT theo hệ thống quan đểm thứ hai cho rằng HQKT được đo bằng hiệu
số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó.
Theo quan điểm này mà thể hiện dưới dạng công thức tính của nó đó là:
- HQKT = Kết quả thu được – Chi phí bỏ ra ≈ H = Q – C
Ở đây nó phản ánh quy mô HQKT song chưa rõ rệt và chưa phản ánh hết
mong muốn của nhà sản xuất kinh doanh, chưa xác định được năng suất lao động xã
hội và khả năng cung cấp sản phẩm cho xã hội của các cơ sở sản xuất có lợi nhuận
như nhau.
* HQKT hệ thống quan điểm thứ ba cho rằng khác với hai quan điểm trên,
trước hết phải xem xét HQKT trong thành phần biến động giữa chi phí và kết
quả sản xuất. HQKT được biểu hiện bằng tỷ số giữa phần tăng thêm của kết
quả và phần tăng thêm của chi phí, hay còn là quan hệ tỷ số giữa kết quả bổ
sung và chi phí bổ sung. Theo quan điểm này được thể hiện qua công thức sau:
Phần tăng thêm về kết quả thu được
- HQKT = ----------------------------------------------- ≈ H = ∆Q/∆C
Phần tăng thêm chi phí
Có nghĩa là so sánh giữa hai kỳ về chất lượng kết quả, chi phí (mỗi loại cây,
con trên một vụ/diện tích…) nhưng vẫn chưa đầy đủ bởi vì trong thực tiễn kết quả sản
xuất đạt được luôn là hệ quả của chi phí có sẵn cộng với chi phí bổ sung mà ở mức chi
phí có sẵn khác nhau thì hiệu quả kinh tế của chi phí bổ sung cũng khác nhau.
Tóm lại, các quan điểm về HQKT cuối cùng đều có chung một quan điểm đó
6
là sự so sánh giữa:
- Toàn bộ yếu tố đầu vào và toàn bộ yếu tố đầu ra
- Phần tăng thêm tuyệt đối (hay tương đối) của yếu tố đầu ra.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác các yếu
tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và các cách quản lý. Nó được thể hiện bằng
các hệ thống chỉ tiêu thống kê nhằm các mục tiêu cụ thể của chính sách phù hợp với
yêu cầu xã hội. Hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng
mà là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế (Dương Văn Hiểu, 2001).
Một phương án, một giải pháp HQKT cao là phải đạt tương quan tương đối
tối ưu giữa kết quả đem lại và chi phí đầu tư. Việc xác định HQKT phải xem xét đầy
đủ các mối quan hệ giữa hai đại lượng trên và thấy được tiêu chuẩn của HQKT là tối
đa hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí trong điều kiện nguồn lực có hạn nhất định.
2.1.3 Phân loại hiệu quả kinh tế
Do HQKT là một phạm trù kinh tế chung nhất liên quan trực tiếp đến nền
sản xuất hàng hoá với các phạm trù và các quy luật kinh tế. Kết quả một hoạt động
kinh tế không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế, mang lại hiệu quả cho một cá
nhân, một đơn vị mà đồng thời nó tạo ra nhiều kết quả có ảnh hưởng chung và liên
quan đến đời sống kinh tế, xã hội của con người. Để rút ra các nhận xét cụ thể
chúng ta cần thiết phải phân định rõ các quan hệ về hiệu quả và hiệu quả kinh tế.
• Căn cứ vào nội dung hiệu quả gồm:
- Hiệu quả sản xuất
- Hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả xã hội
- Hiệu quả môi trường (HQMT)
• Nếu căn cứ vào mối quan hệ động giữa đầu vào và đầu ra hiệu quả gồm:
- Hiệu quả kỹ thuật
- Hiệu quả phân bổ
- Hiệu quả kinh tế
• Căn cứ vào yêu cầu tổ chức quản lý kinh tế theo cấp, các ngành bao gồm:
- Hiệu quả kinh tế quốc
7
- Hiệu quả kinh tế của vùng lãnh thổ
- Hiệu quả kinh tế khu vực sản xuất vật chất
- Hiệu quả kinh tế khu vực sản xuất phi vật chất
- Hiệu quả kinh tế của từng đơn vị kinh tế
• Căn cứ vào yếu tố cơ bản của sản xuất và cách tác động vào sản
xuất mà có:
- Hiệu quả sử dụng các yếu tố tài nguyên
- Hiệu quả sử dụng lao động
- Hiệu quả sử dụng thiết bị máy móc
- Hiệu quả sử dụng các biện pháp kỹ thuật và quản lý…
2.2 VAI TRÒ, Ý NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT CHÔM CHÔM
Bất kỳ một quốc gia, một ngành kinh tế hay một đơn vị sản xuất kinh doanh
nào đều mong muốn rằng với nguồn lực có hạn làm thế nào để tạo ra lượng sản
phẩm lớn nhất và chất lượng cao nhất nhưng có chi phí thấp nhất. Vì thế nên tất cả
các hoạt động sản xuất đều được tính toán kỹ lưỡng sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Nâng cao hiệu quả kinh tế là cơ hội để tăng lợi nhuận, từ đó các nhà sản xuất tích
lũy vốn và tiếp tục đầu tư tái sản xuất mở rộng, đổi mới công nghệ tạo ra lợi thế
cạnh tranh, mở rộng thi trường … đồng thời không ngừng nâng cao thu nhập cho
người lao động, Đây chính là cái gốc để giải quyết các vấn đề khác.
Đối với sản xuất nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế các nguồn lực trong
đó có hiệu quả sử dụng đất có ý nghĩa hết sức quan trọng. Muốn nâng cao hiệu quả
kinh tế các hình thức sử dụng đất nông nghiệp thì một trong những vấn đề quan
trọng là phải tiết kiệm nguồn lực. Cụ thể với nguồn lực đất đai có hạn, yêu cầu đặt
ra đối với người sử dụng đất là làm sao tạo ra được số lượng nông sản nhiều và chất
lượng cao nhất. Mặt khác, phải không ngừng bồi đắp độ phì của đất. Từ đó sản xuất
mới có cơ hội để tích lũy vốn tập trung vào tái sản xuất mở rộng.
Nâng cao hiệu quả kinh tế là tất yếu của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, ở
các địa vị khác nhau thì có sự quan tâm khác nhau. Đối với người sản xuất, tăng
hiệu quả chính là giúp họ tăng lợi nhuận. Ngược lại, người tiêu dùng muốn tăng
8
hiệu quả chính là họ được sử dụng hàng hóa với giá thành ngày càng hạ và chất
lượng tốt hơn. Khi xã hội càng phát triển, công nghệ ngày càng cao, việc nâng cao
hiệu quả sẽ gặp nhiều thuận lợi. Nâng cao hiệu quả sẽ làm cho cả xã hội có lợi hơn,
lợi ích của người sản xuất và tiêu dùng ngày được nâng lên. Tuy nhiên, việc nâng
cao hiệu quả kinh tế phải đặt trong mối quan hệ bền vững giữa hiệu quả kinh tế với
hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường trước mắt và lâu dài.
Đối với Đồng Nai, Tiền Giang thì cây chôm chôm có đóng góp lớn trong
tăng trưởng doanh thu của ngành rau quả. Nên cần quan tâm hơn nữa tới việc nâng
cao hiệu quả kinh tế trồng cây này, nhất là khi Đồng Nai hiện đang có diện tích
chôm chôm lớn nhất nước (gần 12.000 ha).
2.3 ĐẶC ĐIỂM CỦA HIỆU QUẢ SẢN XUẤT chôm chôm
2.4 NỘI DUNG CỦA HIỆU QUẢ SẢN XUẤT chôm chôm
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất có liên quan trực tiếp
đến nền sản xuất, hiệu quả kinh tế hàng hóa và tất cả các phạm trù và các quy luật
khác. Hiệu quả kinh tế được hiểu là một mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả
đạt được và lượng chi phí bỏ ra. Một phương án hay, một giải pháp kỹ thuật quản lý
có hiệu quả cao là một phương án đạt được tối ưu giữa kết quả đem lại và chi phí sẽ
đầu tư.
Theo các quan điểm trên về hiệu quả kinh tế, thì hiệu quả kinh tế luôn liên
quan đến các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vậy nội dung xác
định hiệu quả kinh doanh bao gồm:
Xác định các yếu tố đầu ra (mục tiêu đạt được): Trước hết hiệu quả kinh tế
các mục tiêu đạt được của từng doanh nghiệp, từng cơ sở sản xuất phải phù hợp với
mục tiêu chung của nền kinh tế tế quốc dân, hàng hóa sản xuất ra phải trao đổi được
trên thị trường, các kết quả đạt được là: Khối lượng sản phẩm, giá trị sản xuất, giá
trị gia tăng, lợi nhuận …
Xác định các yếu tố đầu vào: Đó là chi phí trung gian, chi phí sản xuất, chi
phí lao động và dịch vụ, chi phí vốn đầu tư và đất đai …
2.5 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
2.5.1 Nhóm nhân tố tác động của thị trường
9
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời và phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hoá. Chức năng của thị trường là thực hiện sản phẩm và
thừa nhận lao động làm ra sản phẩm cân đối cung cầu và kích thích nâng cao hiệu
quả sản xuất.
Trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của nền kinh tế, nhu cầu về sản
phẩm cây ăn quả có những đòi hỏi khác nhau. Khi nền kinh tế phát triển còn thấp,
thu nhập của tầng lớp dân cư còn hạn hẹp thì phát triển về chất của sản phẩm chưa
đòi hỏi cao về lượng và giá cả sản phẩm. Thu nhập ngày càng tăng, nhu cầu về vật
chất và tinh thần cũng thay đổi theo hướng vừa tăng số lượng, vừa nâng cao chất
lượng và giá cả có tính cạnh tranh. Điều đó đúng với cả thị trường nội địa và thị
trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
Tác động của thị trường trước hết là thị trường đầu ra (tiêu thụ sản phẩm) có
những bước thăng trầm trong sản xuất cây ăn quả ở nước ta là do chưa đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường đầu ra. Song thị trường đầu vào (bao gồm các dịch vụ kỹ
thuật công nghệ, vốn sản xuất và lao động) cũng có vai trò hết sức quan trọng trong
việc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả trong việc hình thành giá cả sản phẩm là
nhân tố trực tiếp làm thay đổi trạng thái sản xuất, nâng cao chất lượng và khối
lượng sản phẩm cây ăn quả.
2.5.2 Nhóm nhân tố đổi mới công nghệ sản xuất
Đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến thức sao cho nâng cao được
năng lực có thể làm ra sản phẩm nhiều hơn với một số lượng đầu vào như cũ
hay có thể làm ra lượng sản phẩm như cũ với khối lượng đầu vào ít hơn.
Trong nông nghiệp đổi mới công nghệ xảy ra ở mọi lĩnh vực của ngành,
phần lớn thể hiện ở khâu tiền vốn (máy móc, hệ thống tưới tiêu, nhà xưởng…)
nhưng cũng phải kể đến những tiến bộ rõ rệt về giống cây trồng năng suất cao,
giống gia súc đã cải tạo, thức ăn gia súc tiên tiến, phân bón, thuốc trừ sâu hiệu quả
cao. Nhiều đổi mới công nghệ trong ngành nông nghiệp thường là tiết kiệm lao
động sống (trường hợp sử dụng công cụ máy móc mới) hay tiết kiệm đất đai (do
dùng giống có năng suất cao và phân bón có hiệu quả hơn). Sự đổi mới công nghệ
thường thể hiện qua hai hoạt động cơ bản: Đổi mới sản phẩm (sản phẩm mới phù
10
hợp với thị hiếu tiêu dùng) và đổi mới quy trình sản xuất, cả hai nội dung trên đều
quan trọng. Đứng trên góc độ người tiêu dùng thì thường quan tâm đến đổi mới sản
phẩm, nhưng đối với người sản xuất kinh doanh thì lại quan tâm đến đổi mới của quy
trình sản xuất.
