maiyeu24880

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Chƣơng 1
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của công ty chứng khoán
Nền kinh tế - xã hội không ngừng phát triển đặt ra nhu cầu về tích luỹ trong xã
hội không ngừng tăng lên và ngày càng quan trọng, phong phú và đa dạng. Trong xã hội
xuất hiện người cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư, đồng thời cũng có người
khác có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư thu lợi nhuận (cho vay để lấy lãi, đầu tư khác,...). Ban
đầu, những người này thường trực tiếp tìm gặp nhau dựa trên quan hệ quen biết cá nhân
để giải quyết các nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, phương cách này chỉ phù hợp với qui mô
nhỏ, khi cung và cầu vốn không ngừng tăng về qui mô và đa dạng về hình thức thì hình
thức vay và cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ cá nhân sẽ không đáp ứng được nhu cầu
nữa, thực tế khách quan đòi hỏi phải có một thị trường để cung và cầu vốn gặp nhau,
đáp ứng các nhu cầu tài chính của nhau, thị trường đó chính là thị trường tài chính.
Trong lịch sử phát triển thị trường tài chính, thị trường tiền tệ được hình
thành trước do ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân cư chưa cao và
nhu cầu về vốn chủ yếu là vay ngắn hạn. Sau đó, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu về vốn
dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao và thị trường vốn ra đời để đáp ứng nhu
cầu vốn dài hạn của nền kinh tế. Để huy động được các nguồn vốn dài hạn, bên
cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và
một số công ty còn thực hiện huy động thông qua phát hành các loại chứng khoán.
Khi các chứng khoán có giá được phát hành thì tất yếu sẽ nảy sinh nhu cầu về mua,
bán, trao đổi. Chính vì vậy, TTCK ra đời với tư cách là một bộ phận của thị trường
vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán, trao đổi các loại chứng khoán đó. Cũng như
các thị trường khác, lúc đầu những người mua và người bán chứng khoán là các cá
nhân sở hữu chứng khoán; họ tiến hành mua, bán trực tiếp với nhau không qua một
bên trung gian nào. Khi thị trường càng phát triển, khối lượng vốn luân chuyển
ngày càng lớn; những người mua, bán chứng khoán đông đảo hơn và mỗi cá nhân
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
tham gia sở hữu khối lượng chứng khoán lớn, đa dạng với mỗi lần thanh toán có
lượng tiền rất lớn. Vì vậy, cần thiết phải có những người trung gian giúp họ thực
hiện mua, bán chứng khoán được thuận lợi và an toàn - những người này là những
nhà môi giới mua bán chứng khoán giữa người cần mua và người cần bán. Tuy
nhiên, thời kỳ sơ khai thì những nhà môi giới chứng khoán hoạt động đơn lẻ chưa
có tổ chức rõ nét về môi giới chứng khoán, chưa có những đảm bảo tin cậy đối
với người mua bán chứng khoán; do đó, để nâng cao tính chuyên nghiệp, độ uy
tín, độ tin cậy về sự an toàn của các nhà đầu tư trong vai trò trung gian - những
nhà môi giới tổ chức thành lập các công ty gọi là công ty môi giới chứng khoán.
Ở giai đoạn TTCK mới hoạt động, các nhà đầu tư chủ yếu là những người
mua bán chứng khoán đơn lẻ bằng nguồn vốn nhàn rỗi để hưởng chênh lệch giá.
Khi TTCK ổn định và phát triển, nhà đầu tư tham gia KDCK ngày càng đông
đảo; phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại chứng khoán và có sự cạnh
tranh mạnh mẽ thì họ cũng thành lập ra các công ty kinh doanh chứng khoán.
Trong quá trình hoạt động, các công ty môi giới chứng khoán và công ty
KDCK không chỉ dừng lại ở hoạt động ban đầu mà có sự đan xen và phát triển các
nghiệp vụ khác trên TTCK như nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính và
đầu tư chứng khoán; do đó, một loại hình công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán xuất hiện đó chính là CTCK - một tổ chức tài chính trung gian được thành
lập theo pháp luật và thực hiện một hay một số hoạt động KDCK trên TTCK.
Quá trình phát triển của CTCK trên thế giới có thể nói bắt đầu từ những năm
cuối thế kỷ 17 sang đến thế kỷ 18, 19 trong bối cảnh phát triển nở rộ các công ty cổ
phần ở các nước tư bản chủ nghĩa Châu Âu đã dẫn đến nhu cầu phát hành ồ ạt các
loại cổ phiếu của các công ty cổ phần. Khi đó, các công ty cổ phần đều phát hành cổ
phiếu qua các CTCK hay Ngân hàng đầu tư để bán cho các nhà buôn, các nhà
đầu tư KDCK. Như vậy, các CTCK đảm nhận việc phân phối chứng khoán của
các công ty cổ phần và thực hiện cung cấp các dịch vụ liên quan tới phát hành
chứng khoán, từ đó hình thành nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Đến thế kỷ 20 chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn lũng đoạn ở Châu Âu, Mỹ và sau đó là Châu Á. Trong giai đoạn
này, các CTCK phát triển mạnh cả về qui mô và chất lượng dịch vụ; phát triển
cả số lượng nghiệp vụ kinh doanh và tính chuyên nghiệp cao trong hoạt động
kinh doanh; qua đó thu hút được đông đảo các nhà đầu tư tham gia KDCK.4
Ở mỗi quốc gia, TTCK và CTCK được hình thành và phát triển với những mức
độ khác nhau, nhưng với xu hướng toàn cầu hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thì TTCK
phát triển không chỉ giới hạn phạm vi trong nước mà đã có sự liên kết, kết nối giữa các
TTCK khu vực cũng như trên thế giới. Điều đó dẫn đến hoạt động kinh doanh của các
CTCK cũng có điều kiện mở rộng và phát triển ra phạm vi quốc tế. Các CTCK đẩy
mạnh thành lập các chi nhánh ở nước ngoài nhằm tăng cường hoạt động kinh doanh,
tăng doanh thu mua bán chứng khoán cũng như các dịch vụ khác. Tuy nhiên, nhằm
hạn chế sự thôn tính cũng như bảo hộ cho các CTCK trong nước các quốc gia đều qui
định thời hạn và điều kiện để CTCK nước ngoài được hoạt động trên TTCK nước
mình như Hàn Quốc đến năm 1991 CTCK nước ngoài được phép mở chi nhánh, thành
lập liên doanh hoạt động trên TTCK; Nhật Bản thì những năm 1985 đã thực hiện tự do
hoá quốc tế và các CTCK nước ngoài được phép tham gia vào TTCK của Nhật.
Hiện nay, những năm đầu của thế kỷ 21 cùng với sự phát triển kinh tế tri thức
theo xu hướng quốc tế hoá và ở đó không chỉ các nền kinh tế thị trường phát triển mà
còn cả các nền kinh tế đang phát triển đã phát triển rộng rãi các thị trường vốn, thị
trường tiền tệ và TTCK nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Cùng với nó
số lượng các CTCK ngày càng nhiều, phạm vi và tính chất hoạt động của CTCK ngày
càng mở rộng, phát triển đa dạng, đa năng, tính cạnh tranh cao và tất yếu sẽ dẫn đến
tình trạng phá sản hay hợp nhất hay sáp nhập hay chia tách. Do đó, nhằm đảm bảo
tính an toàn đối với TTCK; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư; đảm bảo tính
công bằng, khách quan trong hoạt động KDCK giữa các CTCK mỗi nước phải qui
định trong Luật Chứng khoán về các điều kiện pháp lý; điều kiện kinh tế; qui định
các cơ quan chuyên ngành thanh tra, giám sát và quản lý chặt chẽ các CTCK.
