conginuakhongem
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Nhờ hai phát hiện vĩ đại của Mác, Anghen duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành có tưởng
Ket-noi.com kho tài liệu miễn phớ
1
9
Đặt vấn đề
Trước đây các nhà XHCN không tưởng chỉ có thể nói về sự bóc lột của TBCN, chỉ mở ra được một xã hội mà hầu như mọi cái chưa thực tế, nhưng khi Mác và Anghen cho ra đời hai phát triển vĩ đại là "Chủ nghĩa duy vật lịch sử và "học thuyết giá trị thặng dư" mà XHCN từ không tưởng trở thành hiện thực. Chính nhờ các học thuyết đó mà sau này các nhà thừa kế xuất sắc như Lê nin đã tiếp thu và phát triển thêm, tiến tới đoàn kết các giai cấp trong xã hội để xây dựng một nhà nước XHCN đầu tiên, không phải là không tưởng, mà là hiện thực, mở ra một thời đại mới, một kỷ nguyên mới của xã hội loài người, đó là xã hội XHCN, lật đổ chế độ TBCN, tư bản nửa phong kiến.
Trong bài viết này, ta chỉ giải thích tại sao nói rằng nhờ hai phát hiện vĩ đại của Mác, Anghen duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành có tưởng.
Giải quyết vấn đề
Trước thời kỳ XHCN ra đời, xã hội luôn làm sự đấu tranh giai cấp, đấu tranh công nông có sự phân hoá sâu sắc, cụ thể là sau khi cộng đồng nguyên thuỷ tan rã, trong các giai cấp tầng lớp bị áp bức bóc lột đã xuất hiện những tư tưởng muốn phủ định xã hội đương thời, những tư tưởng đó khát vọng đó tuy chưa thực sự rõ rệt và đồng nhất với nhau nhưng điều đó có điểm chung là muốn có một xã hội công bằng bình đẳng, bác ái, nhưng đó cũng là một điểm sáng, một khát vọng nhỏ nhoi là những mớ giả thuyết chưa thực tế còn yêu sách. Biện pháp để đạt được những mơ ước khát vọng đó còn rất mơ hồ.
Sau khi CNTB ra đời, để tích luỹ tư bản và tạo ra những đội quân lao động làm thuê, giai cấp tư sản dùng mọi biện pháp để bóc lột giá trị thặng dư, để chiếm đoạt tài sản, mang quân đội đi đánh chiếm những vùng đất khác để biến nó thành thuộc địa của mình để có những nguồn nhân công rẻ mạt biến tài nguyên của nước đó thành của mình. Trong bối cảnh lịch sử đó đã xuất hiện những nhà nước XHCN không tưởng, các ông cho rằng phải có một xã hội thực sự bác ái, phải kết hợp những nguyên tắc của CN nhân đạo với nguyên tắc cộng đồng dựa theo lòng mong muốn và trí tưởng tượng của mình. Những tư tưởng ở thời kỳ này tuy vẫn chỉ là ước mơ nhưng đã được kết tinh thành những học thuyết mang tính chặt chẽ hơn, đã phê phán ngày càng sâu sắc những hạn chế của CNTB và phần nào là tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị áp bức bóc lột ngày càng nặng nề.
Tuy nhiên, những tư tưởng, những học thuyết này ngày càng mang tính chặt chẽ hơn mà sau này các nhà sáng lập CNXH - KH đã thừa kế một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa học vì đã nêu được những luận điểm có giá trị về sự phát triển của xã hội trong tương lai. Hơn nữa, đã nêu được những giá trị nhân đạo, nhân văn, lòng yêu thương, thông cảm và bênh vực đại đa số người lao động, muốn giúp đỡ và giải phóng họ trong các tác phẩm và hành động của mình. Ngoài ra, nó cũng góp phần làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh của giai cấp bị bóc lột.
Tuy vật, CNXH không tưởng còn có những hạn chế của nó là chưa khai phá ra hết bản chất và quy luật vận động của CNTB, chưa phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân - một lực lượng xã hội có đủ khả năng xoá bỏ CNTB để xây dựng thành công CNXH. Lênin từng viết: "CNXH không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không thể giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong XHCNTB, cũng không phát hiện ra những quy luật phát triển của chế độ TBCN và cùng không tìm thấy lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới".
Nhờ hai phát triển vĩ đại của Mác - Ănghen đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà CNXH từ không tưởng trở thành hiện thực. Ta lần lượt xét hai phát kiến đó:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết lịch sử, Mác và Ănghen đã nêu ra quan điểm duy vật lịch sử của mình.
Mác đã từng viết :"Những quan hệ xã hội đều gắn liền với những lực lượng sản xuất. Do có lực lượng sản xuất mới mà loài người thay đổi cách sản xuất của mình và do thay đổi các cách sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp".