Ngày nay, nông dân Việt Nam ngày một tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ
thuật tiên tiến, với những công nghệ hiện đại trong sản xuất thâm canh cũng như tiếp cận
các thông tin trong nước và trên thế giới một cách nhanh chóng. Nông dân đã tự lực trong
sản xuất nâng cao khả năng thu nhập, đảng và chính phủ đã khuyến khích nông dân làm
giàu một cách chính đáng. Trong những năm qua, đảng và nhà nước ta đã có chương trình
mục tiêu quốc gia, nhằm xóa đói giảm cùng kiệt cho nông dân, những dự án xây dựng hạ tầng
nông thôn để rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các vùng.
Tuy nhiên nông thôn, nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Trở ngại lớn nhất là
mặt băng dân trí, đội ngũ cán bộ cơ sở rất hạn chế và còn yếu kém. Vốn, kiến thức
về kỹ thuật, công nghệ thiếu thốn lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém. Những vấn đề
trên đã làm hạn chế việc sản xuất dứa.
Đối với các vùng như Đồng Nai, Tiền Giang do hạn chế về các điều kiện tiền
đề nên lựa chọn việc cải tiến sản phẩm thông qua việc đổi mới quy trình sản xuất là
điều hết sức cần thiết. Để phát huy tính tích cực của công nghệ mới, coi công nghệ
mới là một nhân tố quan trọng và là điều kiện tiên quyết cho phát triển sản xuất và
nâng cao hiệu quả kinh tế cần có sự điều tiết của Nhà nước trong việc phân phối
đầu tư, phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là
nhân tố quan trọng để thúc đẩy ngành sản xuất nông nghiệp phát triển theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2.5.3 Nhóm tổ chức sản xuất và chính sách
Từ những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật sản xuất và những nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển sản xuất và hiệu quả kinh tế của trồng chôm chôm đã nêu ở các phần
trên thì cách sản xuất nông lâm hay nông lâm kết hợp là cách sản
xuất mang lại hiệu quả trên các vùng đất trống đồi núi trọc, phát triển dạng hình
kinh tế vườn - đồi, vườn rừng theo hình thức trang trại là mô hình thích hợp. Những
điển hình hộ nông dân làm giàu nhờ phát triển sản xuất cây ăn quả theo mô hình kinh
11
tế trang trại, theo cách nông lâm kết hợp với kinh tế vườn nhà, vườn đồi khắp
các vùng đều có. Sách lược kinh doanh vườn quả là cần nắm chắc môi trường và xu
thế, có cách nhìn rõ ràng và dài hạn đối với sản phẩm. Phương pháp quản lý vườn quả
nên từ sản xuất mà bàn đến giá thành, chất lượng và mặt hàng tiêu thụ.
Kinh doanh vườn cây ăn quả cần từ bỏ mô hình trước đây. Chỉ lấy sản xuất
làm phương hướng chủ đạo mà coi nhẹ việc tiêu thụ, lấy lợi nhuận làm trọng tâm
mà không xem xét khả năng của ngành đẩy mạnh sức cạnh tranh diện tích vườn
Chôm chôm và sức lao động với sách lược kinh doanh có quan hệ mật thiết với
nhau. Vườn có diện tích lớn, đầu tư lao động trên một đơn vị diện tích tương đối
nhiều, có thể thực thi sách lược kinh doanh phát triển đa dạng các loại Chôm chôm.
Vườn có diện tích nhỏ, có thể xem xét sách lược đặc biệt hoá sản phẩm (sản phẩm
có chất lượng cao).
Nâng cao phẩm chất toàn diện mới có thể tạo nên nhãn hiệu sản phẩm từ đó
tăng thêm giá trị sản phẩm. Quản lý phẩm chất ngay từ khâu giống, trồng và chăm
sóc, cần tiêu chuẩn hoá sản xuất, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, quả sạch, phẩm chất cao
là yêu cầu cấp thiết và là mục tiêu của tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất..
Để nâng cao chất lượng cây ăn quả, sản phẩm cây ăn quả đủ sức cạnh tranh
trên thị trường và cũng để phát huy những sản phẩm truyền thống, cần tổ chức
quy hoạch vùng sản xuất và tổ chức các trung tâm sản xuất cây giống đạt tiêu
chuẩn, ứng dụng các tiến bộ về bảo quản và chế biến quả. Sản phẩm cây ăn quả của
Việt Nam khá đa dạng nhưng chưa trở thành sản phẩm hàng hoá phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng và chưa đủ sức cạnh tranh với nhập từ nước ngoài.
Các chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, chính sách khuyến
khích các trang trại sản xuất và kinh doanh cây ăn quả, chính sách hỗ trợ vốn cho
vùng nghèo, vùng núi để phủ xanh đất trống đồi trọc, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây
dựng chính sách khuyến nông, khuyến lâm… có tác dụng tích cực để phát triển sản
xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất cây ăn quả.
2.5.4 Các yếu tố thuộc về nguồn lực của nông dân
Lao động là yếu tố quan trọng sản xuất nông nghiệp lao động mang lại những đặc
thù riêng so với các nhánh kinh tế khác do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp như
12
tính thời vụ cao, sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên vào các yếu tố tự nhiên, ảnh
hưởng của lối sống cộng đồng… Do đó lao động nước ta mang những đặc điểm chủ yếu
như: lao động dựa vào kinh nghiệm, khả năng tiếp nhận khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn
chế, trình độ dân trí thấp sợ rủi ro…Tuy nhiên người nông dân có đức tính cần cù chịu khó
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, có rất nhiều nông dân có ham muốn làm giàu đó là
yếu tố kích thích phát triển nông nghiệp… Đặc biệt trong sản xuất dứa đòi hỏi ngày càng
cao của khoa học kỹ thuật cho nên người nông dân phải biết kết hợp giữa kinh nghiệm sản
xuất và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao hiệu quả, từng bước
nâng cao đời sống cho người nông dân.
Nguồn lực vốn của các hộ nông dân cũng rất quan trọng, là yếu tố giúp nông dân
quyết định áp dụng, đầu tư các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế. Khi các hộ nông dân chủ động nguồn vốn họ sẽ chủ động tim hiểu
các tiến bộ kỹ thuật mới thuận tiện cho việc áp dụng các phương pháp mới trong sản xuất.
Khi nhà nước chưa thể hỗ trợ kịp thời nguồn vốn thì họ chủ động được trong vấn đề này.
Vốn bằng tiền, vật tư kĩ thuật và lao động kỹ thuật là nhân tố quan trọng
không những để tăng trưởng kinh tế, phát triển sản xuất nông nghiệp mà còn là
nhân tố để phát triển theo một quỹ đạo mong muốn. Những nghiên cứu phân tích sự
tác động của tiền vốn tăng trưởng của các nước đang phát triển, những yếu tố phát
triển cho thấy tích luỹ vốn có tác động đáng kể đến tăng trưởng, đặc biệt giai đoạn
đầu của sự phát triển. Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố đầu
vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất.
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất
của nền kinh tế mà còn là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản
phẩm.
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất
của nền kinh tế mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, vật tư
kỹ thuật và lao động kỹ thuật, tạo thêm việc làm, mở rộng quy mô sản xuất và cuối
cùng cơ cấu sử dụng vốn đầu tư là điều quan trọng trong tác động đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Ở những nước đang phát triển nơi nào những giá trị cơ bản trong nền kinh tế
13
(như tỷ giá, lãi suất, tiền lương) ngang bằng với giá cả các yếu tố sản xuất còn khan
hiếm, nguồn vốn ít ỏi cũng bị phân tán thì ở đó các dự án đầu tư có hiệu quả nhất có
thể là những dự án sử dụng nhiều lao động. Trong tình hình đó, mỗi một sự gia tăng
về nguồn vốn có thể làm cho tổng sản phẩm xã hội tăng lên ở mức độ vượt những
nước mà ở đó nền sản xuất thiên về sử dụng nhiều vốn lớn.
Thực tế ở Việt Nam cũng đã cho kết luận đúng đắn là sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đối với quá trình tăng trưởng còn quan trọng hơn nhiều so với tăng
nguồn vốn đầu tư. Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước dành cho
các tỉnh miền Nam trong có Đồng Nai, Tiền Giang không ít nhưng chưa được sử
dụng tập trung vào khai thác thế mạnh của vùng nên kết quả đạt được còn chưa cao.
2.5.5 Khuyến nông và các dịch vụ công
Để nông nghiệp phát triển bền vững, cần rất nhiều giải pháp. Nhất là làm gì
và làm thế nào để tạo ra sự phát triển có tính đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn luôn luôn là một câu hỏi lớn. Và ngành trồng cây ăn quả cũng không nằm
ngoài những quy luật này. Khuyến nông là một trong những phương pháp cần được
nhân rộng trong điều kiện đưa nông dân Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế quốc tế hiện nay.
Thách thức lớn nhất của nông nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO chính là
khả năng cạnh tranh. So với các nước trong khu vực, ta có hai bất lợi chính trong
cạnh tranh: quy mô sản xuất nhỏ của kinh tế nông hộ và trình độ thấp của công nghệ
ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp. Hệ quả của những bất lợi này sẽ là nguy cơ
phá sản của nông dân sản xuất nhỏ và không thể nâng cao thu nhập cho nông dân vì
sản xuất với giá thành cao và chất lượng sản phẩm thấp, không đáp ứng được yêu
cầu thị trường thế giới. Chính nông dân sẽ là người quyết định lựa chọn quy mô sản
xuất và lựa chọn công nghệ ứng dụng vào sản xuất. Tuy nhiên, để thực hiện điều
này lại phụ thuộc rất lớn vào trình độ kiến thức nông nghiệp của họ.
Có công nghệ sản xuất nông nghiệp mới chưa phải là điều kiện đủ trong việc
nâng cao năng suất nếu có một khoảng cách giữa công nghệ mới với việc người
nông dân vận dụng nó vào thực tế. Dịch vụ thông tin kỹ thuật nông nghiệp cần được
hình thành trên nền tảng có sự đầu tư của Nhà nước nhằm tạo kết nối giữa nơi cung
14
cấp công nghệ mới với người ứng dụng. Người nông dân không sẵn lòng áp dụng
kỹ thuật mới vào thực tế bởi: không biết hay không hiểu về kỹ thuật mới, không có
đủ năng lực để thực hiện, không được chấp nhận về mặt tâm lý, văn hóa và xã hội,
không được thích nghi, không khả thi về kinh tế và không sẵn có điều kiện để áp
dụng.
Để người nông dân áp dụng kỹ thuật mới, phải bằng mọi cách giúp cho chính
bản thân họ thấy được rủi ro nếu không áp dụng kỹ thuật mới hiểu rõ những lợi ích
có được từ việc áp dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp. Như vậy, hệ thống khuyến
nông nhà nước ra đời là cần thiết, và với những phương pháp đa dạng, thích hợp sẽ
tác động làm thay đổi cách nhìn của nông dân, khuyến khích, trợ giúp họ đương đầu
với những khó khăn trong việc áp dụng công nghệ mới nhằm nâng cao thu nhập và
phát triển bền vững nông nghiệp.