Như vậy, có thể đánh giá sự ra đời của CTCK là tất yếu khách quan của sự
phát triển kinh tế thị trường cùng với sự hình thành và phát triển của TTCK. Quá
trình phát triển của CTCK phù hợp với sự phát triển, chuyển đổi của nền kinh tế
trong từng giai đoạn của từng nước, từng khu vực và trên toàn thế giới; nhưng
CTCK luôn giữ vai trò là nhân tố quan trọng, trung tâm thực hiện các nghiệp vụ về
KDCK; làm trung gian trong giao dịch thông qua SGDCK, nhằm dẫn vốn từ người
có vốn nhàn rỗi đến người cần vốn cho đầu tư phát triển, góp phần ổn định và phát
triển TTCK; thúc đẩy nền kinh tế mỗi nước phát triển và tăng trưởng bền vững.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường sự hình thành và phát triển của TTCK và CTCK
là tất yếu khách quan, song để hiểu được bản chất CTCK là cái gì? Như thế nào? Có
nhiều quan điểm đánh giá, nhận xét đứng trên những giác độ khác nhau để xem
xét và vì vậy khái niệm về CTCK có thể tiếp cận với những góc độ khác nhau.
Theo giáo trình TTCK, trường Đại học KTQD thì "CTCK là một định chế tài
chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán" [38].
Theo giáo trình TTCK, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
thì "CTCK là một định chế tài chính trung gian chuyên kinh doanh chứng khoán
là đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập" [49].
Theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 của UBCKNN thì "CTCK
là công ty cổ phần hay công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN
cấp giấy phép thực hiện một hay một số các loại hình kinh doanh chứng khoán" [50].
Theo quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 của Bộ trưởng BTC
thì "CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán,
bao gồm một, một số hay toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán" [8].
Theo giáo trình kinh doanh chứng khoán, Học viện Tài chính thì "CTCK là
tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán thông qua việc thực
hiện một hay vài dịch vụ chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận"[36].
Theo giáo trình TTCK, Học viện Tài chính thì "CTCK là một loại hình
định chế trung gian đặc biệt trên thị trường chứng khoán, thực hiện các hoạt
động kinh doanh chứng khoán như ngành nghề kinh doanh chính" [34].
Như vậy, CTCK là một tổ chức tài chính trung gian được thành lập theo pháp luật;
thực hiện một, một số hay toàn bộ các hoạt động trên TTCK. Một cách khái quát có thể
hiểu CTCK là một loại hình doanh nghiệp tài chính hoạt động kinh doanh trên TTCK
theo qui định của pháp luật. CTCK hoạt động kinh doanh trên TTCK - một thị trường rất
nhạy cảm, có nhiều rủi ro và sức ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Vì vậy, CTCK thuộc
loại hình kinh doanh có điều kiện và đây chính là những điểm khác biệt giữa hoạt
động của CTCK với hoạt động của các loại hình doanh nghiệp khác, cụ thể như sau:6
Một là, đặc điểm về vốn. CTCK được thành lập phải đáp ứng điều kiện về mức
vốn pháp định theo qui định, đây là đặc điểm khác với các công ty hoạt động trong các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ thông thường. Ở mỗi quốc gia có qui
định về mức vốn pháp định khác nhau, có thể qui định chung cho một CTCK khi đăng
ký thành lập không kể công ty thực hiện một hay hai hay tất cả các nghiệp vụ kinh
doanh theo qui định của pháp luật. Hàn Quốc qui định mức vốn tối thiểu của một
CTCK là 50 tỷ Won; hay có thể qui định mức vốn pháp định cho từng loại nghiệp vụ
kinh doanh cụ thể như ở Việt Nam theo Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày
29/06/2006 của Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mức vốn pháp
định cho các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, CTCK có vốn đầu tư nước ngoài, chi
nhánh CTCK nước ngoài tại Việt Nam là: Môi giới chứng khoán 25 tỷ đồng Việt Nam;
Tự doanh chứng khoán 100 tỷ đồng Việt Nam; Bảo lãnh phát hành chứng khoán
165 tỷ đồng Việt Nam; Tư vấn đầu tư chứng khoán 10 tỷ đồng Việt Nam [40].
Đây là đặc điểm quan trọng nhất quyết định CTCK được phép hoạt động hoặc
được thực hiện nghiệp vụ kinh doanh nào, đồng thời cũng nhằm đảm bảo mục tiêu bảo vệ
quyền lợi của các nhà đầu tư trên TTCK. Ngoài ra, đặc điểm về vốn còn ảnh hưởng đến
công tác quản lý chung và tổ chức hạch toán kế toán trong việc tổ chức huy động, quản
lý và sử dụng vốn, đảm bảo hoạt động của CTCK phù hợp với qui định của pháp luật.
Hai là, đặc điểm về nhân sự và đội ngũ lãnh đạo. CTCK hoạt động trong
lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, có độ rủi ro cao, có mức độ ảnh hưởng lớn tới đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước nên đòi hỏi nhân viên CTCK phải có trình độ từ
đại học trở lên về chuyên ngành ngân hàng, tài chính, kế toán, TTCK và có tư cách
đạo đức nghề nghiệp tốt, có chứng chỉ hành nghề do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Đối với đội ngũ Lãnh đạo các bộ phận cần kiến thức chuyên môn sâu, có trình độ
quản lý, đạo đức nghề nghiệp; đặc biệt với Lãnh đạo CTCK cần có tầm nhìn
chiến lược, chứng chỉ hành nghề và giấy phép thay mặt do cơ quan có thẩm quyền
cấp; có trình độ học vấn và kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh cao. Đặc điểm
này có tích chất quyết định đến chất lượng hoạt động kinh doanh, quyết định đến uy
tín và danh tiếng của CTCK trên TTCK và trong đời sống kinh tế xã hội. Đặc điểm
này ảnh hưởng sâu sắc đến tổ chức bộ máy của CTCK, nhất là tổ chức bộ máy kế
toán trong việc tổ chức tuyển dụng, lựa chọn và bố trí nhân viên kế toán vào các vị
trí trong bộ máy kế toán; trong từng hoạt động nghiệp vụ kinh doanh nhằm đảm bảo
hiệu quả của công tác quản lý cũng như công tác hạch toán kế toán trong CTCK.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
Ba là, đặc điểm về cơ sở vật chất. Mọi doanh nghiệp khi thành lập và tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có những cơ sở vật chất nhất định,
tuy nhiên đối với CTCK phải đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất nghiêm ngặt phù
hợp với nghiệp vụ KDCK. Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động KDCK, cơ sở vật
chất của CTCK cần có như: Sàn giao dịch (Phòng giao dịch), đảm bảo thuận
tiện cho các nhà đầu tư thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán, thuận lợi để tra
cứu tiếp nhận thông tin TTCK và các thông tin cần thiết khác. CTCK phải trang bị
hệ thống thiết bị công nghệ hiện đại đáp ứng nhu cầu truyền lệnh của nhà đầu tư,
thông báo kết quả giao dịch kịp thời, nhà đầu tư thuận lợi kiểm tra giám sát số dư và
sự biến động của tài khoản,...; đảm bảo an toàn tuyệt đối lượng chứng khoán nắm
giữ của các nhà đầu tư. Đặc điểm này không những đảm bảo điều kiện để các nhà
đầu tư thu thập thông tin, thực hiện đầu tư mà còn thể hiện bề thế, qui mô của
CTCK; niềm tin của khách hàng khi đến thực hiện đầu tư. Về mặt quản lý và tổ
chức thì đặc điểm này có ảnh hưởng đáng kể đến tổ chức kế toán của CTCK từ khâu
bắt đầu hình thành cơ sở vật chất như giá thành hay chi phí để có những cơ sở vật
chất đó; quản lý, sử dụng và phân bổ từng kỳ vào chi phí kinh doanh để xác định
hiệu quả sử dụng và kết quả kinh doanh từng loại nghiệp vụ kinh doanh của công ty.
Bốn là, đặc điểm về xung đột lợi ích giữa nhà đầu tư và CTCK. Các doanh
nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ bao giờ cũng
có mối liên hệ với khách hàng và lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của
doanh nghiệp mà không xảy ra mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích. Tuy nhiên, đối
với CTCK khi thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, cung cấp các dịch vụ cho khách
hàng hay các nhà đầu tư có thể xảy ra mâu thuẫn về lợi ích nếu CTCK không thực
hiện nghiêm ngặt các qui định về qui trình, nguyên tắc, đạo đức nghề nghiệp.
Những nghiệp vụ kinh doanh thường xảy ra xung đột lợi ích giữa CTCK với các
nhà đầu tư là nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán và tư vấn
đầu tư chứng khoán; vì vậy, đặc điểm về xung đột lợi ích tạo ra sự khác biệt
trong hoạt động kinh doanh của CTCK với các loại hoạt động kinh doanh khác.
Đây là đặc điểm đặc thù hoạt động kinh doanh của CTCK nhất là trong điều
kiện TTCK mới đi vào hoạt động, sự hiểu biết về lĩnh vực KDCK của nhà đầu tư
còn hạn chế, sự quản lý của các nhà quản trị CTCK còn lỏng lẻo, các định chế qui
định về nguyên tắc, đạo đức nghề nghiệp còn chưa được tôn trọng thì đặc điểm này8
càng phải được đề cao nhằm hạn chế xảy ra xung đột lợi ích giữa CTCK với khách
hàng, các nhà đầu tư. CTCK cần thật khách quan, đạt kỳ vọng tuyển chọn được
những nhân viên có năng lực, tính chủ động sáng tạo, có đạo đức nghề nghiệp tốt;
có trình độ chuyên môn và quản lý phù hợp; công ty phải xây dựng và thực hiện
kiểm soát nội bộ chặt chẽ và phải qui trách nhiệm cá nhân trong xử lý nghiệp vụ
chuyên môn, quản lý. Đây là những vấn đề rất phức tạp, tổng hợp nhiều mặt của đời
sống kinh tế, xã hội, đạo đức, nghề nghiệp, uy tín, trách nhiệm, nghĩa vụ và nhiều
nhân tố khác liên quan đến con người và lợi ích (công ty và cá nhân); do đó, chìa
khoá là ở người Lãnh đạo công ty. Riêng về tổ chức công tác kế toán của CTCK thì
đặc điểm này có ảnh hưởng đến toàn bộ các nội dung của tổ chức công tác kế toán,
bởi vì để hạn chế xảy ra xung đột về lợi ích giữa các nhà đầu tư với CTCK hay với
các nhà đầu tư khác thì từ nội dung tổ chức hệ thống chứng từ; tổ chức các tài
khoản phản ánh tài sản của nhà đầu tư và của công ty; tổ chức hệ thống sổ kế toán
chi tiết; tổ chức các báo cáo kế toán; tổ chức bộ phận nhân viên kế toán thực hiện
đến tổ chức công tác kiểm tra kế toán đều phải được tổ chức chặt chẽ, riêng biệt và
rõ ràng. Trong từng nội dung của tổ chức công tác kế toán đều phải ghi chép, phản
ánh, tổng hợp một cách riêng biệt về tài sản và chứng khoán của từng nhà đầu tư và
của CTCK; phải thường xuyên có sự kiểm tra chéo giữa các bộ phận liên quan đến
hoạt động kinh doanh và công tác bảo mật giữa các bộ phận phải an toàn tuyệt đối.
1.1.3. Mô hình và vai trò của công ty chứng khoán
1.1.3.1. Mô hình công ty chứng khoán
Các tổ chức, cá nhân để được cấp giấy chứng nhận KDCK phải lập và nộp
đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận KDCK theo qui định của pháp luật.
UBCKNN xem xét, kiểm tra hồ sơ và cấp giấy phép KDCK trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày có đủ hồ sơ hợp lệ và công ty phải hoàn tất việc nộp lệ phí cấp giấy phép
kinh doanh theo qui định tại Điều 65 của Luật Chứng khoán [40]. Khi được cấp
giấy phép KDCK công ty phải tiến hành công khai hóa hoạt động thông qua
việc công bố thành lập trên phương tiện thông tin của UBCKNN và các phương
tiện thông tin đại chúng theo qui định Điều 66 của Luật Chứng khoán [40].
CTCK hoạt động và thực hiện các nghiệp vụ về KDCK với tính chất đa
dạng, phong phú và phức tạp; nó đồng thời liên quan đến lợi ích của công ty, nhà
đầu tư và nhà nước. Vì vậy, KDCK là nghề kinh doanh đặc biệt có phạm vi rộng và
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
mức độ ảnh hưởng đến toàn xã hội; có rủi ro kinh doanh cao. Do vậy, pháp luật các
quốc gia đều qui định rất chặt chẽ về mô hình hoạt động của CTCK tuỳ thuộc
vào điều kiện của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trên thế giới tồn tại phổ biến ba mô
hình về CTCK căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và chủ sở hữu chi phối CTCK.
* Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
CTCK chuyên doanh là những công ty độc lập được thành lập theo qui
định của pháp luật, chuyên môn hoá trong lĩnh vực KDCK. Công ty đảm nhiệm
một, một số hay toàn bộ các nghiệp vụ KDCK trên TTCK. Về nguồn tài chính
của các công ty theo mô hình này chủ yếu do chủ sở hữu đóng góp như: Phát
hành cổ phiếu, trái phiếu; vốn góp của các thành viên tham gia thành lập công
ty,… Ngoài ra, công ty còn huy động từ nguồn vốn vay ngân hàng và các tổ chức,
nguồn vốn liên doanh; liên kết,… Mô hình này được áp dụng ở nhiều các nước như:
Mỹ, Nhật bản, Hàn Quốc, Việt Nam,… và có những ưu, nhược điểm cơ bản sau:
Một là: Tự chủ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
CTCK chuyên doanh hoàn toàn độc lập hoạt động mà không cơ quan chủ
quản nào chi phối cả về tổ chức nhân sự cũng như chiến lược hoạt động kinh doanh.
Từ đó phát huy được khả năng chủ động, sáng tạo, nhạy bén trong kinh doanh và tổ
chức kinh doanh linh hoạt phù hợp với hoạt động của TTCK, nền kinh tế thị trường.
Hai là: Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính.
CTCK chuyên doanh được thành lập theo qui định của pháp luật và hoạt động
độc lập trên cơ sở vốn của công ty để thực thi các nghiệp vụ KDCK. Các ngân hàng,
tổ chức tài chính không bị chi phối vốn vào lĩnh vực KDCK (đặc biệt là hệ thống
ngân hàng) mà chỉ tham gia thị trường với tư cách là khách hàng. Do đó, hạn chế đầu
tư của ngân hàng, tổ chức tài chính vào lĩnh vực chứng khoán có rủi ro, đồng thời
giảm được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính trong nền kinh tế.
Ba là: Hạn chế đầu tư vốn nhà nước vào KDCK của các Tổng công ty.
Các Tổng công ty nhà nước, Tập đoàn giữ vai trò quan trọng trong điều hành
kinh tế vĩ mô của Nhà nước như: Điều tiết nền kinh tế, bình ổn giá cả,… CTCK
chuyên doanh không thuộc Tổng công ty, Tập đoàn nhà nước; vốn kinh doanh chủ
yếu là của công ty mẹ, do đó hạn chế có sự chuyển đổi mục đích cũng như sử dụng
vốn nhà nước để KDCK, tạo nên sự tách bạch trong quản lý kinh tế tài chính.10
Bốn là: Hạn chế tính san bằng rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng và các
Tổng công ty, Tập đoàn.
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại, Tổng công ty, Tập đoàn nhà
nước chỉ thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh theo qui định của pháp luật và
tham gia TTCK với tư cách là khách hàng mà không đầu tư vốn vào KDCK qua
các CTCK thuộc đơn vị quản lý; do đó, khi hoạt động kinh doanh chính bị rủi ro
thua lỗ thì không có sự chi phối bù đắp lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh doanh.
Năm là: Hạn chế về vốn, công nghệ, cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn và
mạng lưới khách hàng.
Trong giai đoạn đầu hoạt động, các công ty này sử dụng chủ yếu là vốn của
bản thân những chủ sở hữu đóng góp mà không có đơn vị chủ quản nào cấp, do đó
về một mặt nào đó sẽ hạn chế về vốn kinh doanh. Từ đó dẫn đến việc đầu tư cho
công nghệ hiện đại, cơ sở vật chất trong tác nghiệp các nghiệp vụ cũng gặp nhiều
khó khăn hơn những công ty có chủ quản là các ngân hàng, Tổng công ty nhà nước.
Về chuyên môn, lĩnh vực KDCK là rất nhạy cảm và phức tạp đòi hỏi cán bộ
phải có trình độ cao, có đạo đức tốt để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư. Các
CTCK chuyên doanh phải tuyển mới nhân viên, chưa sẵn có cán bộ trình độ cao,
nhiều kinh nghiệm; do đó, trong giai đoạn đầu hoạt động cán bộ nhân viên của những
công ty này còn hạn chế nhất định về trình độ chuyên môn cũng như trình độ quản lý.
Về mạng lưới khách hàng, các CTCK chuyên doanh mới được thành lập và
chưa có danh tiếng, chưa có mạng lưới khách hàng như các công ty được hình thành từ
các ngân hàng và Tổng công ty lớn. Những công ty này phải xây dựng mạng lưới
khách hàng ngay từ những khách hàng đầu tiên, do đó cần có chiến lược quảng
cáo thu hút khách hàng cũng như thực hiện công tác quản trị công ty tốt để tăng cường
uy tín bằng chất lượng phục vụ trong quá trình thực thi các nghiệp vụ về KDCK.
* Mô hình công ty chứng khoán đa năng một phần
CTCK đa năng được thành lập theo qui định của pháp luật và hoạt động
KDCK độc lập với hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường đã được thừa
nhận - Đó là CTCK đa năng một phần. TTCK ra đời và ngày càng phát triển tạo
môi trường thuận lợi để thực hiện các nghiệp vụ KDCK. Khi đó các ngân hàng,
tổ chức tài chính, doanh nghiệp lớn muốn KDCK phải thành lập công ty con có
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
tư cách pháp nhân để hoạt động trong lĩnh vực này. Các công ty con được thành
lập chuyên thực hiện các nghiệp vụ KDCK và vẫn chịu sự chi phối của công ty
mẹ (các ngân hàng thương mại hay các tập đoàn, Tổng công ty); đồng thời được
đầu tư ban đầu khá đầy đủ về vốn, tài sản hoạt động, nguồn nhân lực và địa bàn
hoạt động kể cả những khách hàng có quan hệ thường xuyên trong kinh doanh để
thực hiện các nghiệp vụ KDCK. Mô hình này có những ưu, nhược điểm sau:
Một là, hoạt động kinh doanh độc lập với công ty mẹ.
CTCK được thành lập theo qui định của pháp luật, có tư cách pháp nhân
riêng và hoạt động kinh doanh, hạch toán độc lập tương đối với công ty mẹ,
đồng thời phải chịu trách nhiệm bằng vốn chủ sở hữu của công ty. Vì vậy, kết
quả hoạt động của CTCK không ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của công ty
mẹ và cũng không gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của công ty mẹ.
Hai là, điều kiện về vốn, công nghệ và khách hàng.
CTCK đa năng một phần tuy hoạt động kinh doanh, hạch toán độc lập với
công ty mẹ nhưng vẫn chịu sự chi phối nhất định của công ty mẹ về nhân sự,
chiến lược kinh doanh, đầu tư và phân phối. Tuy nhiên, những công ty này được
tạo điều kiện về vốn đầu tư, công nghệ tác nghiệp và mạng lưới khách hàng từ
công ty mẹ nên có nhiều điều kiện thuận lợi hơn đối với CTCK chuyên doanh.
Ba là, quyền huy động vốn.
CTCK đa năng một phần không có quyền huy động vốn để kinh doanh,
không tham gia hoạt động tín dụng mà phụ thuộc vào công ty mẹ. Do vậy, tuy độc
lập trong hoạt động kinh doanh nhưng việc mở rộng qui mô về vốn cũng như lĩnh
vực đầu tư kinh doanh còn phải lệ thuộc vào công ty mẹ là các ngân hàng thương
mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hay Tổng công ty thành lập, chủ quản.
Bốn là, mô hình này thường có qui mô nhỏ, bị lệ thuộc về vốn, nhân sự từ
công ty mẹ. Người lãnh đạo của công ty như Chủ tịch hội đồng quản trị, Giám đốc,
Tổng giám đốc hay các vị trí quan trọng khác thường là người của công ty mẹ
quản lý cho nên càng bị lệ thuộc vào chiến lược kinh doanh chung của công ty mẹ.
* Công ty chứng khoán đa năng toàn phần
TTCK phát triển mạnh ở Mỹ và Châu Âu thế kỷ 18, 19 do sự phát triển rầm
rộ của các công ty cổ phần dẫn tới cổ phiếu các công ty được phát hành ồ ạt tạo điều12
kiện cho các nghiệp vụ KDCK phát triển. Các ngân hàng, tổ chức tài chính, các
Tổng công ty được phép vừa sản xuất kinh doanh thông thường vừa thực hiện
nghiệp vụ KDCK. Mô hình này không tách biệt về mặt pháp lý đối với lĩnh vực
KDCK và kinh doanh tiền tệ; tính kết hợp đa năng về nghiệp vụ rất cao; giảm bớt
được rủi ro trong hoạt động kinh doanh; có khả năng chịu được những biến động
lớn của thị trường, ổn định sản xuất kinh doanh. Mô hình này được áp dụng nhiều ở
các nước: Anh, Canada, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ,… và có những ưu, nhược điểm sau:
Một là, kết hợp đa năng rất cao trong kinh doanh.
Mô hình CTCK đa năng toàn phần là sự kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh
của các Ngân hàng Thương mại, Tổng công ty và chủ yếu là hoạt động kinh doanh
tiền tệ (huy động tiền gửi, cho vay, thanh toán,…), kinh doanh bảo hiểm và KDCK,
do đó sẽ giảm bớt được các chi phí quản lý cho hoạt động kinh doanh chung và có khả
năng gánh chịu những sự biến động lớn của thị trường nói chung và TTCK nói riêng.
Hai là, đảm bảo về vốn và trình độ chuyên môn.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc kinh doanh không tách biệt
về mặt pháp lý, cho nên các CTCK đa năng toàn phần sử dụng ngay các nhà quản
trị trong Hội đồng quản trị, Ban điều hành và nhân viên đã có nhiều kinh nghiệm về
quản lý kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, đầu tư trong hoạt động KDCK. Mặt khác, vốn
và cơ sở vật chất của công ty cũng được ưu tiên đầu tư đầy đủ để kinh doanh, dự trữ
chứng khoán, điều đó làm tăng khả năng sinh lợi cho hoạt động kinh doanh chung.
Ba là, rủi ro trong kinh doanh và quyền tự chủ.
Cũng từ nguyên tắc kinh doanh không tách biệt, nếu hoạt động KDCK gặp
rủi ro sẽ có thể dẫn đến rủi ro lớn cho các ngân hàng, tổ chức tài chính đặc biệt khi
hoạt động kinh doanh đầu tư lớn vào KDCK. Hơn nữa, công ty không được tự
quyết định đầu tư và chiến lược kinh doanh mà phụ thuộc vào khuynh hướng kinh
doanh của Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị có khuynh hướng đầu tư KDCK là
chiến lược thì hoạt động KDCK được mở rộng và cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro trong
kinh doanh. Ngược lại, nếu khuynh hướng Hội đồng quản trị nghiêng về kinh
doanh tiền tệ, bảo hiểm,… là chiến lược thì hoạt động KDCK giảm đi và như vậy
có thể sẽ không đạt được mục tiêu phát triển TTCK xét trên toàn bộ nền kinh tế.
Bốn là, quản trị doanh nghiệp và kiểm soát nội bộ.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Xuất phát từ nguyên tắc không tách bạch giữa nghiệp vụ KDCK với nghiệp vụ
kinh doanh tiền tệ, kinh doanh bảo hiểm,… dẫn đến công tác quản lý kinh doanh và
quản trị doanh nghiệp rất phức tạp. Điều này có thể dẫn đến tình trạng không kiểm
soát được mọi lĩnh vực kinh doanh, các bộ phận thiếu sự phối kết hợp trong quá trình
hoạt động, các nhân viên có thể lợi dụng trục lợi hay kinh doanh sai lệch chiến lược
chung mà các nhà quản trị điều hành không kịp thời phát hiện và chấn chỉnh.
Tóm lại, CTCK là một loại hình định chế tài chính đặc biệt và việc xác
định mô hình CTCK phù hợp với hệ thống tài chính, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước trong lĩnh vực KDCK là rất cần thiết. Tuy nhiên, mỗi một mô hình CTCK
được áp dụng đều có những ưu nhược điểm nhất định và phù hợp với những giai
đoạn phát triển khác nhau của TTCK nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung.
1.1.3.2. Vai trò của công ty chứng khoán
CTCK là trung gian và tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế và TTCK nói riêng; nó là cầu nối giữa những người có vốn nhàn rỗi và
những chủ thể cần vốn sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bằng các loại
nghiệp vụ kinh doanh trên TTCK, các CTCK đã thể hiện vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của TTCK và các chủ thể tham gia trên TTCK, cụ thể như sau:
Một là, CTCK tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế
CTCK là một trong những tổ chức tài chính trung gian với vai trò huy động
vốn cho nền kinh tế, nhờ đó mà chứng khoán của các tổ chức phát hành đến được
với các nhà đầu tư và được lưu thông trên thị trường; qua đó một lượng lớn vốn
được huy động từ những nguồn vốn nhàn rỗi đưa vào đầu tư phát triển nền kinh tế.
Có thể thấy TTCK là nơi "chạy tiếp sức cho vốn" nhằm tập hợp vốn nhỏ lẻ nhàn
rỗi thành lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển sản xuất; tập hợp các nguồn vốn có
thời gian nhàn rỗi khác nhau (ngắn hạn, dài hạn) thành nguồn vốn dài hạn cho đầu
tư phát triển. Các CTCK thực hiện những nghiệp vụ kinh doanh trên TTCK, kinh
nghiệm nghề nghiệp sẽ giúp cho các tổ chức phát hành chứng khoán thành công,
đáp ứng nhu cầu huy động vốn, nhu cầu sử dụng vốn, tiết kiệm thời gian, tiết
kiệm chi phí, từ đó mà góp phần làm tăng lượng cung chứng khoán trên TTCK.
Hai là, CTCK cung cấp cơ chế giá và bình ổn giá cả chứng khoán trên TTCK
CTCK bằng các nghiệp vụ kinh doanh giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng và
chính xác giá trị các khoản đầu tư của mình. Toàn bộ các lệnh mua bán chứng14
khoán của nhà đầu tư được tập hợp tại SGDCK thông qua các CTCK; trên cơ sở đó,
giá chứng khoán sẽ được xác định theo qui luật cung cầu. Hơn nữa, thông qua hoạt
động tự doanh và các yêu cầu qui định của pháp luật hay của Nhà nước, các CTCK
có chức năng quan trọng là có thể can thiệp vào TTCK góp phần điều tiết giá chứng
khoán, tạo nên sự ổn định giá chứng khoán và góp phần tạo lập thị trường cho
những chứng khoán mới phát hành. Khi CTCK thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán thì đã thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán hợp lý đối
với các chứng khoán trong đợt phát hành. Thông thường mức giá chứng khoán phát
hành thường do các CTCK xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu, thoả thuận với
các nhà đầu tư tiềm năng trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành.
Ba là, CTCK tạo điều kiện chuyển từ chứng khoán thành tiền và ngược lại
Mong muốn của các nhà đầu tư là có được khả năng chuyển số vốn tạm thời
nhàn rỗi thành chứng khoán hay ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định,
công bằng và minh bạch. Trên TTCK nhờ hoạt động của các CTCK mà các nhà đầu
tư có thể hàng ngày chuyển nhanh chóng các khoản tiền nhàn rỗi thành chứng
khoán và ngược lại, điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì các nhà đầu tư có thể mua
hay bán các loại chứng khoán với giá tốt nhất ở mỗi phiên giao dịch trên TTCK.
Bốn là, CTCK góp phần tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới trên TTCK
Trong khi thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, CTCK có thể nắm bắt
được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với các doanh nghiệp, các tổ chức phát
hành chứng khoán nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Kết quả của quá trình này tạo ra sự đa dạng của các sản phẩm, dịch
vụ; đa dạng hoá được cơ cấu khách hàng và với phí dịch vụ thấp sẽ ngày càng huy
động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục vụ cho đầu tư phát triển.
Năm là, CTCK góp phần giảm chi phí giao dịch, giảm rủi ro và nâng cao
hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư
Hàng hoá trên TTCK là những hàng hoá đặc biệt, những sản phẩm tài chính
bậc cao nên để thẩm định chất lượng và xác định giá của chúng thường phải chi phí
lớn trong việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo nhân viên, kỹ năng phân tích và
thực hiện qui trình giao dịch trên thị trường tập trung. Những khoản chi phí này
được các CTCK trang trải do tính chuyên nghiệp hoạt động và qui mô đủ lớn; qua
đó CTCK giúp các nhà đầu tư tiết kiệm chi phí trong từng giao dịch cũng như trong
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
tổng thể thị trường, giúp nâng cao qui mô giao dịch và góp phần nâng cao tính
thanh khoản của chứng khoán. Đồng thời, CTCK cũng giúp các nhà đầu tư giảm
được rủi ro trong quá trình mua bán chứng khoán; các nhà đầu tư khi mua chứng
khoán được đảm bảo sẽ nhận được chứng khoán thật, và các nhà đầu tư bán chứng
khoán sẽ được đảm bảo nhận được tiền sau khi giao chứng khoán hoàn thành, từ đó
các nhà đầu tư có niềm tin và sẵn sàng mua bán chứng khoán vì khả năng sinh lời.
Sáu là, CTCK giúp cơ quan nhà nước quản lý, giám sát hoạt động của TTCK.
CTCK cung cấp thông tin về TTCK cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản
lý nhà nước nhằm quản lý TTCK hoạt động có hiệu quả. CTCK vừa là người bảo
lãnh phát hành chứng khoán đối với những chứng khoán mới, lại vừa là trung gian
mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch mua bán của nhà đầu tư trên thị
trường; do vậy, các thông tin về nhà phát hành hay thông tin liên quan đến giao dịch
mua bán chứng khoán, hàng hoá chứng khoán, thông tin về tỷ lệ sở hữu của các nhà
đầu tư và các thông tin liên quan khác được CTCK báo cáo các cơ quan quản lý nhà
nước. Từ đó, các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và TTCK có
thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường, giá
cả chứng khoán; nắm bắt được thực trạng TTCK để có các chính sách, giải pháp
thích hợp, hiệu quả cho quá trình phát triển của TTCK và nền kinh tế nói chung.
Bảy là, CTCK góp phần cải thiện môi trường đầu tư:
CTCK góp phần hình thành văn hoá đầu tư: CTCK với hoạt động trung gian
giữa người mua và người bán chứng khoán; do đó, khi CTCK đã đi sâu rộng vào
cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức và các nhà đầu tư thì hoạt động của CTCK và
nhân viên môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán là một yếu tố quan
trọng góp phần hình thành văn hoá đầu tư trên TTCK với những đặc điểm sau:
- Tạo ý thức và thói quen đầu tư trong xã hội: Giai đoạn trước khi có
TTCK và giai đoạn sơ khai thì tiền nhàn rỗi trong các gia đình, tổ chức thường
sử dụng để mua vàng, bất động sản, gửi ngân hàng, liên doanh liên kết, mua các
tài sản khác, trong khi đó nền kinh tế thiếu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
TTCK và CTCK ra đời và phát triển, các nhân viên môi giới tiếp cận với những
khách hàng tiềm năng với những sản phẩm tài chính phù hợp, được các nhà đầu
tư chấp nhận, nhân viên các CTCK sẽ giúp họ thực hiện qui trình, thủ tục đầu tư
trên TTCK và thường xuyên chăm sóc khách hàng theo hướng có lợi nhất cho16
nhà đầu tư. Và như vậy, thay vì sử dụng tiền nhàn rỗi không có lợi cho nền kinh
tế, người đầu tư sẽ chọn ưu tiên đầu tư vào tài sản tài chính. Dần dần hình thành
ý thức đầu tư và cách hành xử của cả xã hội, và đó chính là nền tảng quan trọng
tạo nên văn hoá đầu tư, một yếu tố không thể thiếu của nền kinh tế thị trường.
- Tạo thói quen và kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư: Cùng với thời gian các
nhà đầu tư nhận ra lợi ích của việc đầu tư, hình thành lòng tin và sự tín nhiệm đối với
CTCK. Nhà đầu tư ý thức được những lợi ích từ các dịch vụ CTCK cung cấp và họ sẽ
lựa chọn việc trả tiền để được hưởng các lợi ích đó như được cung cấp những ý kiến
phân tích, cho lời khuyên về mua hay bán loại chứng khoán nào, thời điểm nào.
- Tạo môi trường pháp lý, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật: Khi nhân viên
CTCK thực hiện các nghiệp vụ KDCK là người chấp hành pháp luật trong lĩnh vực
chứng khoán. Đồng thời, CTCK cung cấp những kiến thức pháp luật cho nhà đầu tư,
kịp thời phản ánh những bất cập, chưa hợp lý trong các qui phạm pháp luật đến các
nhà làm luật để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
- Tăng cường chất lượng và hiệu quả dịch vụ nhờ cạnh tranh: Các CTCK
và từng nhân viên trong công ty cần thu hút được nhiều khách hàng mới, giữ
được những khách hàng hiện có và ngày càng gia tăng khối lượng tài sản được uỷ
thác. Để làm được điều đó đòi hỏi các nhân viên các CTCK không ngừng bồi
dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp; tuân thủ pháp luật và
chấp hành đúng những qui trình nghiệp vụ và quản lý. Mỗi nhân viên có kỹ năng
và trình độ cao góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các CTCK để cạnh tranh trên TTCK, do đó chất lượng các dịch vụ CTCK
cung cấp ngày càng được nâng cao và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
1.1.4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
CTCK hoạt động trên TTCK thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán có ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư, các chủ thể trên thị trường và
toàn xã hội. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi, sự công bằng, khách quan giữa các chủ
thể tham gia thị trường, CTCK khi thực hiện các hoạt động kinh doanh phải tuân
thủ chặt chẽ các nguyên tắc chung được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật qui
định đối với CTCK. Nguyên tắc hoạt động của CTCK gồm hai nhóm nguyên tắc cơ
bản: Nhóm nguyên tắc về tài chính và nhóm nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Nguyên tắc tài chính: CTCK phải đáp ứng điều kiện về vốn pháp định cho
các hoạt động kinh doanh được cấp phép hoạt động theo qui định; đảm bảo yêu cầu
về vốn, cơ cấu vốn, nguyên tắc hạch toán và chế độ báo cáo công khai theo qui
định; phải tách biệt tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của công ty.
Nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp: CTCK đặc biệt là các nhân viên phải tuân
thủ đầy đủ bộ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp nhằm đảm bảo tính trung thực, công
bằng, khách quan trong thực hiện nhiệm vụ như: Giao dịch công bằng và trung thực
vì lợi ích của khách hàng; phải có kỹ năng, có tinh thần trách nhiệm cao; ưu tiên
thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty; bảo mật các thông tin về
khách hàng; không tham gia kinh doanh ngoài phạm vi giấy phép kinh doanh;
không làm sai lệch thông tin về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán gây
thiệt hại cho khách hàng; phải có hợp đồng khi thực hiện dịch vụ cho khách hàng.
Hoạt động của CTCK trên thị trường thực hiện rất đa dạng về nghiệp vụ kinh
doanh, nhưng cơ bản gồm: Hoạt động môi giới chứng khoán; hoạt động tự doanh
chứng khoán; hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán; hoạt động tư vấn đầu tư
chứng khoán. Các hoạt động của CTCK có thể chia thành hai nhóm chính là hoạt
động tự doanh chứng khoán của công ty và hoạt động cung cấp dịch vụ chứng khoán.
1.1.4.1. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Hoạt động tự doanh là một trong những hoạt động cơ bản của CTCK, là việc
CTCK đầu tư mua bán chứng khoán bằng vốn của mình nhằm mục đích lợi nhuận.
Phần lợi nhuận CTCK thu được từ hoạt động tự doanh có thể từ chênh lệch giữa
giá mua và giá bán hay từ cổ tức, trái tức được trả từ nhà phát hành chứng khoán.
Khi CTCK thực hiện hoạt động tự doanh trên thị trường phi tập trung (OTC),
việc mua bán được tiến hành trực tiếp giữa CTCK với các khách hàng thông qua
thương lượng, thoả thuận thống nhất hay qua hệ thống máy vi tính kết nối mạng.
Khi CTCK thực hiện hoạt động tự doanh trên SGDCK, việc mua bán chứng
khoán của công ty giống như các nhà đầu tư khác trên thị trường, các lệnh mua bán
chứng khoán của CTCK cũng được đưa vào hệ thống và thực hiện như các lệnh của
các nhà đầu tư khác và có thể thực hiện việc mua bán với bất kỳ khách hàng nào. Tuỳ
thuộc vào mục đính, tính chất đầu tư mà hoạt động tự doanh của CTCK bao gồm:
Hoạt động tự doanh để hưởng lợi nhuận: Đầu tư thu lợi nhuận là một trong
những mục tiêu chính của CTCK khi thực hiện hoạt động tự doanh. Các CTCK có18
kinh nghiệm đầu tư chứng khoán và thông tin phân tích thị trường nên có thể chấp
nhận rủi ro đầu tư mua bán nhanh một hay một số loại chứng khoán nhằm thu lợi
nhuận cao hay tiến hành hoạt động tự doanh trên các loại chứng khoán có mức độ
an toàn cao với mục tiêu lâu dài nhằm hưởng lợi tức, trái tức từ nhà phát hành.
Hoạt động tự doanh nhằm mục đích nắm quyền kiểm soát: Thực hiện mục
tiêu này, CTCK tiến hành mua vào một hay một số loại chứng khoán nào đó
theo chiến lược đầu tư đã định với mục tiêu đạt được số lượng chứng khoán nhất
định để có thể tham gia vào việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ
chức phát hành và có thể CTCK phải bỏ qua mục tiêu lợi nhuận trong ngắn hạn.
Hoạt động tự doanh với mục tiêu quản lý tiền mặt: Các CTCK phải duy trì
một lượng tiền mặt nhất định tại công ty nhằm đảm bảo khả năng chi trả cho hoạt
động bình thường của công ty vừa đảm bảo khả năng sinh lời của vốn và để đáp ứng
những mục tiêu đó CTCK thực hiện đầu tư vào kinh doanh chứng khoán ngắn hạn.
Hoạt động tự doanh nhằm tạo lập thị trường: Đây là nhiệm vụ và mục tiêu
quan trọng của hoạt động tự doanh của các CTCK, đòi hỏi CTCK phải luôn nắm giữ
một số lượng chứng khoán đủ lớn để sẵn sàng bán khi có nhu cầu; đồng thời cũng phải
dự trữ một lượng tiền nhất định để mua chứng khoán khi nhà đầu tư có nhu cầu bán.
Trường hợp nhà đầu tư có nhu cầu mua bán một loại chứng khoán mà CTCK không
tạo lập thị trường (không mua bán) thì CTCK sẽ tìm một kênh khác đáp ứng yêu cầu
của nhà đầu tư và để thực hiện được vai trò này CTCK phải đồng thời tiến hành hoạt
động môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán với hoạt động tự doanh.
Từ các mục đích khác nhau được trình bày trên đây, hoạt động tự doanh
chứng khoán của các CTCK có những đặc điểm cơ bản sau:
- Qui mô đầu tư lớn: CTCK phải đầu tư một lượng vốn lớn ở hình thức tiền
mặt và chứng khoán để thực hiện các mục tiêu trong hoạt động tự doanh.
- Hiệu quả đầu tư tự doanh: Phụ thuộc vào sự phát triển hay sa sút của TTCK.
- Đội ngũ nhân viên: Nhân viên tự doanh có trình độ chuyên môn cao, tính
nhạy cảm cao với thị trường, khả năng phân tích và đưa ra quyết định đầu tư hợp lý.
- Tính chủ động: CTCK chủ động tham gia kinh doanh mua bán chứng
khoán về cách giao dịch, hành vi giao dịch và giá cả giao dịch.
- Tính thu lợi nhuận: Lợi nhuận đem lại từ hoạt động tự doanh phát sinh từ
chênh lệch giá chứng khoán khi mua bán; hay thu từ lợi tức, trái tức.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
- Tính rủi ro: Tính rủi ro là một đặc trưng chủ yếu khi kinh doanh trên
TTCK, hoạt động tự doanh là một hoạt động đầu tư, sử dụng vốn tự có và vốn huy
động hợp pháp để mua bán chứng khoán. Bên cạnh việc có thể thu lợi nhuận, hoạt
động tự doanh chứng khoán cũng chứa đựng nhiều rủi ro và có thể bị tổn thất lớn
do biến động giảm của giá chứng khoán, rủi ro kinh doanh của nhà phát hành.
CTCK thực hiện nhiều hoạt động khác nhau liên quan đến khách hàng, trong
đó vừa với tư cách là nhà đầu tư vừa là nhà môi giới cung cấp các dịch vụ cho khách
hàng thực hiện mua bán chứng khoán trên TTCK; có những hoạt động phát sinh xung
đột về lợi ích giữa khách hàng với CTCK hay giữa khách hàng với nhau. Do đó, các
CTCK tiến hành hoạt động tự doanh phải đảm bảo các yêu cầu do pháp luật qui định.
Một là, phải tách biệt giữa hoạt động tự doanh với hoạt động môi giới, hoạt
động tư vấn đầu tư chứng khoán. Việc qui định tách biệt hoạt động môi giới chứng
khoán với hoạt động tự doanh nhằm tránh xung đột lợi ích giữa khách hàng với
công ty; đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động của CTCK. Sự tách biệt
gồm các nội dung: Tách biệt về nhân viên thực hiện, không được phép vừa thực
hiện hoạt động môi giới vừa thực hiện hoạt động tự doanh; tách biệt về qui trình
nghiệp vụ; tách biệt về tài sản và tiền vốn của khách hàng với của công ty; công ty
không được sử dụng vốn và tài sản của khách hàng để thực hiện KDCK. Việc qui
định tách biệt hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán với hoạt động tự doanh nhằm
đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư. Bởi vì, nếu không khi bộ phận tự doanh hoặc
nhân viên muốn mua loại chứng khoán nào thì bộ phận tư vấn có thể sẽ tư vấn cho
khách hàng bán loại chứng khoán đó và ngược lại khi bộ phận tự doanh muốn bán
loại chứng khoán nào đó thì họ lại tư vấn cho khách hàng mua loại chứng khoán đó.
Hai là, phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của CTCK.
Do tính đặc thù của ngành KDCK và khi thực hiện hoạt động tự doanh thì CTCK
cũng là một nhà đầu tư và khả năng tiếp cận thông tin, trực tiếp nhận và khớp lênh,
khả năng phân tích thị trường tốt hơn các khách hàng nhất là khách hàng cá nhân
nên các CTCK có nhiều ưu thế hơn trong quyết định mua bán chứng khoán. Vì vậy,
để đảm bảo tính công bằng, rõ ràng giữa CTCK và các nhà đầu tư, CTCK phải
thực hiện nguyên tắc ưu tiên khớp lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty.
Ba là, bình ổn giá cả thị trường. CTCK thực hiện hoạt động tự doanh có thể
điều tiết cung cầu chứng khoán trên thị trường: Khi giá chứng khoán trên thị trường20
sụt giảm (cầu giảm), qua hoạt động tự doanh CTCK có trách nhiệm mua vào; khi
giá chứng khoán tăng đột biến (cầu tăng) thì CTCK có trách nhiệm bán chứng
khoán nhằm giữ giá chứng khoán không bị biến động lớn. Các CTCK thực hiện yêu
cầu này là đã bỏ qua vai trò của nhà đầu tư với mục tiêu lợi nhuận và CTCK phải
dành một phần nhất định trong các giao dịch cho mục tiêu bình ổn thị trường.
Bốn là, tạo thị trường cho chứng khoán mới phát hành. CTCK thông qua
hoạt động tự doanh tiến hành mua bán và tạo tính thanh khoản cho chứng khoán này
trên thị trường thứ cấp - đây chính là tạo thị trường cho chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trường phi tập trung (OTC) các CTCK thường xuyên có các nhân
viên kinh doanh báo giá để mua hay bán chứng khoán với các nhà đầu tư khác, qua
đó tạo ra và duy trì một thị trường cho những loại chứng khoán mà họ kinh doanh.
Ngoài ra, CTCK thực hiện hoạt động tự doanh còn góp phần vào việc điều tiết cung
cầu các loại chứng khoán, định hướng toàn bộ thị trường nhất là những thị trường
mới thành lập, những chứng khoán ít giao dịch; tạo đà duy trì và phát triển TTCK.
Ngoài những yêu cầu trên đối với hoạt động tự doanh của CTCK cần tuân
thủ một số qui định như: Không được thực hiện mua bán cùng một loại chứng
khoán trong một ngày giao dịch; không cho người khác sử dụng tài khoản tự doanh
của công ty; không được tiến hành giao dịch trá hình tức là giao dịch không làm
dịch chuyển quyền sở hữu làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán; không được lợi
dụng các thông tin quyết định của khách hàng để mua bán trước; bị hạn chế đầu tư
theo một tỷ lệ nhất định tuỳ theo loại chứng khoán lưu hành. Hoạt động tự doanh
của CTCK là hoạt động đầu tư thu lợi nhuận, do đó công ty phải phân tích kỹ các
thông tin trước khi ra quyết định đầu tư nhằm đạt hiệu quả cao. Do vậy, các CTCK
thực hiện hoạt động tự doanh theo một qui trình khoa học, gồm các bước như sau:
Bước 01: Xây dựng chiến lược đầu tư: CTCK phải xây dựng được chiến lược
đầu tư, lựa chọn được các lĩnh vực đầu tư và danh mục đầu tư hợp lý theo từng giai
đoạn phát triển của thị trường cũng như của công ty. Chiến lược đầu tư kinh doanh
của CTCK phụ thuộc vào bản lĩnh và quan điểm đầu tư của Ban lãnh đạo công ty là
chấp nhận rủi ro hay mức độ an toàn cao; chủ động hay thụ động hay mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận; sự biến động của nền kinh tế; khả năng nắm bắt và xử lý thông
tin; trình độ phân tích tài chính; chính trị - xã hội; tâm lý; khả năng điều hành.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi21
Bước 02: Khai thác, tìm kiếm cơ hội đầu tư: Trên cơ sở mục tiêu, chiến lược
và danh mục đầu tư, CTCK triển khai tìm kiếm mặt hàng, nguồn hàng, khách hàng và
các cơ hội đầu tư trên thị trường (thị trường sơ cấp và thứ cấp) để đạt mục tiêu đề ra.
Bước 03: Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư: CTCK dựa vào các
nguồn thông tin, các nguồn hàng và cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh (có thể sẽ kết
hợp với bộ phận phân tích chứng khoán) tiến hành thẩm định, phân tích và đánh giá
chất lượng các khoản đầu tư để tìm ra kết luận phù hợp về mỗi cơ hội đầu tư, loại
chứng khoán đầu tư, giá cả, địa điểm và thời điểm,… theo một trình tự như sau:


Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển và đổi mới mạnh mẽ
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình đó, TTCK đã
hình thành, đang phát triển và từng bước hoàn thiện theo đúng bản chất của một
kênh huy động và điều hoà vốn cho nền kinh tế. TTCK muốn hoạt động nhất thiết
phải hội đủ các nhân tố về kinh tế, hàng hoá chứng khoán, chủ thể tham gia, cơ chế
vận hành,…; trong đó, CTCK là một trung gian tài chính quan trọng quyết định sự
phát triển ổn định của TTCK. CTCK là một loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp
tài chính) hoạt động trên TTCK, nó không những quản lý tài sản tiền vốn của bản
thân công ty mà còn quản lý hạch toán cả tài sản tiền vốn của của khách hàng; vì
vậy, để tăng cường tính minh bạch và tin cậy, các CTCK phải tổ chức hệ thống
quản lý và giám sát chặt chẽ, rõ ràng mọi mặt hoạt động nhất là quản lý kinh tế tài
chính. Một trong những công cụ quản lý quan trọng có hiệu quả của các đơn vị nói
chung, CTCK nói riêng là kế toán; và tổ chức công tác kế toán là khâu then chốt
quyết định đến việc thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng của kế toán trong công tác
quản lý, nâng cao chất lượng thông tin kế toán cung cấp và hiệu quả kinh doanh.
Xuất phát từ việc nghiên cứu cơ sở khoa học của lý luận và thực tiễn tổ chức
công tác kế toán trong các CTCK trong luận án "Tổ chức công tác kế toán trong
các công ty chứng khoán Việt Nam" và xu hướng phát triển, yêu cầu tất yếu của
công tác quản lý kinh tế tài chính, tác giả rút ra những kết luận chủ yếu sau đây:
1. Khẳng định vai trò quan trọng của CTCK một trung gian tài chính thực
hiện nhiệm vụ cầu nối giữa những người cần vốn cho đầu tư phát triển và người có
vốn nhàn rỗi, giữa người mua và người bán trên TTCK; đánh giá sự cần thiết, ý
nghĩa của việc xây dựng mô hình CTCK phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
TTCK và nền kinh tế. Hoạt động của CTCK không những liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của công ty mà còn đặc biệt liên quan đến lợi ích của khách hàng, các nhà
đầu tư trên TTCK. Phân tích những đặc điểm của các hoạt động kinh doanh chứng
khoán ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán trong các CTCK và vai trò của thông
tin kế toán cung cấp đối với các nhà quản lý, khách hàng và những người quan tâm.196
2. Nghiên cứu những luận cứ khoa học và đánh giá sâu sắc cơ sở lý luận
chung về tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị nói chung và tổ chức công tác kế
toán trong các CTCK nói riêng. Phân tích, đánh giá về mặt lý luận các nội dung của
tổ chức công tác kế toán trong mối quan hệ theo cả chiều ngang và chiều dọc; xác
định mối quan hệ biện chứng giữa các nội dung này trong công tác kế toán theo từng
nội dung cụ thể, đặc biệt là tổ chức kế toán quản trị phục vụ các nhà quản trị CTCK.
Khẳng định sự cần thiết và ý nghĩa của việc tổ chức công tác kế toán trong CTCK
đảm bảo tính khoa học, hợp lý và phù hợp với đặc điểm kinh doanh của từng công ty.
3. Nghiên cứu, phân tích và đánh giá đúng thực trạng tổ chức công tác kế
toán trong một số CTCK Việt Nam hiện nay với các nội dung chủ yếu là tổ chức thu
nhận, kiểm tra, xử lý, hệ thống hoá và cung cấp thông tin về các nghiệp vụ kinh tế
tài chính phát sinh trong CTCK; tổ chức bộ máy kế toán hướng đến đảm bảo phù
hợp với cơ chế vận hành của các nội dung tổ chức công tác kế toán; tổ chức các
điều kiện đảm bảo cho bộ máy kế toán vận hành đúng chức năng, nhiệm vụ như xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, công tác lưu
trữ và bảo mật tài liệu kế toán, công tác kiểm tra, kiểm soát đối với công tác kế
toán; đặc biệt là về thực trạng tổ chức kế toán quản trị trong các CTCK hiện nay.
4. Nghiên cứu thực trạng kinh nghiệm tổ chức công tác kế toán CTCK của
Trung Quốc, Pháp và Mỹ; đánh giá và rút ra những bài học đối với tổ chức công tác
kế toán trong các CTCK Việt Nam như về tổ chức chứng từ, tài khoản kế toán, báo
cáo kế toán đảm bảo tính khoa học, tiện ích và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
5. Luận án phân tích rút ra những ưu điểm và những tồn tại trong tổ chức công
tác kế toán của các CTCK hiện nay. Tập trung phân tích, đánh giá những tồn tại của
chế độ kế toán áp dụng đối với CTCK và từng nội dung tổ chức công tác kế toán tại
các CTCK; phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra những giải pháp (nội dung)
từ cụ thể chi tiết đến khái quát nhằm hoàn thiện từng khâu công việc kế toán, từng nội
dung tổ chức công tác kế toán trong các CTCK Việt Nam. Qua đó có thể ứng dụng
trong quá trình xây dựng, sửa đổi và bổ sung chế độ kế toán CTCK theo nguyên
tắc thị trường và công khai, minh bạch thông tin kế toán; các CTCK có thể vận
dụng vào thực tiễn tổ chức công tác kế toán phù hợp với đặc điểm từng công ty.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi197
6. Phân tích sự cần thiết của các điều kiện để thực thi các giải pháp hoàn thiện
tổ chức công tác kế toán CTCK được đưa ra trong luận án như đối với Quốc Hội,
Chính phủ, Bộ Tài chính, các bộ ngành liên quan, UBCKNN và bản thân CTCK (bộ
phận kế toán). Khẳng định sự thống nhất trong các qui định về tài chính kế toán của
Nhà nước là nền tảng để các CTCK triển khai tổ chức và thực hiện tại công ty; sự
quan tâm và minh bạch trong công tác quản lý của lãnh đạo công ty, lãnh đạo bộ phận
kế toán đến từng nhân viên kế toán là nhân tố quan trọng để các qui trình từng phần
hành kế toán được thực hiện chính xác, kịp thời và đầy đủ; sự tu dưỡng đạo đức nghề
nghiệp và chuyên môn cùng với tư duy kinh tế tài chính của mỗi nhân viên kế toán là
nhân tố quyết định để tổ chức công tác kế toán chặt chẽ, khoa học và hợp lý đảm bảo
thông tin kế toán cung cấp cho các đối tượng hữu ích, minh bạch và đáng tin cậy.
Qua những kết quả nghiên cứu đã được thể hiện trong Luận án với những
luận giải có cơ sở khoa học cả lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên cứu khoa
học và phù hợp; các nội dung khoa học trong luận án đã đáp ứng được mục tiêu
nghiên cứu, phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án. Kết quả
nghiên cứu của luận án góp phần củng cố cơ sở lý luận về tổ chức công tác kế toán,
đồng thời có thể được ứng dụng vào thực tế trong công tác kế toán CTCK Việt Nam./
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

meowmeo

New Member
em đang làm đề án về kế toán đầu tư chứng khoán, nên rất cần những tài liệu liên quan. Em Thank ạ!
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
R Vai trò và cơ cấu tổ chức của công ty xuyên quốc gia trong Marketing quốc tế Luận văn Kinh tế 0
D Thực trạng tổ chức hạch toán kết toán tại công ty TNHH sản xuất và thương mại Hưng Phát Luận văn Kinh tế 0
D Hoàn thiện tổ chức và quản lý kênh phân phối sản phẩm của công ty TNHH thương mại dịch vụ Thiên An Lộc Luận văn Kinh tế 0
D Giải pháp nâng cao sự gắn bó của nhân viên với tổ chức tại công ty pfizer việt nam Luận văn Kinh tế 0
D Liên hệ thực tiễn công tác tổ chức hoạt động quản trị nhân lực tại Vietravel Văn hóa, Xã hội 0
D Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại Bảo hiểm xã hội huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định Luận văn Kinh tế 0
D Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại công ty cổ phần sản xuất thương mại may sài gòn Luận văn Kinh tế 0
D QUY TRÌNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY CP CÀ PHÊ MÊ TRANG Luận văn Kinh tế 0
D Thực trạng và một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho lao động quản lý tại Công ty cơ khí 79 Văn hóa, Xã hội 0
D Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác tổ chức xây dựng chương trình, kế hoạch tại ủy ban nhân dân Văn hóa, Xã hội 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top