Mác đã dùng một tổng thể các quan hệ sản xuất làm tiêu chuẩn trực tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sự nhân loại, tức là trực tiếp phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Về sau Anghen viết:"Trong mỗi thời đại lịch sử, cách chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do cách đó quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử".
Trong học thuyết của mình, Mác đã nhấn mạnh vai trò quyết định của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử. Chứng minh luận điểm này của Mác, Anghen đã cho rằng "Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Do đó, nếu ai coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử, khiến cho nó có nghĩa là nhân tố quyết định duy nhất thì như vậy là họ đã biến thành một câu nói trống rỗng, trìu tượng và vô nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở nhưng mọi yếu tố khác của thượng tầng kiến trúc, sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... là dựa trên sự phát triển kinh tế. Hoàn toàn điều kiện kinh tế không phải là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động". Mác đã nhìn thấy động lực của lịch sử do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. Trong học thuyết của mình Mác đã bác bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung một xã hội cấu thành chỉ bởi con người. Quan điểm phi lịch sử về xã hội phải nhường chỗ cho quan điểm lịch sử. Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là quan hệ hình thành mà không thông qua ý thức. Đó là quan hệ sản xuất mà Mác đã coi những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định mọi quan hệ khác. Mác đã đánh đổ mọi quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có tính chất máy móc, có thể tuỳ ý kiến thay đổi theo đủ kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hoá một cách ngẫu nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Vì vậy những quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã làm sáng tỏ tính chất lịch sử của hình thái kinh tế xã hội TBCN, tính tất yếu và những tiền đề khách quan, chủ quan của cuộc cách mạng XHCN.
Học thuyết giá trị thặng dư.
Bắt đầu từ việc nghiên cứu hình thái tế bào của xã hội CNTB, tức là hình thái hàng hoá, Mác đã nói rõ lên đời sống kinh tế - xã hội của CNTB. ở đây, Mác đã phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Giải thích tính hai mặt này, Mác đã nêu ra mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá (là mâu thuẫn giữa lao động tư nhân với lao động xã hội). Nhờ đó, chính Mác là người đầu tiên đã chỉ rõ: Bất cứ quá trình lao động nào cũng phải đòi hỏi có ba nhân tố chủ yếu là lao động có mục đích cuả con người, đối tượng lao động và công cụ sản xuất. Không thể xem nhẹ hay bất cứ nhân tố nào. Đặc biệt, Mác đã nhấn mạnh vai trò của công cụ sản xuất, Mác nói rằng công cụ sản xuất không tạo ra giá trị mà chỉ là phương tiện mạnh mẽ nhất để nâng cao sức sản xuất của lao động sống. Từ đó Mác đã vạch ra bản chất của giá trị thặng dư và của chế độ tư bản. Mác nói "Tư bản là lao động chết, nó giống như con quỷ hút máu, chỉ sống nhờ hút được lao động sống và nó càng hút được nhiều lao động sống bao nhiêu thì nó lại càng sống được nhiều bấy nhiêu". Mác cũng nói: "Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt sản phẩm mà xét toàn bộ quá trình thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất, còn bản thân lao động thì biểu hiện ra là lao động sản xuất".
Mác đã đề cập đến vai trò của lao động quản lý trong quá trình tạo ra giá trị khi nói về nền sản xuất xã hội hoá: Nền sản xuất xã hội hoá được ví như một dàn hợp xướng, nếu dàn hợp xướng cần có vai trò điều khiển của người nhạc trưởng thì trong công nghiệp phaỉ có những "sĩ quan công nghiệp và hạ sĩ quan". Nếu nhà tư bản là nhà quản lý thì lao động của họ trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, thu nhập của họ từ khoản này là một bộ phận nằm trong tư bản khả biến tức tiền công. Trên thực tế thì nhà tư bản không trực tiếp quản lý sản xuất nhưng vẫn có thu nhập cao trong khi những người công nhân trực tiếp tạo ra của cải vật chất lại được hưởng một phần giá trị thặng dư rất nhỏ.
Như vậy, học thuyết giá trị thặng dư nhằm nghiên cứu quy luật vận động của xã hội tư bản, nó có ý nghĩa vạch trần bản chất bóc lột của chế độ tư bản, vạch rõ mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hoà.
Kết thúc vấn đề
Nhờ hai phát kiến vĩ đại đó của Mác và Ănghen mà sau này Lênin đã thừa kế và phát huy, lãnh đạo nhân dân lao động và giai cấp công nhân đứng lên lật đổ chế độ Nga hoàng và mở ra một thời kỳ mới, một kỷ nguyên mới, một hình thái xã hội mới: Xã hội chủ nghĩa.
Từ một kiểu nhà nước XHCN không tưởng trở thành hiện thực là do hai phát kiến vĩ đại của Mác - Anghen là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhờ hai phát hiện vĩ đại của Mác, Anghen duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành có tưởng
Ket-noi.com kho tài liệu miễn phớ
1
9
Đặt vấn đề
Trước đây các nhà XHCN không tưởng chỉ có thể nói về sự bóc lột của TBCN, chỉ mở ra được một xã hội mà hầu như mọi cái chưa thực tế, nhưng khi Mác và Anghen cho ra đời hai phát triển vĩ đại là "Chủ nghĩa duy vật lịch sử và "học thuyết giá trị thặng dư" mà XHCN từ không tưởng trở thành hiện thực. Chính nhờ các học thuyết đó mà sau này các nhà thừa kế xuất sắc như Lê nin đã tiếp thu và phát triển thêm, tiến tới đoàn kết các giai cấp trong xã hội để xây dựng một nhà nước XHCN đầu tiên, không phải là không tưởng, mà là hiện thực, mở ra một thời đại mới, một kỷ nguyên mới của xã hội loài người, đó là xã hội XHCN, lật đổ chế độ TBCN, tư bản nửa phong kiến.
Trong bài viết này, ta chỉ giải thích tại sao nói rằng nhờ hai phát hiện vĩ đại của Mác, Anghen duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành có tưởng.
Giải quyết vấn đề
Trước thời kỳ XHCN ra đời, xã hội luôn làm sự đấu tranh giai cấp, đấu tranh công nông có sự phân hoá sâu sắc, cụ thể là sau khi cộng đồng nguyên thuỷ tan rã, trong các giai cấp tầng lớp bị áp bức bóc lột đã xuất hiện những tư tưởng muốn phủ định xã hội đương thời, những tư tưởng đó khát vọng đó tuy chưa thực sự rõ rệt và đồng nhất với nhau nhưng điều đó có điểm chung là muốn có một xã hội công bằng bình đẳng, bác ái, nhưng đó cũng là một điểm sáng, một khát vọng nhỏ nhoi là những mớ giả thuyết chưa thực tế còn yêu sách. Biện pháp để đạt được những mơ ước khát vọng đó còn rất mơ hồ.
Sau khi CNTB ra đời, để tích luỹ tư bản và tạo ra những đội quân lao động làm thuê, giai cấp tư sản dùng mọi biện pháp để bóc lột giá trị thặng dư, để chiếm đoạt tài sản, mang quân đội đi đánh chiếm những vùng đất khác để biến nó thành thuộc địa của mình để có những nguồn nhân công rẻ mạt biến tài nguyên của nước đó thành của mình. Trong bối cảnh lịch sử đó đã xuất hiện những nhà nước XHCN không tưởng, các ông cho rằng phải có một xã hội thực sự bác ái, phải kết hợp những nguyên tắc của CN nhân đạo với nguyên tắc cộng đồng dựa theo lòng mong muốn và trí tưởng tượng của mình. Những tư tưởng ở thời kỳ này tuy vẫn chỉ là ước mơ nhưng đã được kết tinh thành những học thuyết mang tính chặt chẽ hơn, đã phê phán ngày càng sâu sắc những hạn chế của CNTB và phần nào là tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị áp bức bóc lột ngày càng nặng nề.
Tuy nhiên, những tư tưởng, những học thuyết này ngày càng mang tính chặt chẽ hơn mà sau này các nhà sáng lập CNXH - KH đã thừa kế một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa học vì đã nêu được những luận điểm có giá trị về sự phát triển của xã hội trong tương lai. Hơn nữa, đã nêu được những giá trị nhân đạo, nhân văn, lòng yêu thương, thông cảm và bênh vực đại đa số người lao động, muốn giúp đỡ và giải phóng họ trong các tác phẩm và hành động của mình. Ngoài ra, nó cũng góp phần làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh của giai cấp bị bóc lột.
Tuy vật, CNXH không tưởng còn có những hạn chế của nó là chưa khai phá ra hết bản chất và quy luật vận động của CNTB, chưa phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân - một lực lượng xã hội có đủ khả năng xoá bỏ CNTB để xây dựng thành công CNXH. Lênin từng viết: "CNXH không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không thể giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong XHCNTB, cũng không phát hiện ra những quy luật phát triển của chế độ TBCN và cùng không tìm thấy lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới".
Nhờ hai phát triển vĩ đại của Mác - Ănghen đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà CNXH từ không tưởng trở thành hiện thực. Ta lần lượt xét hai phát kiến đó:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết lịch sử, Mác và Ănghen đã nêu ra quan điểm duy vật lịch sử của mình.
Mác đã từng viết :"Những quan hệ xã hội đều gắn liền với những lực lượng sản xuất. Do có lực lượng sản xuất mới mà loài người thay đổi cách sản xuất của mình và do thay đổi các cách sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp".
Mác đã dùng một tổng thể các quan hệ sản xuất làm tiêu chuẩn trực tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sự nhân loại, tức là trực tiếp phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Về sau Anghen viết:"Trong mỗi thời đại lịch sử, cách chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do cách đó quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử".
Trong học thuyết của mình, Mác đã nhấn mạnh vai trò quyết định của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử. Chứng minh luận điểm này của Mác, Anghen đã cho rằng "Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Do đó, nếu ai coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử, khiến cho nó có nghĩa là nhân tố quyết định duy nhất thì như vậy là họ đã biến thành một câu nói trống rỗng, trìu tượng và vô nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở nhưng mọi yếu tố khác của thượng tầng kiến trúc, sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... là dựa trên sự phát triển kinh tế. Hoàn toàn điều kiện kinh tế không phải là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động". Mác đã nhìn thấy động lực của lịch sử do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. Trong học thuyết của mình Mác đã bác bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung một xã hội cấu thành chỉ bởi con người. Quan điểm phi lịch sử về xã hội phải nhường chỗ cho quan điểm lịch sử. Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là quan hệ hình thành mà không thông qua ý thức. Đó là quan hệ sản xuất mà Mác đã coi những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định mọi quan hệ khác. Mác đã đánh đổ mọi quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có tính chất máy móc, có thể tuỳ ý kiến thay đổi theo đủ kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hoá một cách ngẫu nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Vì vậy những quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã làm sáng tỏ tính chất lịch sử của hình thái kinh tế xã hội TBCN, tính tất yếu và những tiền đề khách quan, chủ quan của cuộc cách mạng XHCN.
Học thuyết giá trị thặng dư.
Bắt đầu từ việc nghiên cứu hình thái tế bào của xã hội CNTB, tức là hình thái hàng hoá, Mác đã nói rõ lên đời sống kinh tế - xã hội của CNTB. ở đây, Mác đã phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Giải thích tính hai mặt này, Mác đã nêu ra mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá (là mâu thuẫn giữa lao động tư nhân với lao động xã hội). Nhờ đó, chính Mác là người đầu tiên đã chỉ rõ: Bất cứ quá trình lao động nào cũng phải đòi hỏi có ba nhân tố chủ yếu là lao động có mục đích cuả con người, đối tượng lao động và công cụ sản xuất. Không thể xem nhẹ hay bất cứ nhân tố nào. Đặc biệt, Mác đã nhấn mạnh vai trò của công cụ sản xuất, Mác nói rằng công cụ sản xuất không tạo ra giá trị mà chỉ là phương tiện mạnh mẽ nhất để nâng cao sức sản xuất của lao động sống. Từ đó Mác đã vạch ra bản chất của giá trị thặng dư và của chế độ tư bản. Mác nói "Tư bản là lao động chết, nó giống như con quỷ hút máu, chỉ sống nhờ hút được lao động sống và nó càng hút được nhiều lao động sống bao nhiêu thì nó lại càng sống được nhiều bấy nhiêu". Mác cũng nói: "Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt sản phẩm mà xét toàn bộ quá trình thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất, còn bản thân lao động thì biểu hiện ra là lao động sản xuất".
Mác đã đề cập đến vai trò của lao động quản lý trong quá trình tạo ra giá trị khi nói về nền sản xuất xã hội hoá: Nền sản xuất xã hội hoá được ví như một dàn hợp xướng, nếu dàn hợp xướng cần có vai trò điều khiển của người nhạc trưởng thì trong công nghiệp phaỉ có những "sĩ quan công nghiệp và hạ sĩ quan". Nếu nhà tư bản là nhà quản lý thì lao động của họ trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, thu nhập của họ từ khoản này là một bộ phận nằm trong tư bản khả biến tức tiền công. Trên thực tế thì nhà tư bản không trực tiếp quản lý sản xuất nhưng vẫn có thu nhập cao trong khi những người công nhân trực tiếp tạo ra của cải vật chất lại được hưởng một phần giá trị thặng dư rất nhỏ.
Như vậy, học thuyết giá trị thặng dư nhằm nghiên cứu quy luật vận động của xã hội tư bản, nó có ý nghĩa vạch trần bản chất bóc lột của chế độ tư bản, vạch rõ mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hoà.
Kết thúc vấn đề
Nhờ hai phát kiến vĩ đại đó của Mác và Ănghen mà sau này Lênin đã thừa kế và phát huy, lãnh đạo nhân dân lao động và giai cấp công nhân đứng lên lật đổ chế độ Nga hoàng và mở ra một thời kỳ mới, một kỷ nguyên mới, một hình thái xã hội mới: Xã hội chủ nghĩa.
Từ một kiểu nhà nước XHCN không tưởng trở thành hiện thực là do hai phát kiến vĩ đại của Mác - Anghen là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: