Download Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua ảnh hưởng thế nào đến công bằng xã hội
MỤC LỤC
I. Một số vấn đề tổng quan về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.1. Khái quát quan niệm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
II. Sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở việt nam trong những năm qua
2.1. Các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
2.2. Kết quả thực hiện trong 18 năm của thời kỳ đổi mới
III. Một số giải pháp thực hiện tăng trưởng đi đôi với công bằng xã hội của Việt nam trong những năm tới
3.1. Thống nhất và làm sáng tỏ trong nhận thức và quan điểm về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
3.2. Bổ sung, điều chỉnh về chính sách và đổi mới, tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành
3.3. Phát huy sự tham gia tích cực, chủ động của nhân dân và của xã hội
3.4. Điểm mấu chốt của những giải pháp
3.5. mở rộng quan niệm và thực hành về phát triển
IV.Tài liệu tham khảo
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Thứ ba, chính sách phát triển giáo dục - đào tạo: thực hiện quan điểm của Đảng coi “giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu” nhằm phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách giáo dục- đào tạo đã hướng tới mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng trên cơ sở “tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá” trong toàn hệ thống giáo dục quốc dân từ tiểu học đến đại học. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật- chủ yếu được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và hệ thống các cơ quan nghiên cứu và triển khai- đã liên tục gia tăng đáng kể, đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động của nền kinh tế. Chính sách giáo dục- đào tạo cũng hướng đến mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc chăm lo phát triển giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi, cấp học bổng, miễn giảm học phí cho các học sinh, sinh viên hộ gia đình nghèo, mồ côi, tàn tật, gặp hoàn cảnh khó khăn…
Thứ tư, chính sách y tế và chăm lo sức khoẻ nhân dân: trong những năm đổi mới và hội nhập, hệ thống y tế nước ta đã từng bướcđược tăng cường, tạo điều kiện cho tất cả người dân có nhu cầu đều có thể được thụ hưởng các dịch vụ khám, chữa bệnh ở các bệnh viện công và bệnh viện ngoài công lập. Hệ thống bệnh viện, cơ sở y tế đã được trang bị mới máy móc, thiết bị khám, chữa bệnh, tăng cường nguồn lực sản xuất thuốc chữa bệnh và mạng l−ới y tế được tổ chức khắp cả nước tạo điều kiện nâng cao tính bình đẳng trong chăm sóc sức khoẻ của các tầng lớp dân cư. Nhà nước cũng có các chính sách khuyến khích khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, tạo điều kiện cho những đối tượng này được tiếp cận các dịch vụ y tế. Những chính sách trên đã góp phần nâng cao sức khoẻ của nhân dân nói chung, đảm bảo một lực lượng lao động khoẻ mạnh để phục vụ cho phát triển kinh tế.
Ngoài những chính sách kể trên, còn một số chính sách xã hội quan trọng khác có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế như chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, bảo hiểm xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, các biện pháp trợ cấp, v.v. Trong đó công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình đã đạt được nhiều tiến bộ, phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong nhân dân cả nước có những chuyển biến mạnh mẽ, ngày càng có thêm nhiều thôn, xã, kể cả ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, liên tục trong nhiều năm không có người sinh con thứ ba trở lên. Kiểm soát được tốc độ gia tăng dân số là một yếu tố đặc biệt quan trọng để có tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
2.1.3. Đánh giá chung
Tựu trung lại, việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội thông qua các chính sách phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Sự thống nhất giữa các chính sách tăng trưởng kinh tế và các chính sách xã hội ngày càng được thể hiện rõ nét, ngay từ trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách cho đến các nội dung chính sách. Trong nhiều trường hợp, các chính sách kinh tế nhằm vào một trong những mục tiêu quan trọng là cải thiện công bằng xã hội. Thí dụ, các chính sách khuyến khích đầu tư, kinh doanh có một trong những mục tiêu quan trọng là tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập của các bộ phận dân cư. Ngược lại, có không ít chính sách xã hội nhằm vào mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thí dụ, chính sách phát triển giáo dục- đào tạo có một trong những mục tiêu quan trọng là tạo ra một nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao về lao động của nền kinh tế. Trong quá trình thực thi các chính sách, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô nhằm đảm bảo tự do kinh doanh theo pháp luật, đồng thời cải thiện công bằng xã hội.
Những kết quả tích cực đạt được đã khẳng định rõ hơn mục tiêu thực hiện “tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bướcphát triển” của nước ta. Tuy nhiên, việc kết hợp các chính sách tăng trưởng kinh tế và chính sách công bằng xã hội vẫn còn những khiếm khuyết cần khắc phục. Do những ràng buộc khách quan của nền kinh tế, cho nên nhiều mục tiêu về công bằng xã hội khó có thể được đáp ứng trong khi những yêu cầu về chính sách kinh tế là mang tính khách quan, buộc chúng ta phải thực hiện trước sức ép hội nhập và các yếu tố khác. Hệ quả là trong xã hội có nảy sinh những bất bình đẳng mới hay một số bất bình đẳng có chiều hướng gia tăng. Thí dụ, tăng trưởng kinh tế đã cải thiện thu nhập cho tất cả các bộ phận dân cư, tuy nhiên tỷ lệ giữa nhóm 20% giàu nhất với nhóm 20% cùng kiệt nhất trong dân số lại có xu hướng gia tăng. Trong một số lĩnh vực, tính chất độc quyền và bao cấp của Nhà nước còn nặng nề, rất chậm được xoá bỏ hay giảm thiểu, vừa triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế vừa duy trì dai dẳng sự bất bình đẳng. Trong giới hoạch định và thực thi chính sách, vẫn tồn tại tư duy cũ của thời kỳ bao cấp, muốn níu kéo những lợi ích cục bộ mà không muốn đổi mới, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng của chính sách cũng như hiệu lực thực thi chính sách. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa xác định được giãn cách giàu cùng kiệt hợp lý để kinh tế tăng trưởng mà vẫn giữ được công bằng xã hội, điều này gây ra không ít khó khăn, lúng túng trong giới hoạch định chính sách.
2.2. Kết quả thực hiện trong thời gian qua của Việt Nam
2.2.1. Thành quả về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong suốt thời gian qua chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và khá ổn định. Nếu như thời kỳ trước đổi mới 1976- 1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở nước ta chỉ đạt khoảng 2%, thì sau khi đổi mới tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm được ghi nhận là 4,5% trong giai đoạn 1986-1990, 8,4% trong giai đoạn 1991-1997, và vẫn đạt tới 6,4% trong giai đoạn 1998-2003 cho dù nền kinh tế phải chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế châu á. Đặc biệt trong 3 năm từ 20005 đến 2007 tăng trưởng đều đạt trên 8%,là một con số rất cao.
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của nư
Download Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua ảnh hưởng thế nào đến công bằng xã hội miễn phí
MỤC LỤC
I. Một số vấn đề tổng quan về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.1. Khái quát quan niệm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
II. Sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở việt nam trong những năm qua
2.1. Các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
2.2. Kết quả thực hiện trong 18 năm của thời kỳ đổi mới
III. Một số giải pháp thực hiện tăng trưởng đi đôi với công bằng xã hội của Việt nam trong những năm tới
3.1. Thống nhất và làm sáng tỏ trong nhận thức và quan điểm về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
3.2. Bổ sung, điều chỉnh về chính sách và đổi mới, tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành
3.3. Phát huy sự tham gia tích cực, chủ động của nhân dân và của xã hội
3.4. Điểm mấu chốt của những giải pháp
3.5. mở rộng quan niệm và thực hành về phát triển
IV.Tài liệu tham khảo
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
năm 2000 đến năm 2007 tỷ lệ hộ cùng kiệt đã giảm nhanh từ 19% xuống 7% năm 2007, ngoài ra còn có các nguồn vốn huy động từ cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Kết quả là đã thúc đẩy sự dịch chuyển các hộ cùng kiệt lên nhóm hộ có mức sống khá hơn, thậm chí không ít hộ đã vượt lên nhóm hộ khá, giàu, tạo điều kiện và động lực giúp các hộ cùng kiệt khác cùng vươn lên. Chính sách xoá đói giảm cùng kiệt cũng đã góp phần làm giảm đáng kể sự bất bình đẳng xã hội giữa thành thị và nông thôn.Thứ ba, chính sách phát triển giáo dục - đào tạo: thực hiện quan điểm của Đảng coi “giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu” nhằm phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách giáo dục- đào tạo đã hướng tới mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng trên cơ sở “tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá” trong toàn hệ thống giáo dục quốc dân từ tiểu học đến đại học. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật- chủ yếu được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và hệ thống các cơ quan nghiên cứu và triển khai- đã liên tục gia tăng đáng kể, đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động của nền kinh tế. Chính sách giáo dục- đào tạo cũng hướng đến mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc chăm lo phát triển giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi, cấp học bổng, miễn giảm học phí cho các học sinh, sinh viên hộ gia đình nghèo, mồ côi, tàn tật, gặp hoàn cảnh khó khăn…
Thứ tư, chính sách y tế và chăm lo sức khoẻ nhân dân: trong những năm đổi mới và hội nhập, hệ thống y tế nước ta đã từng bướcđược tăng cường, tạo điều kiện cho tất cả người dân có nhu cầu đều có thể được thụ hưởng các dịch vụ khám, chữa bệnh ở các bệnh viện công và bệnh viện ngoài công lập. Hệ thống bệnh viện, cơ sở y tế đã được trang bị mới máy móc, thiết bị khám, chữa bệnh, tăng cường nguồn lực sản xuất thuốc chữa bệnh và mạng l−ới y tế được tổ chức khắp cả nước tạo điều kiện nâng cao tính bình đẳng trong chăm sóc sức khoẻ của các tầng lớp dân cư. Nhà nước cũng có các chính sách khuyến khích khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, tạo điều kiện cho những đối tượng này được tiếp cận các dịch vụ y tế. Những chính sách trên đã góp phần nâng cao sức khoẻ của nhân dân nói chung, đảm bảo một lực lượng lao động khoẻ mạnh để phục vụ cho phát triển kinh tế.