Có hai cách tiếp cận chủ yếu để chuyển giao công nghệ mới đến nông dân:
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua cán bộ khuyến nông ở
cơ sở. Đặc biệt là, thông qua cán bộ khuyến nông ở cơ sở sẽ tạo tác động lan truyền
từ những hộ nông dân là cộng tác viên khuyến nông đến những hộ nông dân láng
giềng.
2.5.6 Liên kết trong sản xuất
Tăng cường liên minh công nông tri thức: việc chuyển đổi cách sản
xuất nông nghiệp từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá thì việc liên minh công
nông tri thức có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp cho quá trình sản xuất- chế
biến- tiêu thụ được hiệu quả hơn.
Thực hiện quan hệ hợp tác: Qua liên kết tăng cường quan hệ hợp tác giữa các
bên, giúp cho quan hệ cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.
Giải quyết quan hệ phân phối: thông qua liên kết vấn đề phân phối thu nhập,
trách nhiệm quyền hạn của các bên tham gia liên kết được cụ thể hơn, sản phẩm đến
với người tiêu dùng mạnh hơn.
15
Thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuât: Liên kết giúp cho việc vận dụng,
sử dụng các tiến bộ mới vào sản xuất sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, chất lượng sản
phẩm làm ra tốt hơn.
Tạo sự gắn kết bốn nhà (Nhà nước- nhà khoa học- nhà doanh nghiệp- nhà
nông): khi các nhà cùng tham gia vào liên kết thì hiệu quả thu được sẽ cao hơn,
đồng bộ hơn trong thực hiện. Với việc tham gia của nhà nước (nhà quản lý) tình
trạng chồng chéo về cơ chế chính sách sẽ được hạn chế tối đa thay vào đó là một
chính sách đồng bộ trong sản xuất. Với sự có mặt của nhà khoa học, kỹ thuật tiến
bộ sẽ được cập nhật và áp dụng thường xuyên trong sản xuất thay thế cho những kỹ
thuật lạc hậu không hiệu quả, giống cây - giống con cho năng suất và hiệu quả thấp.
Còn với các doanh nghiệp và người dân thông qua liên kết giúp cho họ yên tâm hơn
trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, ổn định yếu tố đầu vào thị trường đầu
ra, giảm thiểu rủi ro cũng như được chia sẻ rủi ro trong sản xuất, và với sự liên kết
như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá, giúp cho
nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng ngày càng phát triển bền vững
phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế nước nhà theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.5.7 Các yếu tố tự nhiên thuộc hệ sinh thái và môi trường
Do tính mẫn cảm của cây ăn quả đối với yếu tố sinh thái (khí hậu, đất đai,
cây trồng, con người…) nên để hình thành vùng cây ăn quả phải theo quan điểm
sinh thái bền vững.
Các nhà sinh thái học của trường Đại học Đông Nam Á (SUAN) cho rằng hệ
sinh thái nông nghiệp bao gồm hệ xã hội loài người và hệ sinh thái. Từ đó hình
thành nên khái niệm “Hệ sinh thái nhân văn”. Khái niệm đó được đưa ra trên quan
điểm cho rằng có mối quan hệ giữa xã hội loài người và hệ sinh thái.
Có thể hiểu hệ sinh thái nông nghiệp do con người tạo ra và duy trì trên cơ sở
các quy luật khách quan của hệ sinh thái và mục đích thoả mãn nhu cầu nhiều mặt
ngày càng tăng. Hệ sinh thái sinh trưởng mạnh và có năng suất cao là có sự tác
động của con người như cung cấp năng lượng sống và năng lượng quá khứ.
16
Song trước sức ép của sự gia tăng dân số cùng với sự kém phát triển của
TBKT trong nông nghiệp, con người đã khai thác quá mức, làm cho hệ sinh thái có
số lượng ban đầu giảm, kém ổn định, dễ bị huỷ hoại bởi thiên tai và làm cho năng
suất cây trồng giảm, hiệu quả thấp.
Phát triển bền vững là một trong những thay đổi trong đó có sự thay đổi về
nếp nghĩ và cách làm của con người trong việc khai thác tài nguyên, sự giám sát đầu
tư, sự định hướng phát triển công nghệ và nguyện vọng của con người trong hiện tại
và tương lai. Xem xét đánh giá về hiệu quả kinh tế trồng chôm chôm phải trên cơ sở
xem xét đánh giá thực trạng về môi trường sinh thái và trên quan điểm xây dựng
một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
2.5.8 Cơ sở hạ tầng của địa phương
Khi nói đến cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chúng ta thường nhắc tới
các hạng mục công trình như: Đường giao thông (trong thôn, liên thôn, liên xã, liên
huyện...), hệ thống thuỷ lợi (các công trình thuỷ nông tưới tiêu nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp), hệ thống cấp nước sinh hoạt, hệ thống điện, công trình văn hoá
thể thao, trạm y tế, trường học, thông tin liên lạc...
Địa phương có cơ sở hạ tầng tốt thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho nông
dân yên tâm sản xuất. Góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao giá thành
(ví dụ giao thông thuận lợi nên vận chuyển dễ dàng, nhanh chóng, kịp thời) Hệ
thống điện, đường, thủy lợi, … tốt giúp các hộ nông dân sản xuất thuận lợi, giảm
các chi phí không cần thiết, giá thành sản phẩm tăng. Nên hiệu quả kinh tế sẽ được
nâng cao.
2.6 NHỮNG KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN
THẾ GIỚI
2.6.1 Các nét cơ bản về cây chôm chôm
Chôm chôm là loài cây vùng nhiệt đới Đông Nam Á, có tên khoa học là
Nephelium lappaceum L, thuộc họ Bồ đào ( Sapindaceae ). Tên gọi chôm chôm
tượng hình cho trạng thái lông của quả loài cây này, nên người Trung Quốc gọi nó
là hồng mao đan, người Mã Lai gọi là rambutan (trái có lông).
17
Cây chôm chôm là giống cây được trồng đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày nay
được trồng trong các vùng có vĩ độ từ 15° Nam tới 15° Bắc, gồm : châu Phi, châu
Đại Dương, Trung Mỹ và đặc biệt càng ngày càng được trồng nhiều ở châu Úc và
quần đảo Hawai. Cây chôm chôm thích ứng với những vùng đất không bị ngập
nước. Tại Việt Nam, chôm chôm được trồng chủ yếu ở các tỉnh thuộc lưu vực sông
Đồng Nai và khu vực Nam Trung Bộ
2.6.1.1 Đặc tính
Cây chôm chôm thường cao từ 12 đến 15 m, tàng cây hình nón, lá đơn, phiến
lá hình trái xoan, đầu và đuôi lá nhọn, mọc cách, màu xanh hay xanh đậm, ngọn
búp có lớp bao màu hơi đỏ, hoa nhỏ màu trắng, hoa tự chùm ở đầu cành, dài từ 3
đến 5 mm, tỏa mùi thơm dịu, Trái mọc thành chùm màu đỏ, vàng hay vàng cam,
đường kính 4-6 cm. Vỏ có nhiều lông nhọn, mềm, cong. Cơm thường dính vào hột,
nhưng có lo¹i cơm tách rời hột dễ dàng. Cơm dày, trắng trong, ít nước hơn vải, mùi
vị ngon, hơi chua, trái chín trong khoảng 15-18 tuần sau khi kết quả. Chôm chôm có
2 mùa trái trong 1 năm. Đối với cây trưởng thành có thể thu hoạch từ 5.000 đến
6.000 trái mỗi mùa (độ 60-70 kg). Bầu noãn của hoa chôm chôm có hai tâm bì (lá
noãn), tuy nhiên thường chỉ có một tâm bì phát triển thành quả ( rất ít khi cả hai
phát triển thành quả), thời gian phát triển thông thường từ 13 đến 16 tuần lễ. Tỉ lệ
phần thịt quả tăng nhanh bắt đầu từ tuần thứ 9 tới tuần thứ 13, sau đó chậm hẳn cho
tới lúc thu hoạch.
Các vùng đồng bằng châu Á nhiệt đới là nơi phù hợp cho việc trồng và phát
triển cây chôm chôm, và có thể trồng ở độ cao 600m. Chôm chôm có rất nhiều
giống, tuy nhiên ở Việt Nam chỉ có phân biệt chôm chôm thường, chôm chôm tróc
vỏ, chôm chôm nhãn
Cây chôm chôm được phân bố ở một số nước trong khu vực Đông Nam Á
như: Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Malaysia, Philippinnes.
Hạt chôm chôm chứa 35-40% chất dầu béo đặc, có cấu trúc của hạt ca cao,
có mùi dễ chịu, gồm phần lớn là arachidin, cùng với olein và stearin. Vỏ quả chứa
tanin và một saponi độc.Vỏ cây và quả xanh có chứa tanin.
2.6.1.2 Cách gieo trồng
18
Có thể nhân giống chôm chôm bằng hạt hay chiết nhánh. Hoa chôm chôm
hay có giống đực hay có 2 giống, nên không có khả năng tự thụ phấn để tạo quả
nên cần có côn trùng như ong, bướm để phân nhụy.
Lá chôm chôm đòi hỏi mùa nắng tương đối ngắn, khoảng 2 đến 3 tháng, khí
trời khô hạn để tượng hoa và hoa sẽ nở sau trận mưa lớn đầu tiên của mùa nắng kế
tiếp. Chôm chôm đòi hỏi, đất tốt, đất sâu. Vì nhân giống bằng hột thì không giống
cây mẹ và lâu ra trái nên nhân dân hay trồng chôm chôm bằng cách triết cành hoặc
chôm chôm tháp. Khi chiết cành nên dùng gỗ còn non.
Chôm chôm trồng hạt chỉ nên dùng để làm gốc ghép vì cây hột lâu ra trái và
cho trái ít, gần ba phần tư cây hột lại là cây đực, các cây hột là cây cái cũng ít đậu
trái vì ít thụ phấn. Cây tháp thấp hơn cây hột, khoảng 4-5m, tàng cây sum xuê hơn
cây hột.
Hạt chôm chôm khó nảy mầm, khả năng nảy mầm cũng tự mất đi rất nhanh,
sau hai tuần thì hột nảy mầm thất thường, sau ba tuần thì hột không nảy mầm nữa.
Nên trồng hột vào giỏ, thùng, thúng để tránh khỏi cấy lại sau đó. Khi nhân giống
bằng hột thì đặt hột nằm ngang, cho một phần hột trồi lên khỏi mặt đất khoảng vài
mm, sau 15 đến 20 ngày hột sẽ nảy mầm, khi đó cần che các cây con lại tránh
bị nắng. Cây con sẽ kém phát triển nếu đất trồng thiếu chất sắt, độ kiềm. Do vậy cần
hoà thuốc Sequestrene vào nước khi tưới cây ( khoảng 10g trong 4 lít nước ). Khi
cây đủ lớn mới bắt đầu ghép, có thể ghép thân cây hột với nhánh cây tốt, hay ghép
mắt ngủ trên cây con (đã mọc được 3-5 tháng) khoảng 20cm trên gốc ghép. Mắt
ghép cắt ở cành đã mọc được từ 9 tháng trở lên, hay tuốt lá cành làm gỗ ghép trước
15 ngày nhằm kích thích những mầm ngủ mau mọc lại. Sau 20-25 ngày thì tháo
băng ghép, sau khi ghép thành công thì cắt cụt thân gốc ghép ở phia trên và cách xa
chỗ ghép, và phải để cho mầm cây mọc được 30-40cm thì cắt tiếp thân gốc ghép
khoảng 2cm trên chỗ ghép. Thông thường tỷ lệ ghép thành công là 90%.
Nên đào lỗ để trồng trước 3 tháng và trộn đều phân với đất khi đặt cây ghép.
Ngoài 30 kg phân chuồng được ủ kỹ, cần thêm ở mỗi lỗ 50kg urê, 50g triple super
phosphate, 50 g sulfat kali và 500 g vôi có chứa ma-nhê. Chôm chôm trồng hột theo
19
khoảng cách 12 x 12 m, nhưng chôm chôm chiết cành hay ghép thì trồng khít hơn,
cách nhau 9 m. Chôm chôm cơm vàng cũng trồng khít hơn, cách nhau 8 m.
Mật độ trồng hợp lý là từ 300 đến 500 cây/ha; trồng xen chôm chôm đực; sử
dụng thuốc kích thích; nuôi ong để tăng khả năng thụ phấn và xử lý ra hoa trái vụ…
Cây hột thì 5 đến 6 năm mới ra trái bói. Cây ghép chỉ cần 3-5 năm mà thôi.
Sau 8-10 năm thì cây mới ra trái nhiều. Một cây trưởng thành cho chừng 25-200 kg
trái một năm. Trung bình phải từ 100-125 kg trở lên.
2.6.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng cây chôm chôm
a. Khí hậu
- Ánh sáng có ảnh hưởng tới sự chuyển biến màu vỏ của quả, tức là sự
chuyển biến của sắc tố anthocyanins. Quả ở ngoài sáng đỏ tươi, đẹp hơn quả trong
bóng rợp.
- Lượng mưa và độ ẩm rất quan trọng, nhất là trong thời gian quả phát triển
cần nhiều nước. Những quả nhỏ khi chín thường là kết quả của sự thiếu nước trong
những tuần lễ đầu của quá trình phát triển. Như vậy nếu làm quả ra sớm, nghĩa là
phần đầu của quá trình phát triển nằm trong mùa nắng thì vườn cần được tưới nước.
Ngược lại mưa thất thường vào đầu mùa mưa làm cho quả dễ bị nứt vì lúc này ruột
quả phát triển quá mạnh so với phần vỏ. Theo ghi nhận của nhiều nhà làm vườn tại
Thái Lan có những năm tỉ lệ nứt quả trên giống chôm chôm nổi tiếng vỏ mỏng
(rongrien) lên đến trên 50%. Mỗi quả chôm chôm có độ 400 cái râu (lông), trên mỗi
râu có nhiều khẩu bào làm thoát hơi nước mạnh, vì thế hễ độ ẩm không khí thấp sẽ
làm các râu cong queo lại, chuyển qua màu nâu đen, kém chất lượng.
b . Biện pháp canh tác
Có hai biện pháp quan trọng là bón phân và tưới nước:
- Bón phân: cần bón đầy đủ và cân đối, lượng phân và tỉ lệ các loại phân thay
đổi theo tính chất của đất, độ lớn của cây và sản lượng cây. Qua khảo cứu của các
tác giả Thái Lan cho biết trong thời kỳ cây tăng trưởng cần bón N-P-K theo công
thức 16-16-16. Trong thời kỳ thu hoạch theo tỉ lệ N-P-K là 12-12-17 và trong khi
nuôi quả là 13-13-21. Cần bón từ 2 đến 3 lần mỗi năm, lượng phân tăng mỗi năm
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nghiên cứu hiệu quả kinh tế sản xuất chôm chôm chôm nguyên liệu trường hợp nghiên cứu điển hình tại một số xã thuộc tỉnh Đồng Nai và tỉnh Tiền Giang
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................i
2.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế................................................................3
2.2 Quan điểm đánh giá hiệu quả kinh tế của sự phát triển kinh tế sản
xuất.......................................................................................................................5
2.1.3 Phân loại hiệu quả kinh tế .......................................................................7
3.2.2.4 Phương pháp phân tích thông tin.........................................................46
II 4.3.8.5 Tổ chức sản xuất.......................................................................................97
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Yêu cầu sinh thái cây trồng đối với yếu tố khí hậu thời tiết...............Error:
Reference source not found
Bảng 3.2: Tình hình sử dụng đất của TX Long Khánh....Error: Reference source not
found
Bảng 3.3: Hiệu quả kinh tế - xã hội của cây trồng ở TX Long Khánh................Error:
Reference source not found
Bảng 3.4: Tình hình sử dụng đất từ năm 1990 đến năm 2010 của tỉnh Tiền Giang. .Error:
Reference source not found
Bảng 3.5: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (Theo giá so sánh năm 1994)
.................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.6: Nguồn số liệu đã công bố.......................Error: Reference source not found
Bảng 3.7: Tỉ lệ giàu cùng kiệt của các hộ (mẫu) chọn điều tra....Error: Reference source not
found
Bảng 4.1: Diện tích đất nông nghiệp, đất trông cây ăn quả của các hộ...............Error:
Reference source not found
Bảng 4.2: Diện tích, năng suất, sản lượng chôm chôm – TX Long Khánh.........Error:
Reference source not found
Bảng 4.3: Diện tích – năng suất – sản lượng cây ăn quả xã Bình Lộc – Thị Xã long
Khánh tỉnh Đồng Nai thời kỳ 1995 – 2020................Error: Reference source not found
Bảng 4.4: Lý do người dân trồng cây chôm chôm. Error: Reference source not found
Bảng 4.5: Tình hình đất quy hoạch và sự thay đổi diện tích trồng chôm chôm..Error:
Reference source not found
4.1.1.3 Tình hình sử dụng công nghệ sản xuất.......Error: Reference source not found
Bảng 4.6: Nguồn sử dụng giống của hộ.................Error: Reference source not found
Bảng 4.7: Đánh giá chất lượng giống theo ý kiến người dân. Error: Reference source
not found
Bảng 4.8 : Tình hình áp dụng kỹ thuật tiên tiến của hộ....Error: Reference source not
found
Bảng 4.9: Kỹ thuật tiên tiến các hộ áp dụng..........Error: Reference source not found
iv
Bảng 4.10: Tình hình sử dụng công nghệ sau khi thu hoạch..Error: Reference source
not found
Bảng 4.11: Tình hình tham gia các tổ hội sản xuất của các hộ điều tra..............Error:
Reference source not found
Bảng 4.12: Đối tượng, giá bán và số lượng bán sản phẩm của các hộ điều tra...Error:
Reference source not found
Bảng 4.13: Tình hình tiêu thụ chôm chôm của các hộ được điều tra.Error: Reference
source not found
Bảng 4.14: Hiệu quả kinh tế thu được trên 1ha, các loại cây trồng...Error: Reference
source not found
Bảng 4.15: Đầu tư và hoạch toán hiệu quả kinh tế năm kinh doanh cây chôm chôm (1ha)..Error:
Reference source not found
Bảng 4.16: Đầu tư và hạch toán hiệu quả kinh tế năm kinh doanh cây chôm chôm (1ha)
.....................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.17: Đầu tư và hoạch toán hiệu quả kinh tế năm kinh doanh cây chôm chôm (1ha)
.......................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.18: Đầu tư trồng mới và kiến thiết cơ bản cây chôm chôm (DT:1ha)....Error:
Reference source not found
Bảng 4.19: Đầu tư trồng mới và kiến thiết cơ bản cây chôm chôm (Diện tích: 1ha)....Error:
Reference source not found
v
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay cây ăn quả đã trở thành một trong những loại cây là thế mạnh kinh
tế ở Việt Nam. Sản phẩm cây ăn quả ngoài cung cấp cho thị trường trong nước,
đồng thời là nguồn xuất khẩu sang các nước trong khu vực cũng như một số thị
trường lớn trên thế giới như Châu Âu và sắp tới là Hoa Kỳ. Cùng với sự phát triển
của các ngành công nghiệp, sản phẩm cây ăn quả ở Việt Nam ngoài việc sử dụng ăn
tươi, còn là nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Do đó, cây ăn quả có vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Ở Việt Nam cây ăn quả nói chung và Chôm chôm nói riêng ra hoa theo mùa
nên ở thời điểm thu hoạch quả tập trung, giá rẻ trong khi trái vụ rất khan hiếm và
giá lại rất cao. Xuất phát từ thực tế này các hộ nông dân luôn tìm cách để khắc phục
tình trạng trên nhằm mang lại hiệu quả sản xuất cao hơn.
Nước ta được thiên nhiên ưu đãi cho một tiềm năng phát triển cây ăn quả đặc
sản từ Bắc chí Nam. Đất đai phong phú, đa dạng, khí hậu nhiệt đới điển hình tạo
nên các vùng sinh thái đặc trưng cho mỗi miền, cùng với các loại cây ăn quả đặc
trưng cho mỗi vùng sinh thái. Một trong các cây đặc sản đó là Chôm chôm ở Đồng
Nai và Tiền Giang.
Chôm chôm là loại quả chứa nhiều chất dinh dưỡng, được nhiều người ưa
chuộng. Nước ta đang chú trọng xuát khẩu sang các thị trường lớn. Tuy nhiên hiện
nay các hộ trồng chôm chôm ở Đồng Nai và Tiền Giang đang gặp khó khăn trong
việc nâng cao hiệu quả sản xuất Chôm chôm nguyên liệu. Từ thực tế đó ta đặt ta
những câu hỏi bức thiết: Cơ sở lý luận hay thực tiễn nào để đánh giá hiệu quả sản
xuất của các hộ, trang trại? Đánh giá hiệu quả sản xuất của các hộ, trang trại trồng
Chôm chôm nguyên liệu như thế nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hiệu quả
kinh tế của việc trồng Chôm chôm? Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả sản xuất
Chôm chôm nguyên liệu? Từ tình hình thực tế đó tui tiến hành chọn nghiên cứu đề
tài: “Nghiên cứu hiệu quả kinh tế sản xuất Chôm chôm nguyên liệu: trường hợp
nghiên cứu điển hình một số xã tại tỉnh Đồng Nai và tỉnh Tiền Giang”.
1
1.2
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu hiệu quả sản xuất Chôm chôm nguyên liệu của các hộ trồng
chôm chôm tại tỉnh Đồng Nai và tỉnh Tiền Giang.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
(1) Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
khóa luận;
(2) Đánh giá được thực trạng hiệu quả kinh tế sản xuất Chôm chôm nguyên liệu của
các hộ trồng chôm chôm tại tỉnh Đồng Nai và Tiền Giang;
(3) Nghiên cứu, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của các
hộ nông dân trồng Chôm chôm tại tỉnh Đồng Nai và Tiền Giang;
(4) Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất Chôm chôm, tạo thu nhập ổn
định cho các hộ nông dân trồng Chôm chôm nguyên liệu tại tỉnh Đồng Nai và Tiền Giang.
1.3
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Khóa luận nghiên cứu tình hình sản xuất Chôm chôm về thời vụ, giống, các
cách canh tác khác nhau của sản Chôm chôm nguyên liệu. Đối tượng
nghiên cứu là hiệu quả sản xuất của các hộ nông trồng chôm chôm tại tỉnh Đồng
Nai và Tiền Giang.
1.4
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về nội dung
- Hiệu quả kinh tế của trồng Chôm chôm trong nông hộ.
- So sánh hiệu kinh tế của trồng Chôm chôm với cây trồng chủ yếu khác tại
địa phương.
- Xác định biến động, dự báo của việc trồng Chôm chôm trong thời gian tới.
1.4.2 Phạm vi về không gian
Các hộ trồng chôm chôm: Trường hợp nghiên cứu tại xã Bình Lộc Thị Xã
Long Khánh tỉnh Đồng Nai và xã Tân Phong huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang.
1.4.3 Phạm vi về thời gian
- Thời gian nghiên cứu khóa luận: các số liệu đã công bố lấy trong khoảng thời
gian 3 năm: 2008 đến năm 2010.
- Thời gian thực hiện khóa luận: từ 26/01/2011 đến 26/05/2011.
2
PHẦN 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
HIỆU QUẢ KINH TẾ
2.1 Các khái niệm, quan niệm có liên quan
2.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất có liên quan trực tiếp
đến nền sản xuất hàng hoá cùng rất nhiều các phạm trù và các quy luật kinh tế khác.
Có nhiều quan niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Khi đề cập đến hiệu quả các tác
giả Farrell (1950), Schuhz (1964), Rizzo (1979), Đỗ Kim Chung (1997) (Phạm Vân
Đình, 1997) đều thống nhất cần phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản là hiệu quả kĩ
thuật, hiệu quả phân bổ nguồn lực và hiệu quả kinh tế. Đó là khả năng thu được kết
quả sản xuất tối đa với việc sử dụng các yếu tố đầu vào theo những tỉ lệ nhất định.
Theo Farrell chỉ đạt được HQKT khi và chỉ khi đạt được hiệu quả kĩ thuật và cả
hiệu quả phân bổ (David Colman, 1994). Tiêu chuẩn để đánh giá HQKT là cơ sở để
lựa chọn những chỉ tiêu kinh tế phù hợp nhằm đánh giá chất lượng của việc sử dụng
nguồn lực. Trong điều kiện hiện nay để lượng hoá kết quả sản xuất và HQKT của
sản xuất Chôm chôm, chúng tui lựa chọn tiêu chuẩn về tài chính.
Nền sản xuất của chế độ xã hội chủ nghĩa phát triển luôn vì mục đích thoả
mãn ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của mỗi thành viên trong xã
hội. Mức độ thoả mãn này về mặt kinh tế rõ ràng phụ thuộc đáng kể vào khối lượng cơ
cấu và giá trị sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp cũng như sự phù hợp
của nó với nhu cầu của xã hội. Tiêu chuẩn cơ bản của sự lựa chọn các quyết định kinh
tế sản xuất, trong điều kiện đó phải dựa vào hiệu quả kinh tế của sự phát triển.
Khái niệm HQKT mang tính chất tương đối về không gian và thời gian, phụ
thuộc vào trình độ phát triển về kinh tế, xã hội, đặc điểm lịch sử và truyền thống
cũng như những điều kiện tự hiên của mỗi quốc gia, mỗi địa phương và vùng lãnh
thổ ảnh hưởng bởi sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự phát triển và biến
động của nền kinh tế trong nước và quốc tế, sự thay đổi về nhu cầu và thị hiếu
người tiêu dùng. HQKT không phải là mục đích cuối cùng của sản xuất mà phải đáp
ứng nhu cầu vật chất và tinh thần cho toàn xã hội.
3
Khái niệm về hiệu quả sản xuất không chỉ đề cập đến kinh tế tài chính mà
còn gắn với hiệu quả xã hội và môi trường. Mục đích của hoạt động sản xuất kinh
doanh là “sinh lời - lợi nhuận” (Lê Trọng, 1995). Tuy nhiên, trong điều kiện nền
kinh tế mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước thì không nên đơn giản hoá coi lợi nhuận như là tiêu chuẩn
duy nhất để đánh giá HQKT. Các nhà khoa học kinh tế đều thống nhất quan điểm
đánh giá HQKT phải dựa trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội, môi trường.
Cơ sở cho sự phát triển xã hội là tăng lên không ngừng của lực lượng vật
chất. Phát triển kinh tế có hiệu quả tăng khả năng tích luỹ và tiêu dùng, tạo điều
kiện cho việc nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi
trường sinh thái, an ninh quốc phòng… giải quyết tốt những vấn đề xã hội chẳng
những là mục tiêu mà còn là động lực phát triển lâu dài nền kinh tế quốc dân.
Trong nông nghiệp khi đề cập đến HQKT, chúng ta thường nói đến hiệu quả
sử dụng các nguồn lực như đất đai, lao động, vốn … Vậy nói đến hiệu quả kinh tế
như thế nào cho đúng? Về hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp đã được nhiều tác
giả bàn đến như Farrell (1975), Ellis (1993). Các học thuyết đều đi đến thống nhất
là cần phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản về hiệu quả: hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả
phân bổ các nguồn lực và hiệu quả kinh tế.
2.1.2 Hiệu quả kỹ thuật
Theo Nguyễn Tiến Mạnh (1995), Hiệu quả kỹ thuật được hiểu là trình độ kỹ
thuật của người sản xuất trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản
xuất. Hiệu quả kỹ thuật được xác định bằng tỷ số giữa năng suất thực tế đạt đựợc
của người sản xuất so với mức năng suất cao nhất có thể đạt được tại mỗi mức đầu
vào nhất định trong điều kiện công nghệ sản xuất và giá cả các yếu tố đầu vào, đầu
ra không đổi.
Hiệu quả kỹ thuật được áp dụng phổ biến trong kinh tế vi mô để xem xét tình
hình sử dụng nguồn lực cụ thể. Hiệu quả này liên quan đến phương diện vật chất
của sản xuất đem lại cho bao nhiêu đơn vị sản xuất.
Hiệu quả kỹ thuật thường được phản ánh trong mối quan hệ về hàm sản xuất:
Q=f(X1, X2…Xn ). Nó liên quan đến phương diện của sản xuất. Nó phụ thuộc nhiều
4
vào bản chất kỹ thuật, trình độ công nghệ sản xuất, khoa học kỹ thuật được áp dụng
trong quá trình sản xuất kinh doanh, kỹ năng của người sản xuất trong quá trình sản
xuất.
2.1.3 Hiệu quả phân bổ
Theo Nguyễn Tiến Mạnh (1995), Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu để đánh giá
hiệu quả trong yếu tố sản xuất và giá đầu vào, được tính để phản ánh giá trị sản
phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất
của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của yếu tố đầu
ra, vì thế nó còn được gọi là hiệu quả giá. Việc xác định hiệu quả này giống như các
điều kiện về lý thuyết biên để tối đa hoá lợi nhuận, điều đó có nghĩa là giá trị biên của
sản phẩm phải tính bằng giá trị chi phí biên của nguồn lực sử dụng vào sản xuất.
Như vậy: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế mà trong đó đạt hiệu quả
kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị
đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt
được một trong hai yếu tố trên thì mới là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ
để đạt được hiệu quả kinh tế, chỉ khi nào việc sử dụng nguồn lực đạt cả hai chỉ tiêu
trên thì khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế.
Vì vậy khi nhấn mạnh HQKT cần đồng thời quan tâm đến giải quyết
những vấn đề xã hội và môi trường, tạo nên môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh,
môi trường sinh thái phát triển bền vững.
2.2 Quan điểm đánh giá hiệu quả kinh tế của sự phát triển kinh tế sản xuất
Phạm trù HQKT xuất hiện trong các văn bản pháp quy vào năm 1920. Khi
đó người ta mới chỉ nói đến HQKT của vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đến nay đã có
rất nhiều quan điểm khác nhau về HQKT và nó trở thành một phạm trù rất quan
trọng trong nền kinh tế thị trường.
Tiêu chuẩn để đánh giá HQKT sản xuất là vấn đề phức tạp và có nhiều ý
kiến chưa thống nhất. Tuy nhiên, có thể tóm tắt theo 3 quan điểm sau:
* HQKT theo hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng HQKT được xác định
bởi tỉ số giữa kết quả thu được (như các nguồn lực, vật lực, tiền vốn…) và chi phí bỏ
ra để đạt kết quả đó. Theo quan điểm này HQKT được thể hiện qua công thức sau:
5
Kết quả thu được
- HQKT = -------------------------Chi phí bỏ ra
Q
≈ H = ----C
Ưu điểm: Phản ánh rõ việc sử dụng nguồn lực thể hiện thông qua chi phí sản
xuất.
Nhược điểm: Không phản ánh được quy mô của HQKT, có thể trong thực
tiễn tỉ lệ có đạt cao, song mức độ đạt được không đáng kể do lượng tuyệt đối nhỏ và
lợi ích kinh doanh mang lại không nhiều. Theo quan điểm này cũng chưa phân tích
được sự tác động, sự ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực tự nhiên.
* HQKT theo hệ thống quan đểm thứ hai cho rằng HQKT được đo bằng hiệu
số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó.
Theo quan điểm này mà thể hiện dưới dạng công thức tính của nó đó là:
- HQKT = Kết quả thu được – Chi phí bỏ ra ≈ H = Q – C
Ở đây nó phản ánh quy mô HQKT song chưa rõ rệt và chưa phản ánh hết
mong muốn của nhà sản xuất kinh doanh, chưa xác định được năng suất lao động xã
hội và khả năng cung cấp sản phẩm cho xã hội của các cơ sở sản xuất có lợi nhuận
như nhau.
* HQKT hệ thống quan điểm thứ ba cho rằng khác với hai quan điểm trên,
trước hết phải xem xét HQKT trong thành phần biến động giữa chi phí và kết
quả sản xuất. HQKT được biểu hiện bằng tỷ số giữa phần tăng thêm của kết
quả và phần tăng thêm của chi phí, hay còn là quan hệ tỷ số giữa kết quả bổ
sung và chi phí bổ sung. Theo quan điểm này được thể hiện qua công thức sau:
Phần tăng thêm về kết quả thu được
- HQKT = ----------------------------------------------- ≈ H = ∆Q/∆C
Phần tăng thêm chi phí
Có nghĩa là so sánh giữa hai kỳ về chất lượng kết quả, chi phí (mỗi loại cây,
con trên một vụ/diện tích…) nhưng vẫn chưa đầy đủ bởi vì trong thực tiễn kết quả sản
xuất đạt được luôn là hệ quả của chi phí có sẵn cộng với chi phí bổ sung mà ở mức chi
phí có sẵn khác nhau thì hiệu quả kinh tế của chi phí bổ sung cũng khác nhau.
Tóm lại, các quan điểm về HQKT cuối cùng đều có chung một quan điểm đó
6
là sự so sánh giữa:
- Toàn bộ yếu tố đầu vào và toàn bộ yếu tố đầu ra
- Phần tăng thêm tuyệt đối (hay tương đối) của yếu tố đầu ra.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác các yếu
tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và các cách quản lý. Nó được thể hiện bằng
các hệ thống chỉ tiêu thống kê nhằm các mục tiêu cụ thể của chính sách phù hợp với
yêu cầu xã hội. Hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng
mà là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế (Dương Văn Hiểu, 2001).
Một phương án, một giải pháp HQKT cao là phải đạt tương quan tương đối
tối ưu giữa kết quả đem lại và chi phí đầu tư. Việc xác định HQKT phải xem xét đầy
đủ các mối quan hệ giữa hai đại lượng trên và thấy được tiêu chuẩn của HQKT là tối
đa hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí trong điều kiện nguồn lực có hạn nhất định.
2.1.3 Phân loại hiệu quả kinh tế
Do HQKT là một phạm trù kinh tế chung nhất liên quan trực tiếp đến nền
sản xuất hàng hoá với các phạm trù và các quy luật kinh tế. Kết quả một hoạt động
kinh tế không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế, mang lại hiệu quả cho một cá
nhân, một đơn vị mà đồng thời nó tạo ra nhiều kết quả có ảnh hưởng chung và liên
quan đến đời sống kinh tế, xã hội của con người. Để rút ra các nhận xét cụ thể
chúng ta cần thiết phải phân định rõ các quan hệ về hiệu quả và hiệu quả kinh tế.
• Căn cứ vào nội dung hiệu quả gồm:
- Hiệu quả sản xuất
- Hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả xã hội
- Hiệu quả môi trường (HQMT)
• Nếu căn cứ vào mối quan hệ động giữa đầu vào và đầu ra hiệu quả gồm:
- Hiệu quả kỹ thuật
- Hiệu quả phân bổ
- Hiệu quả kinh tế
• Căn cứ vào yêu cầu tổ chức quản lý kinh tế theo cấp, các ngành bao gồm:
- Hiệu quả kinh tế quốc
7
- Hiệu quả kinh tế của vùng lãnh thổ
- Hiệu quả kinh tế khu vực sản xuất vật chất
- Hiệu quả kinh tế khu vực sản xuất phi vật chất
- Hiệu quả kinh tế của từng đơn vị kinh tế
• Căn cứ vào yếu tố cơ bản của sản xuất và cách tác động vào sản
xuất mà có:
- Hiệu quả sử dụng các yếu tố tài nguyên
- Hiệu quả sử dụng lao động
- Hiệu quả sử dụng thiết bị máy móc
- Hiệu quả sử dụng các biện pháp kỹ thuật và quản lý…
2.2 VAI TRÒ, Ý NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT CHÔM CHÔM
Bất kỳ một quốc gia, một ngành kinh tế hay một đơn vị sản xuất kinh doanh
nào đều mong muốn rằng với nguồn lực có hạn làm thế nào để tạo ra lượng sản
phẩm lớn nhất và chất lượng cao nhất nhưng có chi phí thấp nhất. Vì thế nên tất cả
các hoạt động sản xuất đều được tính toán kỹ lưỡng sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Nâng cao hiệu quả kinh tế là cơ hội để tăng lợi nhuận, từ đó các nhà sản xuất tích
lũy vốn và tiếp tục đầu tư tái sản xuất mở rộng, đổi mới công nghệ tạo ra lợi thế
cạnh tranh, mở rộng thi trường … đồng thời không ngừng nâng cao thu nhập cho
người lao động, Đây chính là cái gốc để giải quyết các vấn đề khác.
Đối với sản xuất nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế các nguồn lực trong
đó có hiệu quả sử dụng đất có ý nghĩa hết sức quan trọng. Muốn nâng cao hiệu quả
kinh tế các hình thức sử dụng đất nông nghiệp thì một trong những vấn đề quan
trọng là phải tiết kiệm nguồn lực. Cụ thể với nguồn lực đất đai có hạn, yêu cầu đặt
ra đối với người sử dụng đất là làm sao tạo ra được số lượng nông sản nhiều và chất
lượng cao nhất. Mặt khác, phải không ngừng bồi đắp độ phì của đất. Từ đó sản xuất
mới có cơ hội để tích lũy vốn tập trung vào tái sản xuất mở rộng.
Nâng cao hiệu quả kinh tế là tất yếu của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, ở
các địa vị khác nhau thì có sự quan tâm khác nhau. Đối với người sản xuất, tăng
hiệu quả chính là giúp họ tăng lợi nhuận. Ngược lại, người tiêu dùng muốn tăng
8
hiệu quả chính là họ được sử dụng hàng hóa với giá thành ngày càng hạ và chất
lượng tốt hơn. Khi xã hội càng phát triển, công nghệ ngày càng cao, việc nâng cao
hiệu quả sẽ gặp nhiều thuận lợi. Nâng cao hiệu quả sẽ làm cho cả xã hội có lợi hơn,
lợi ích của người sản xuất và tiêu dùng ngày được nâng lên. Tuy nhiên, việc nâng
cao hiệu quả kinh tế phải đặt trong mối quan hệ bền vững giữa hiệu quả kinh tế với
hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường trước mắt và lâu dài.
Đối với Đồng Nai, Tiền Giang thì cây chôm chôm có đóng góp lớn trong
tăng trưởng doanh thu của ngành rau quả. Nên cần quan tâm hơn nữa tới việc nâng
cao hiệu quả kinh tế trồng cây này, nhất là khi Đồng Nai hiện đang có diện tích
chôm chôm lớn nhất nước (gần 12.000 ha).
2.3 ĐẶC ĐIỂM CỦA HIỆU QUẢ SẢN XUẤT chôm chôm
2.4 NỘI DUNG CỦA HIỆU QUẢ SẢN XUẤT chôm chôm
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất có liên quan trực tiếp
đến nền sản xuất, hiệu quả kinh tế hàng hóa và tất cả các phạm trù và các quy luật
khác. Hiệu quả kinh tế được hiểu là một mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả
đạt được và lượng chi phí bỏ ra. Một phương án hay, một giải pháp kỹ thuật quản lý
có hiệu quả cao là một phương án đạt được tối ưu giữa kết quả đem lại và chi phí sẽ
đầu tư.
Theo các quan điểm trên về hiệu quả kinh tế, thì hiệu quả kinh tế luôn liên
quan đến các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vậy nội dung xác
định hiệu quả kinh doanh bao gồm:
Xác định các yếu tố đầu ra (mục tiêu đạt được): Trước hết hiệu quả kinh tế
các mục tiêu đạt được của từng doanh nghiệp, từng cơ sở sản xuất phải phù hợp với
mục tiêu chung của nền kinh tế tế quốc dân, hàng hóa sản xuất ra phải trao đổi được
trên thị trường, các kết quả đạt được là: Khối lượng sản phẩm, giá trị sản xuất, giá
trị gia tăng, lợi nhuận …
Xác định các yếu tố đầu vào: Đó là chi phí trung gian, chi phí sản xuất, chi
phí lao động và dịch vụ, chi phí vốn đầu tư và đất đai …
2.5 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
2.5.1 Nhóm nhân tố tác động của thị trường
9
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời và phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hoá. Chức năng của thị trường là thực hiện sản phẩm và
thừa nhận lao động làm ra sản phẩm cân đối cung cầu và kích thích nâng cao hiệu
quả sản xuất.
Trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của nền kinh tế, nhu cầu về sản
phẩm cây ăn quả có những đòi hỏi khác nhau. Khi nền kinh tế phát triển còn thấp,
thu nhập của tầng lớp dân cư còn hạn hẹp thì phát triển về chất của sản phẩm chưa
đòi hỏi cao về lượng và giá cả sản phẩm. Thu nhập ngày càng tăng, nhu cầu về vật
chất và tinh thần cũng thay đổi theo hướng vừa tăng số lượng, vừa nâng cao chất
lượng và giá cả có tính cạnh tranh. Điều đó đúng với cả thị trường nội địa và thị
trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
Tác động của thị trường trước hết là thị trường đầu ra (tiêu thụ sản phẩm) có
những bước thăng trầm trong sản xuất cây ăn quả ở nước ta là do chưa đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường đầu ra. Song thị trường đầu vào (bao gồm các dịch vụ kỹ
thuật công nghệ, vốn sản xuất và lao động) cũng có vai trò hết sức quan trọng trong
việc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả trong việc hình thành giá cả sản phẩm là
nhân tố trực tiếp làm thay đổi trạng thái sản xuất, nâng cao chất lượng và khối
lượng sản phẩm cây ăn quả.
2.5.2 Nhóm nhân tố đổi mới công nghệ sản xuất
Đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến thức sao cho nâng cao được
năng lực có thể làm ra sản phẩm nhiều hơn với một số lượng đầu vào như cũ
hay có thể làm ra lượng sản phẩm như cũ với khối lượng đầu vào ít hơn.
Trong nông nghiệp đổi mới công nghệ xảy ra ở mọi lĩnh vực của ngành,
phần lớn thể hiện ở khâu tiền vốn (máy móc, hệ thống tưới tiêu, nhà xưởng…)
nhưng cũng phải kể đến những tiến bộ rõ rệt về giống cây trồng năng suất cao,
giống gia súc đã cải tạo, thức ăn gia súc tiên tiến, phân bón, thuốc trừ sâu hiệu quả
cao. Nhiều đổi mới công nghệ trong ngành nông nghiệp thường là tiết kiệm lao
động sống (trường hợp sử dụng công cụ máy móc mới) hay tiết kiệm đất đai (do
dùng giống có năng suất cao và phân bón có hiệu quả hơn). Sự đổi mới công nghệ
thường thể hiện qua hai hoạt động cơ bản: Đổi mới sản phẩm (sản phẩm mới phù
10
hợp với thị hiếu tiêu dùng) và đổi mới quy trình sản xuất, cả hai nội dung trên đều
quan trọng. Đứng trên góc độ người tiêu dùng thì thường quan tâm đến đổi mới sản
phẩm, nhưng đối với người sản xuất kinh doanh thì lại quan tâm đến đổi mới của quy
trình sản xuất.
Ngày nay, nông dân Việt Nam ngày một tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ
thuật tiên tiến, với những công nghệ hiện đại trong sản xuất thâm canh cũng như tiếp cận
các thông tin trong nước và trên thế giới một cách nhanh chóng. Nông dân đã tự lực trong
sản xuất nâng cao khả năng thu nhập, đảng và chính phủ đã khuyến khích nông dân làm
giàu một cách chính đáng. Trong những năm qua, đảng và nhà nước ta đã có chương trình
mục tiêu quốc gia, nhằm xóa đói giảm cùng kiệt cho nông dân, những dự án xây dựng hạ tầng
nông thôn để rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các vùng.
Tuy nhiên nông thôn, nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Trở ngại lớn nhất là
mặt băng dân trí, đội ngũ cán bộ cơ sở rất hạn chế và còn yếu kém. Vốn, kiến thức
về kỹ thuật, công nghệ thiếu thốn lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém. Những vấn đề
trên đã làm hạn chế việc sản xuất dứa.
Đối với các vùng như Đồng Nai, Tiền Giang do hạn chế về các điều kiện tiền
đề nên lựa chọn việc cải tiến sản phẩm thông qua việc đổi mới quy trình sản xuất là
điều hết sức cần thiết. Để phát huy tính tích cực của công nghệ mới, coi công nghệ
mới là một nhân tố quan trọng và là điều kiện tiên quyết cho phát triển sản xuất và
nâng cao hiệu quả kinh tế cần có sự điều tiết của Nhà nước trong việc phân phối
đầu tư, phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là
nhân tố quan trọng để thúc đẩy ngành sản xuất nông nghiệp phát triển theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2.5.3 Nhóm tổ chức sản xuất và chính sách
Từ những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật sản xuất và những nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển sản xuất và hiệu quả kinh tế của trồng chôm chôm đã nêu ở các phần
trên thì cách sản xuất nông lâm hay nông lâm kết hợp là cách sản
xuất mang lại hiệu quả trên các vùng đất trống đồi núi trọc, phát triển dạng hình
kinh tế vườn - đồi, vườn rừng theo hình thức trang trại là mô hình thích hợp. Những
điển hình hộ nông dân làm giàu nhờ phát triển sản xuất cây ăn quả theo mô hình kinh
11
tế trang trại, theo cách nông lâm kết hợp với kinh tế vườn nhà, vườn đồi khắp
các vùng đều có. Sách lược kinh doanh vườn quả là cần nắm chắc môi trường và xu
thế, có cách nhìn rõ ràng và dài hạn đối với sản phẩm. Phương pháp quản lý vườn quả
nên từ sản xuất mà bàn đến giá thành, chất lượng và mặt hàng tiêu thụ.
Kinh doanh vườn cây ăn quả cần từ bỏ mô hình trước đây. Chỉ lấy sản xuất
làm phương hướng chủ đạo mà coi nhẹ việc tiêu thụ, lấy lợi nhuận làm trọng tâm
mà không xem xét khả năng của ngành đẩy mạnh sức cạnh tranh diện tích vườn
Chôm chôm và sức lao động với sách lược kinh doanh có quan hệ mật thiết với
nhau. Vườn có diện tích lớn, đầu tư lao động trên một đơn vị diện tích tương đối
nhiều, có thể thực thi sách lược kinh doanh phát triển đa dạng các loại Chôm chôm.
Vườn có diện tích nhỏ, có thể xem xét sách lược đặc biệt hoá sản phẩm (sản phẩm
có chất lượng cao).
Nâng cao phẩm chất toàn diện mới có thể tạo nên nhãn hiệu sản phẩm từ đó
tăng thêm giá trị sản phẩm. Quản lý phẩm chất ngay từ khâu giống, trồng và chăm
sóc, cần tiêu chuẩn hoá sản xuất, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, quả sạch, phẩm chất cao
là yêu cầu cấp thiết và là mục tiêu của tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất..
Để nâng cao chất lượng cây ăn quả, sản phẩm cây ăn quả đủ sức cạnh tranh
trên thị trường và cũng để phát huy những sản phẩm truyền thống, cần tổ chức
quy hoạch vùng sản xuất và tổ chức các trung tâm sản xuất cây giống đạt tiêu
chuẩn, ứng dụng các tiến bộ về bảo quản và chế biến quả. Sản phẩm cây ăn quả của
Việt Nam khá đa dạng nhưng chưa trở thành sản phẩm hàng hoá phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng và chưa đủ sức cạnh tranh với nhập từ nước ngoài.
Các chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, chính sách khuyến
khích các trang trại sản xuất và kinh doanh cây ăn quả, chính sách hỗ trợ vốn cho
vùng nghèo, vùng núi để phủ xanh đất trống đồi trọc, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây
dựng chính sách khuyến nông, khuyến lâm… có tác dụng tích cực để phát triển sản
xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất cây ăn quả.
2.5.4 Các yếu tố thuộc về nguồn lực của nông dân
Lao động là yếu tố quan trọng sản xuất nông nghiệp lao động mang lại những đặc
thù riêng so với các nhánh kinh tế khác do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp như
12
tính thời vụ cao, sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên vào các yếu tố tự nhiên, ảnh
hưởng của lối sống cộng đồng… Do đó lao động nước ta mang những đặc điểm chủ yếu
như: lao động dựa vào kinh nghiệm, khả năng tiếp nhận khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn
chế, trình độ dân trí thấp sợ rủi ro…Tuy nhiên người nông dân có đức tính cần cù chịu khó
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, có rất nhiều nông dân có ham muốn làm giàu đó là
yếu tố kích thích phát triển nông nghiệp… Đặc biệt trong sản xuất dứa đòi hỏi ngày càng
cao của khoa học kỹ thuật cho nên người nông dân phải biết kết hợp giữa kinh nghiệm sản
xuất và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao hiệu quả, từng bước
nâng cao đời sống cho người nông dân.
Nguồn lực vốn của các hộ nông dân cũng rất quan trọng, là yếu tố giúp nông dân
quyết định áp dụng, đầu tư các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế. Khi các hộ nông dân chủ động nguồn vốn họ sẽ chủ động tim hiểu
các tiến bộ kỹ thuật mới thuận tiện cho việc áp dụng các phương pháp mới trong sản xuất.
Khi nhà nước chưa thể hỗ trợ kịp thời nguồn vốn thì họ chủ động được trong vấn đề này.
Vốn bằng tiền, vật tư kĩ thuật và lao động kỹ thuật là nhân tố quan trọng
không những để tăng trưởng kinh tế, phát triển sản xuất nông nghiệp mà còn là
nhân tố để phát triển theo một quỹ đạo mong muốn. Những nghiên cứu phân tích sự
tác động của tiền vốn tăng trưởng của các nước đang phát triển, những yếu tố phát
triển cho thấy tích luỹ vốn có tác động đáng kể đến tăng trưởng, đặc biệt giai đoạn
đầu của sự phát triển. Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố đầu
vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất.
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất
của nền kinh tế mà còn là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản
phẩm.
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất
của nền kinh tế mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, vật tư
kỹ thuật và lao động kỹ thuật, tạo thêm việc làm, mở rộng quy mô sản xuất và cuối
cùng cơ cấu sử dụng vốn đầu tư là điều quan trọng trong tác động đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Ở những nước đang phát triển nơi nào những giá trị cơ bản trong nền kinh tế
13
(như tỷ giá, lãi suất, tiền lương) ngang bằng với giá cả các yếu tố sản xuất còn khan
hiếm, nguồn vốn ít ỏi cũng bị phân tán thì ở đó các dự án đầu tư có hiệu quả nhất có
thể là những dự án sử dụng nhiều lao động. Trong tình hình đó, mỗi một sự gia tăng
về nguồn vốn có thể làm cho tổng sản phẩm xã hội tăng lên ở mức độ vượt những
nước mà ở đó nền sản xuất thiên về sử dụng nhiều vốn lớn.
Thực tế ở Việt Nam cũng đã cho kết luận đúng đắn là sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đối với quá trình tăng trưởng còn quan trọng hơn nhiều so với tăng
nguồn vốn đầu tư. Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước dành cho
các tỉnh miền Nam trong có Đồng Nai, Tiền Giang không ít nhưng chưa được sử
dụng tập trung vào khai thác thế mạnh của vùng nên kết quả đạt được còn chưa cao.
2.5.5 Khuyến nông và các dịch vụ công
Để nông nghiệp phát triển bền vững, cần rất nhiều giải pháp. Nhất là làm gì
và làm thế nào để tạo ra sự phát triển có tính đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn luôn luôn là một câu hỏi lớn. Và ngành trồng cây ăn quả cũng không nằm
ngoài những quy luật này. Khuyến nông là một trong những phương pháp cần được
nhân rộng trong điều kiện đưa nông dân Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế quốc tế hiện nay.
Thách thức lớn nhất của nông nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO chính là
khả năng cạnh tranh. So với các nước trong khu vực, ta có hai bất lợi chính trong
cạnh tranh: quy mô sản xuất nhỏ của kinh tế nông hộ và trình độ thấp của công nghệ
ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp. Hệ quả của những bất lợi này sẽ là nguy cơ
phá sản của nông dân sản xuất nhỏ và không thể nâng cao thu nhập cho nông dân vì
sản xuất với giá thành cao và chất lượng sản phẩm thấp, không đáp ứng được yêu
cầu thị trường thế giới. Chính nông dân sẽ là người quyết định lựa chọn quy mô sản
xuất và lựa chọn công nghệ ứng dụng vào sản xuất. Tuy nhiên, để thực hiện điều
này lại phụ thuộc rất lớn vào trình độ kiến thức nông nghiệp của họ.
Có công nghệ sản xuất nông nghiệp mới chưa phải là điều kiện đủ trong việc
nâng cao năng suất nếu có một khoảng cách giữa công nghệ mới với việc người
nông dân vận dụng nó vào thực tế. Dịch vụ thông tin kỹ thuật nông nghiệp cần được
hình thành trên nền tảng có sự đầu tư của Nhà nước nhằm tạo kết nối giữa nơi cung
14
cấp công nghệ mới với người ứng dụng. Người nông dân không sẵn lòng áp dụng
kỹ thuật mới vào thực tế bởi: không biết hay không hiểu về kỹ thuật mới, không có
đủ năng lực để thực hiện, không được chấp nhận về mặt tâm lý, văn hóa và xã hội,
không được thích nghi, không khả thi về kinh tế và không sẵn có điều kiện để áp
dụng.
Để người nông dân áp dụng kỹ thuật mới, phải bằng mọi cách giúp cho chính
bản thân họ thấy được rủi ro nếu không áp dụng kỹ thuật mới hiểu rõ những lợi ích
có được từ việc áp dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp. Như vậy, hệ thống khuyến
nông nhà nước ra đời là cần thiết, và với những phương pháp đa dạng, thích hợp sẽ
tác động làm thay đổi cách nhìn của nông dân, khuyến khích, trợ giúp họ đương đầu
với những khó khăn trong việc áp dụng công nghệ mới nhằm nâng cao thu nhập và
phát triển bền vững nông nghiệp.
Có hai cách tiếp cận chủ yếu để chuyển giao công nghệ mới đến nông dân:
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua cán bộ khuyến nông ở
cơ sở. Đặc biệt là, thông qua cán bộ khuyến nông ở cơ sở sẽ tạo tác động lan truyền
từ những hộ nông dân là cộng tác viên khuyến nông đến những hộ nông dân láng
giềng.
2.5.6 Liên kết trong sản xuất
Tăng cường liên minh công nông tri thức: việc chuyển đổi cách sản
xuất nông nghiệp từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá thì việc liên minh công
nông tri thức có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp cho quá trình sản xuất- chế
biến- tiêu thụ được hiệu quả hơn.
Thực hiện quan hệ hợp tác: Qua liên kết tăng cường quan hệ hợp tác giữa các
bên, giúp cho quan hệ cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.
Giải quyết quan hệ phân phối: thông qua liên kết vấn đề phân phối thu nhập,
trách nhiệm quyền hạn của các bên tham gia liên kết được cụ thể hơn, sản phẩm đến
với người tiêu dùng mạnh hơn.
15
Thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuât: Liên kết giúp cho việc vận dụng,
sử dụng các tiến bộ mới vào sản xuất sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, chất lượng sản
phẩm làm ra tốt hơn.
Tạo sự gắn kết bốn nhà (Nhà nước- nhà khoa học- nhà doanh nghiệp- nhà
nông): khi các nhà cùng tham gia vào liên kết thì hiệu quả thu được sẽ cao hơn,
đồng bộ hơn trong thực hiện. Với việc tham gia của nhà nước (nhà quản lý) tình
trạng chồng chéo về cơ chế chính sách sẽ được hạn chế tối đa thay vào đó là một
chính sách đồng bộ trong sản xuất. Với sự có mặt của nhà khoa học, kỹ thuật tiến
bộ sẽ được cập nhật và áp dụng thường xuyên trong sản xuất thay thế cho những kỹ
thuật lạc hậu không hiệu quả, giống cây - giống con cho năng suất và hiệu quả thấp.
Còn với các doanh nghiệp và người dân thông qua liên kết giúp cho họ yên tâm hơn
trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, ổn định yếu tố đầu vào thị trường đầu
ra, giảm thiểu rủi ro cũng như được chia sẻ rủi ro trong sản xuất, và với sự liên kết
như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá, giúp cho
nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng ngày càng phát triển bền vững
phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế nước nhà theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.5.7 Các yếu tố tự nhiên thuộc hệ sinh thái và môi trường
Do tính mẫn cảm của cây ăn quả đối với yếu tố sinh thái (khí hậu, đất đai,
cây trồng, con người…) nên để hình thành vùng cây ăn quả phải theo quan điểm
sinh thái bền vững.
Các nhà sinh thái học của trường Đại học Đông Nam Á (SUAN) cho rằng hệ
sinh thái nông nghiệp bao gồm hệ xã hội loài người và hệ sinh thái. Từ đó hình
thành nên khái niệm “Hệ sinh thái nhân văn”. Khái niệm đó được đưa ra trên quan
điểm cho rằng có mối quan hệ giữa xã hội loài người và hệ sinh thái.
Có thể hiểu hệ sinh thái nông nghiệp do con người tạo ra và duy trì trên cơ sở
các quy luật khách quan của hệ sinh thái và mục đích thoả mãn nhu cầu nhiều mặt
ngày càng tăng. Hệ sinh thái sinh trưởng mạnh và có năng suất cao là có sự tác
động của con người như cung cấp năng lượng sống và năng lượng quá khứ.
