anhsao_tinhnhan2003
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
NỘI DUNG
I/. Khái quát chung.
1. Địa vị pháp lý của Chính phủ
Chính phủ là cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Điều 109, Hiến pháp năm 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Như vậy, vị trí của Chính phủ trong Hiến pháp năm 1992 là sự trở về với quy định của Hiến pháp 1959, theo đó Chính phủ có hai vị tri sau:
Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tính phụ thuộc của Chính phủ vào Quốc hội xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất” mà quyền lực lại tập trung cao nhất ở Quốc hội, do vậy Chính phủ trước hết là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện pháp luật và nghị quyết của Quốc hội. Đối với các đạo luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành, Chính phủ có nhiệm vụ phải chấp hành chứ không có quyền phủ quyết như Chính phủ một số nước trên thế giới.
Thứ hai, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. So với Hiến pháp năm 1980 thì Hiến pháp năm 1992 đã xác lập vị thế mới cho Chính phủ (là chủ thể tối cao của quyền hành pháp). Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nên Chính phủ có toàn quyền để quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động hành chính của quốc gia.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ Việt Nam có chức năng chủ yếu là: “Thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm sự phát triển ổn định và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân” (khoản 2 Điều 109 Hiến pháp năm 1992). Những chức năng này là cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ một cách hợp lý trong chương II Luật Tổ chức Chính phủ.
Vì hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ có phạm vi rất rộng, bao trùm lên tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội nên nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trải rộng trên tất cả các ngành quản lý: khoa học, công nghệ và môi trường; văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao và du lịch; y tế và xã hội, dân tộc và tôn giáo;… Cụ thể, Chính phủ có quyền trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác ra trước Quốc hội và UBTVQH; quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh và quan trọng nhất là quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ,…
Nhìn chung, Hiến pháp năm 1992 đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ một cách cụ thể và khá chi tiết. Tuy nhiên, chính việc quy định thẩm quyền theo kiểu liệt kê trong từng lĩnh vực của Chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ nhất là trong những lĩnh vực mới phát sinh.
3. Hình thức hoạt động của Chính phủ
Hiện nay Chính phủ hoạt động dựa trên ba hình thức chủ yếu sau: Phiên họp Chính phủ; hoạt động lãnh đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động của các thành viên Chính phủ. Căn cứ vào các hình thức hoạt động có thể thấy cách hoạt động của Chính phủ đã được triển khai tích cực dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ chế độ làm việc tập thể của Chính phủ với việc tăng cường vaii trò chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và nâng cao trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đối với ngành, lĩnh vực được giao phụ trách.
II/. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện.
1. Tổ chức của Chính phủ.
1.1. Về cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
Theo quy định tại Điều 2, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 thì cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có các Bộ và các cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý đối với ngành công tác trong phạm vi cả nước . Trước Hiến pháp năm 1992, các Bộ được thành lập theo hướng quản lý đơn ngành nên hệ thống cơ quan hành chính nhà nước rất cồng kềnh (HĐBT theo quy định của Hiến pháp năm 1980 có 28 Bộ và 26 cơ quan thuộc HĐBT) thì nay cơ cấu Chính phủ đã được kiện toàn theo hướng thành lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực vì thế số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã được giảm đi đáng kể. (Nhiệm kì 2007 - 2011, chỉ còn 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ). Sự xắp xếp lại tổ chức của Chính phủ đã làm cho bộ máy tổ chức của Chính phủ tinh gọn hơn và tập trung vào hoạt động quản lý vĩ mô giúp Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên so với thực tiễn hoạt động của mình thì cơ cấu tổ chức của Chính phủ vẫn chưa thực sự phù hợp, gọn nhẹ.
Để đảm bảo cho tổ chức của Chính phủ được gọn nhẹ, việc điều hành của Chính phủ được tập trung, thống nhất cần tiếp tục giảm số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Cụ thể:
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các Bộ và cơ quan ngang Bộ theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, hợp nhất các Bộ có chức năng giống nhau và gần giống nhau, tăng cường các Bộ chức năng, giảm bớt các Bộ quản lý ngành và lập các Bộ quản lý đa ngành.
- Giảm đầu mối quản lý của Chính phủ theo hướng ngoài các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, nên để rất ít các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước và sự nghiệp trực thuộc Chính phủ.
1.2 Về thành phần của Chính phủ
Điều 3, Luật Tổ chức Chính phủ quy định thành phần của Chính phủ gồm có Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Thứ nhất, xét vị trí, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Chính phủ. Việc đổi tên cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta là Chính phủ và người đứng đầu là Thủ tướng khẳng định sự tăng cường mạnh mẽ vị trí, vai trò của người đứng đầu Chính phủ. Nếu như ở Hiến pháp năm 1980, Chính phủ được gọi là Hội đồng Bộ trưởng, còn người đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thể hiện cách tổ chức và hoạt động của Chính phủ kiểu hội đồng (tập thể), thì nay với cơ chế Chính phủ - Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu Chính phủ có nhiều quyền hạn hơn.
HĐBT theo Hiến pháp năm 1980 là cơ quan được Quốc hội bầu ra từ chủ tịch HĐBT đến tất cả các thành viên khác còn Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 lại được bầu ra theo trình tự mới: “Quốc hội bầu, miễn nhiệm, cách chức thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức các thành viên khác của Chính phủ” (khoản 7, điều 84; khoản3, điều 103; khoản 2, điều 114). Như vậy, theo Hiến pháp năm 1992, vai trò của Thủ tướng Chính phủ đã được đề cao hơn đồng thời trách nhiệm của các thành viên đối với Thủ tướng Chính phủ cũng được tăng cường.
Thứ hai, xét vấn đề số lượng Phó Thủ tướng trong thành phần của Chính phủ
Hiến pháp năm 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất và là chủ thể cơ bản thực hiện quyền hành pháp. Để tăng cường vai trò của Thủ tướng, một mặt trao đầy đủ về cơ bản quyền hạn cho Thủ tướng. Mặt khác, Hiến pháp quy định “phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một phó Thủ tướng được Thủ tướng uỷ quyền thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ ”(đoạn 3, Điều 110). Một điểm lưu ý là hiện nay trong thành phần của Chính phủ Việt Nam, số lượng Phó thủ tướng là tương đối nhiều, mặc dù đã giảm hơn so với giai đoạn trước Hiến pháp năm 1992. Cụ thể, Chính phủ trong nhiệm kỳ 2002-2007 có 3 Phó Thủ tướng, đến nhiệm kỳ 2007-2011 thì tiếp tục tăng lên với con số 5 Phó Thủ tướng. Việc có quá nhiều Phó Thủ tướng trong cơ cấu thành phần của Chính phủ, một mặt làm tăng đầu mối quản lý trong Chính phủ, mặt khác làm giảm vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng và ngay cả vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng trong lĩnh vực ngành được giao cũng không được phát huy đầy đủ. Vì vậy, giảm số lượng Phó thủ tướng để đề cao vị trí của Thủ tướng và đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được tập trung, thống nhất là phương hướng cơ bản được đặt ra hiện nay, có thể chỉ cần 2 hay 3 Phó thủ tướng là đủ.
Thứ ba, xét vấn đề kiêm nhiệm Bộ trưởng.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
NỘI DUNG
I/. Khái quát chung.
1. Địa vị pháp lý của Chính phủ
Chính phủ là cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Điều 109, Hiến pháp năm 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Như vậy, vị trí của Chính phủ trong Hiến pháp năm 1992 là sự trở về với quy định của Hiến pháp 1959, theo đó Chính phủ có hai vị tri sau:
Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tính phụ thuộc của Chính phủ vào Quốc hội xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất” mà quyền lực lại tập trung cao nhất ở Quốc hội, do vậy Chính phủ trước hết là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện pháp luật và nghị quyết của Quốc hội. Đối với các đạo luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành, Chính phủ có nhiệm vụ phải chấp hành chứ không có quyền phủ quyết như Chính phủ một số nước trên thế giới.
Thứ hai, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. So với Hiến pháp năm 1980 thì Hiến pháp năm 1992 đã xác lập vị thế mới cho Chính phủ (là chủ thể tối cao của quyền hành pháp). Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nên Chính phủ có toàn quyền để quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động hành chính của quốc gia.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ Việt Nam có chức năng chủ yếu là: “Thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm sự phát triển ổn định và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân” (khoản 2 Điều 109 Hiến pháp năm 1992). Những chức năng này là cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ một cách hợp lý trong chương II Luật Tổ chức Chính phủ.
Vì hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ có phạm vi rất rộng, bao trùm lên tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội nên nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trải rộng trên tất cả các ngành quản lý: khoa học, công nghệ và môi trường; văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao và du lịch; y tế và xã hội, dân tộc và tôn giáo;… Cụ thể, Chính phủ có quyền trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác ra trước Quốc hội và UBTVQH; quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh và quan trọng nhất là quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ,…
Nhìn chung, Hiến pháp năm 1992 đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ một cách cụ thể và khá chi tiết. Tuy nhiên, chính việc quy định thẩm quyền theo kiểu liệt kê trong từng lĩnh vực của Chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ nhất là trong những lĩnh vực mới phát sinh.
3. Hình thức hoạt động của Chính phủ
Hiện nay Chính phủ hoạt động dựa trên ba hình thức chủ yếu sau: Phiên họp Chính phủ; hoạt động lãnh đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động của các thành viên Chính phủ. Căn cứ vào các hình thức hoạt động có thể thấy cách hoạt động của Chính phủ đã được triển khai tích cực dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ chế độ làm việc tập thể của Chính phủ với việc tăng cường vaii trò chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và nâng cao trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đối với ngành, lĩnh vực được giao phụ trách.
II/. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện.
1. Tổ chức của Chính phủ.
1.1. Về cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
Theo quy định tại Điều 2, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 thì cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có các Bộ và các cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý đối với ngành công tác trong phạm vi cả nước . Trước Hiến pháp năm 1992, các Bộ được thành lập theo hướng quản lý đơn ngành nên hệ thống cơ quan hành chính nhà nước rất cồng kềnh (HĐBT theo quy định của Hiến pháp năm 1980 có 28 Bộ và 26 cơ quan thuộc HĐBT) thì nay cơ cấu Chính phủ đã được kiện toàn theo hướng thành lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực vì thế số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã được giảm đi đáng kể. (Nhiệm kì 2007 - 2011, chỉ còn 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ). Sự xắp xếp lại tổ chức của Chính phủ đã làm cho bộ máy tổ chức của Chính phủ tinh gọn hơn và tập trung vào hoạt động quản lý vĩ mô giúp Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên so với thực tiễn hoạt động của mình thì cơ cấu tổ chức của Chính phủ vẫn chưa thực sự phù hợp, gọn nhẹ.
Để đảm bảo cho tổ chức của Chính phủ được gọn nhẹ, việc điều hành của Chính phủ được tập trung, thống nhất cần tiếp tục giảm số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Cụ thể:
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các Bộ và cơ quan ngang Bộ theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, hợp nhất các Bộ có chức năng giống nhau và gần giống nhau, tăng cường các Bộ chức năng, giảm bớt các Bộ quản lý ngành và lập các Bộ quản lý đa ngành.
- Giảm đầu mối quản lý của Chính phủ theo hướng ngoài các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, nên để rất ít các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước và sự nghiệp trực thuộc Chính phủ.
1.2 Về thành phần của Chính phủ
Điều 3, Luật Tổ chức Chính phủ quy định thành phần của Chính phủ gồm có Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Thứ nhất, xét vị trí, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Chính phủ. Việc đổi tên cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta là Chính phủ và người đứng đầu là Thủ tướng khẳng định sự tăng cường mạnh mẽ vị trí, vai trò của người đứng đầu Chính phủ. Nếu như ở Hiến pháp năm 1980, Chính phủ được gọi là Hội đồng Bộ trưởng, còn người đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thể hiện cách tổ chức và hoạt động của Chính phủ kiểu hội đồng (tập thể), thì nay với cơ chế Chính phủ - Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu Chính phủ có nhiều quyền hạn hơn.
HĐBT theo Hiến pháp năm 1980 là cơ quan được Quốc hội bầu ra từ chủ tịch HĐBT đến tất cả các thành viên khác còn Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 lại được bầu ra theo trình tự mới: “Quốc hội bầu, miễn nhiệm, cách chức thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức các thành viên khác của Chính phủ” (khoản 7, điều 84; khoản3, điều 103; khoản 2, điều 114). Như vậy, theo Hiến pháp năm 1992, vai trò của Thủ tướng Chính phủ đã được đề cao hơn đồng thời trách nhiệm của các thành viên đối với Thủ tướng Chính phủ cũng được tăng cường.
Thứ hai, xét vấn đề số lượng Phó Thủ tướng trong thành phần của Chính phủ
Hiến pháp năm 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất và là chủ thể cơ bản thực hiện quyền hành pháp. Để tăng cường vai trò của Thủ tướng, một mặt trao đầy đủ về cơ bản quyền hạn cho Thủ tướng. Mặt khác, Hiến pháp quy định “phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một phó Thủ tướng được Thủ tướng uỷ quyền thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ ”(đoạn 3, Điều 110). Một điểm lưu ý là hiện nay trong thành phần của Chính phủ Việt Nam, số lượng Phó thủ tướng là tương đối nhiều, mặc dù đã giảm hơn so với giai đoạn trước Hiến pháp năm 1992. Cụ thể, Chính phủ trong nhiệm kỳ 2002-2007 có 3 Phó Thủ tướng, đến nhiệm kỳ 2007-2011 thì tiếp tục tăng lên với con số 5 Phó Thủ tướng. Việc có quá nhiều Phó Thủ tướng trong cơ cấu thành phần của Chính phủ, một mặt làm tăng đầu mối quản lý trong Chính phủ, mặt khác làm giảm vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng và ngay cả vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng trong lĩnh vực ngành được giao cũng không được phát huy đầy đủ. Vì vậy, giảm số lượng Phó thủ tướng để đề cao vị trí của Thủ tướng và đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được tập trung, thống nhất là phương hướng cơ bản được đặt ra hiện nay, có thể chỉ cần 2 hay 3 Phó thủ tướng là đủ.
Thứ ba, xét vấn đề kiêm nhiệm Bộ trưởng.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links