Ngoài những chính sách kể trên, còn một số chính sách xã hội quan trọng khác có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế như chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, bảo hiểm xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, các biện pháp trợ cấp, v.v. Trong đó công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình đã đạt được nhiều tiến bộ, phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong nhân dân cả nước có những chuyển biến mạnh mẽ, ngày càng có thêm nhiều thôn, xã, kể cả ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, liên tục trong nhiều năm không có người sinh con thứ ba trở lên. Kiểm soát được tốc độ gia tăng dân số là một yếu tố đặc biệt quan trọng để có tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
2.1.3. Đánh giá chung
Tựu trung lại, việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội thông qua các chính sách phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Sự thống nhất giữa các chính sách tăng trưởng kinh tế và các chính sách xã hội ngày càng được thể hiện rõ nét, ngay từ trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách cho đến các nội dung chính sách. Trong nhiều trường hợp, các chính sách kinh tế nhằm vào một trong những mục tiêu quan trọng là cải thiện công bằng xã hội. Thí dụ, các chính sách khuyến khích đầu tư, kinh doanh có một trong những mục tiêu quan trọng là tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập của các bộ phận dân cư. Ngược lại, có không ít chính sách xã hội nhằm vào mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thí dụ, chính sách phát triển giáo dục- đào tạo có một trong những mục tiêu quan trọng là tạo ra một nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao về lao động của nền kinh tế. Trong quá trình thực thi các chính sách, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô nhằm đảm bảo tự do kinh doanh theo pháp luật, đồng thời cải thiện công bằng xã hội.
Những kết quả tích cực đạt được đã khẳng định rõ hơn mục tiêu thực hiện “tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bướcphát triển” của nước ta. Tuy nhiên, việc kết hợp các chính sách tăng trưởng kinh tế và chính sách công bằng xã hội vẫn còn những khiếm khuyết cần khắc phục. Do những ràng buộc khách quan của nền kinh tế, cho nên nhiều mục tiêu về công bằng xã hội khó có thể được đáp ứng trong khi những yêu cầu về chính sách kinh tế là mang tính khách quan, buộc chúng ta phải thực hiện trước sức ép hội nhập và các yếu tố khác. Hệ quả là trong xã hội có nảy sinh những bất bình đẳng mới hay một số bất bình đẳng có chiều hướng gia tăng. Thí dụ, tăng trưởng kinh tế đã cải thiện thu nhập cho tất cả các bộ phận dân cư, tuy nhiên tỷ lệ giữa nhóm 20% giàu nhất với nhóm 20% cùng kiệt nhất trong dân số lại có xu hướng gia tăng. Trong một số lĩnh vực, tính chất độc quyền và bao cấp của Nhà nước còn nặng nề, rất chậm được xoá bỏ hay giảm thiểu, vừa triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế vừa duy trì dai dẳng sự bất bình đẳng. Trong giới hoạch định và thực thi chính sách, vẫn tồn tại tư duy cũ của thời kỳ bao cấp, muốn níu kéo những lợi ích cục bộ mà không muốn đổi mới, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng của chính sách cũng như hiệu lực thực thi chính sách. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa xác định được giãn cách giàu cùng kiệt hợp lý để kinh tế tăng trưởng mà vẫn giữ được công bằng xã hội, điều này gây ra không ít khó khăn, lúng túng trong giới hoạch định chính sách.
2.2. Kết quả thực hiện trong thời gian qua của Việt Nam
2.2.1. Thành quả về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong suốt thời gian qua chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và khá ổn định. Nếu như thời kỳ trước đổi mới 1976- 1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở nước ta chỉ đạt khoảng 2%, thì sau khi đổi mới tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm được ghi nhận là 4,5% trong giai đoạn 1986-1990, 8,4% trong giai đoạn 1991-1997, và vẫn đạt tới 6,4% trong giai đoạn 1998-2003 cho dù nền kinh tế phải chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế châu á. Đặc biệt trong 3 năm từ 20005 đến 2007 tăng trưởng đều đạt trên 8%,là một con số rất cao.
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của nư