16
Song trước sức ép của sự gia tăng dân số cùng với sự kém phát triển của
TBKT trong nông nghiệp, con người đã khai thác quá mức, làm cho hệ sinh thái có
số lượng ban đầu giảm, kém ổn định, dễ bị huỷ hoại bởi thiên tai và làm cho năng
suất cây trồng giảm, hiệu quả thấp.
Phát triển bền vững là một trong những thay đổi trong đó có sự thay đổi về
nếp nghĩ và cách làm của con người trong việc khai thác tài nguyên, sự giám sát đầu
tư, sự định hướng phát triển công nghệ và nguyện vọng của con người trong hiện tại
và tương lai. Xem xét đánh giá về hiệu quả kinh tế trồng chôm chôm phải trên cơ sở
xem xét đánh giá thực trạng về môi trường sinh thái và trên quan điểm xây dựng
một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
2.5.8 Cơ sở hạ tầng của địa phương
Khi nói đến cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chúng ta thường nhắc tới
các hạng mục công trình như: Đường giao thông (trong thôn, liên thôn, liên xã, liên
huyện...), hệ thống thuỷ lợi (các công trình thuỷ nông tưới tiêu nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp), hệ thống cấp nước sinh hoạt, hệ thống điện, công trình văn hoá
thể thao, trạm y tế, trường học, thông tin liên lạc...
Địa phương có cơ sở hạ tầng tốt thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho nông
dân yên tâm sản xuất. Góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao giá thành
(ví dụ giao thông thuận lợi nên vận chuyển dễ dàng, nhanh chóng, kịp thời) Hệ
thống điện, đường, thủy lợi, … tốt giúp các hộ nông dân sản xuất thuận lợi, giảm
các chi phí không cần thiết, giá thành sản phẩm tăng. Nên hiệu quả kinh tế sẽ được
nâng cao.
2.6 NHỮNG KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN
THẾ GIỚI
2.6.1 Các nét cơ bản về cây chôm chôm
Chôm chôm là loài cây vùng nhiệt đới Đông Nam Á, có tên khoa học là
Nephelium lappaceum L, thuộc họ Bồ đào ( Sapindaceae ). Tên gọi chôm chôm
tượng hình cho trạng thái lông của quả loài cây này, nên người Trung Quốc gọi nó
là hồng mao đan, người Mã Lai gọi là rambutan (trái có lông).
17
Cây chôm chôm là giống cây được trồng đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày nay
được trồng trong các vùng có vĩ độ từ 15° Nam tới 15° Bắc, gồm : châu Phi, châu
Đại Dương, Trung Mỹ và đặc biệt càng ngày càng được trồng nhiều ở châu Úc và
quần đảo Hawai. Cây chôm chôm thích ứng với những vùng đất không bị ngập
nước. Tại Việt Nam, chôm chôm được trồng chủ yếu ở các tỉnh thuộc lưu vực sông
Đồng Nai và khu vực Nam Trung Bộ
2.6.1.1 Đặc tính
Cây chôm chôm thường cao từ 12 đến 15 m, tàng cây hình nón, lá đơn, phiến
lá hình trái xoan, đầu và đuôi lá nhọn, mọc cách, màu xanh hay xanh đậm, ngọn
búp có lớp bao màu hơi đỏ, hoa nhỏ màu trắng, hoa tự chùm ở đầu cành, dài từ 3
đến 5 mm, tỏa mùi thơm dịu, Trái mọc thành chùm màu đỏ, vàng hay vàng cam,
đường kính 4-6 cm. Vỏ có nhiều lông nhọn, mềm, cong. Cơm thường dính vào hột,
nhưng có lo¹i cơm tách rời hột dễ dàng. Cơm dày, trắng trong, ít nước hơn vải, mùi
vị ngon, hơi chua, trái chín trong khoảng 15-18 tuần sau khi kết quả. Chôm chôm có
2 mùa trái trong 1 năm. Đối với cây trưởng thành có thể thu hoạch từ 5.000 đến
6.000 trái mỗi mùa (độ 60-70 kg). Bầu noãn của hoa chôm chôm có hai tâm bì (lá
noãn), tuy nhiên thường chỉ có một tâm bì phát triển thành quả ( rất ít khi cả hai
phát triển thành quả), thời gian phát triển thông thường từ 13 đến 16 tuần lễ. Tỉ lệ
phần thịt quả tăng nhanh bắt đầu từ tuần thứ 9 tới tuần thứ 13, sau đó chậm hẳn cho
tới lúc thu hoạch.
Các vùng đồng bằng châu Á nhiệt đới là nơi phù hợp cho việc trồng và phát
triển cây chôm chôm, và có thể trồng ở độ cao 600m. Chôm chôm có rất nhiều
giống, tuy nhiên ở Việt Nam chỉ có phân biệt chôm chôm thường, chôm chôm tróc
vỏ, chôm chôm nhãn
Cây chôm chôm được phân bố ở một số nước trong khu vực Đông Nam Á
như: Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Malaysia, Philippinnes.
Hạt chôm chôm chứa 35-40% chất dầu béo đặc, có cấu trúc của hạt ca cao,
có mùi dễ chịu, gồm phần lớn là arachidin, cùng với olein và stearin. Vỏ quả chứa
tanin và một saponi độc.Vỏ cây và quả xanh có chứa tanin.
2.6.1.2 Cách gieo trồng
18
Có thể nhân giống chôm chôm bằng hạt hay chiết nhánh. Hoa chôm chôm
hay có giống đực hay có 2 giống, nên không có khả năng tự thụ phấn để tạo quả
nên cần có côn trùng như ong, bướm để phân nhụy.
Lá chôm chôm đòi hỏi mùa nắng tương đối ngắn, khoảng 2 đến 3 tháng, khí
trời khô hạn để tượng hoa và hoa sẽ nở sau trận mưa lớn đầu tiên của mùa nắng kế
tiếp. Chôm chôm đòi hỏi, đất tốt, đất sâu. Vì nhân giống bằng hột thì không giống
cây mẹ và lâu ra trái nên nhân dân hay trồng chôm chôm bằng cách triết cành hoặc
chôm chôm tháp. Khi chiết cành nên dùng gỗ còn non.
Chôm chôm trồng hạt chỉ nên dùng để làm gốc ghép vì cây hột lâu ra trái và
cho trái ít, gần ba phần tư cây hột lại là cây đực, các cây hột là cây cái cũng ít đậu
trái vì ít thụ phấn. Cây tháp thấp hơn cây hột, khoảng 4-5m, tàng cây sum xuê hơn
cây hột.
Hạt chôm chôm khó nảy mầm, khả năng nảy mầm cũng tự mất đi rất nhanh,
sau hai tuần thì hột nảy mầm thất thường, sau ba tuần thì hột không nảy mầm nữa.
Nên trồng hột vào giỏ, thùng, thúng để tránh khỏi cấy lại sau đó. Khi nhân giống
bằng hột thì đặt hột nằm ngang, cho một phần hột trồi lên khỏi mặt đất khoảng vài
mm, sau 15 đến 20 ngày hột sẽ nảy mầm, khi đó cần che các cây con lại tránh
bị nắng. Cây con sẽ kém phát triển nếu đất trồng thiếu chất sắt, độ kiềm. Do vậy cần
hoà thuốc Sequestrene vào nước khi tưới cây ( khoảng 10g trong 4 lít nước ). Khi
cây đủ lớn mới bắt đầu ghép, có thể ghép thân cây hột với nhánh cây tốt, hay ghép
mắt ngủ trên cây con (đã mọc được 3-5 tháng) khoảng 20cm trên gốc ghép. Mắt
ghép cắt ở cành đã mọc được từ 9 tháng trở lên, hay tuốt lá cành làm gỗ ghép trước
15 ngày nhằm kích thích những mầm ngủ mau mọc lại. Sau 20-25 ngày thì tháo
băng ghép, sau khi ghép thành công thì cắt cụt thân gốc ghép ở phia trên và cách xa
chỗ ghép, và phải để cho mầm cây mọc được 30-40cm thì cắt tiếp thân gốc ghép
khoảng 2cm trên chỗ ghép. Thông thường tỷ lệ ghép thành công là 90%.
Nên đào lỗ để trồng trước 3 tháng và trộn đều phân với đất khi đặt cây ghép.
Ngoài 30 kg phân chuồng được ủ kỹ, cần thêm ở mỗi lỗ 50kg urê, 50g triple super
phosphate, 50 g sulfat kali và 500 g vôi có chứa ma-nhê. Chôm chôm trồng hột theo
19
khoảng cách 12 x 12 m, nhưng chôm chôm chiết cành hay ghép thì trồng khít hơn,
cách nhau 9 m. Chôm chôm cơm vàng cũng trồng khít hơn, cách nhau 8 m.
Mật độ trồng hợp lý là từ 300 đến 500 cây/ha; trồng xen chôm chôm đực; sử
dụng thuốc kích thích; nuôi ong để tăng khả năng thụ phấn và xử lý ra hoa trái vụ…
Cây hột thì 5 đến 6 năm mới ra trái bói. Cây ghép chỉ cần 3-5 năm mà thôi.
Sau 8-10 năm thì cây mới ra trái nhiều. Một cây trưởng thành cho chừng 25-200 kg
trái một năm. Trung bình phải từ 100-125 kg trở lên.
2.6.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng cây chôm chôm
a. Khí hậu
- Ánh sáng có ảnh hưởng tới sự chuyển biến màu vỏ của quả, tức là sự
chuyển biến của sắc tố anthocyanins. Quả ở ngoài sáng đỏ tươi, đẹp hơn quả trong
bóng rợp.
- Lượng mưa và độ ẩm rất quan trọng, nhất là trong thời gian quả phát triển
cần nhiều nước. Những quả nhỏ khi chín thường là kết quả của sự thiếu nước trong
những tuần lễ đầu của quá trình phát triển. Như vậy nếu làm quả ra sớm, nghĩa là
phần đầu của quá trình phát triển nằm trong mùa nắng thì vườn cần được tưới nước.
Ngược lại mưa thất thường vào đầu mùa mưa làm cho quả dễ bị nứt vì lúc này ruột
quả phát triển quá mạnh so với phần vỏ. Theo ghi nhận của nhiều nhà làm vườn tại
Thái Lan có những năm tỉ lệ nứt quả trên giống chôm chôm nổi tiếng vỏ mỏng
(rongrien) lên đến trên 50%. Mỗi quả chôm chôm có độ 400 cái râu (lông), trên mỗi
râu có nhiều khẩu bào làm thoát hơi nước mạnh, vì thế hễ độ ẩm không khí thấp sẽ
làm các râu cong queo lại, chuyển qua màu nâu đen, kém chất lượng.
b . Biện pháp canh tác
Có hai biện pháp quan trọng là bón phân và tưới nước:
- Bón phân: cần bón đầy đủ và cân đối, lượng phân và tỉ lệ các loại phân thay
đổi theo tính chất của đất, độ lớn của cây và sản lượng cây. Qua khảo cứu của các
tác giả Thái Lan cho biết trong thời kỳ cây tăng trưởng cần bón N-P-K theo công
thức 16-16-16. Trong thời kỳ thu hoạch theo tỉ lệ N-P-K là 12-12-17 và trong khi
nuôi quả là 13-13-21. Cần bón từ 2 đến 3 lần mỗi năm, lượng phân tăng mỗi năm
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Tags: + Tóm tắt ( tỷ lệ%) thông tin tổng quát của các hộ nông dân (vốn xã hội, vốn con người, quy mô diện tích đấ nông nghiệp, vốn vật chất) so với tỷ lệ % các hộ áp dụng biện pháp SXNN bền vững., PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA MÔ HÌNH CANH TÁC NÔNG NGHIỆP: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP HUYỆN CAI LẬY- TIỀN GIANG
Last edited by a moderator: