nganhang2k2008
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lời mở đầu
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó, đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ làm giảm đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Diện và hàng thừa kế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.
Nội dung
I.Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế.
1.Thừa kế theo pháp luật.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế. Theo điều 674 Bộ luật dân sự 2005: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.
Theo quy định của thừa kế theo pháp luật thì sau khi người để lại di sản qua đời, tài sản sẽ được chia đều cho những người thừa kế của người đó. Những người thừa kế này được xác định thông qua ba mối quan hệ chính là: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Những người thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng lực hành vi thì người đó vẫn có quyền thừa kế. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân về quyền thừa kế nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế từ người chết và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản mình nhận được.
Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người thừa kế thành nhiều hàng thừa kế. Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất là những người có quan hệ hộn nhân, quan hệ huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác. Các hàng thứ hai, thứ ba là các hàng dự bị, chỉ được hưởng di sản nếu như không còn ai ở hàng thứ nhất hay có nhưng họ đều không nhận hay không được quyền nhận.
2.Diện và hàng thừa kế
a.Diện thừa kế:
Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được pháp luật quy định dựa trên ba mối quan hệ chính với người để lại di sản:
Quan hệ hôn nhân: xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng.
Quan hệ huyết thống: quan hệ giữa những người cùng dòng máu (cụ với ông, bà; ông, bà với cha, mẹ; cha mẹ với các con; anh chị em ruột…)
Quan hệ nuôi dưỡng: xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (cha mẹ nhận nuôi con nuôi). Ở Việt Nam thời phong kiến, dựa theo khuôn mẫu gia đình “tam, tứ đại đồng đường” là kiểu gia đình mở rộng, nơi ba bốn thế hệ chung sống dưới cùng một mái nhà. Nên diện thừa kế theo pháp luật được xác định hết sức rộng rãi, bao gồm toàn bộ những người thích thuộc của người chết mà không theo mức độ gần gũi. Theo sự ghi nhận của các bộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân thuộc của người chết dù xa hay gần, dù thân hay sợ đều thuộc diện thừa kế theo luật của người đó. Khi không còn ai bên nội tộc còn sống thì di sản được chuyển dịch sang bên ngoại.
Sau khi giành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam dân chủ công hòa, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật xác định phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luât:
Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19/8/1956 quy định diện những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ hay chồng, các con đẻ, các con nuôi, cháu, chắt, cha mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế khác. Nhưng thông tư này không xác định rõ những người thừa kế khác là ai nên trong thời kỳ này anh, chị, ông, bà không thuộc diện thừa kế.
Thông tư 594 xác định diện thừa kế bao gồm: vợ góa (cả vợ cả và vợ lẽ); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại; anh chị em ruột và anh chị em nuôi. Thông tư này đã thêm được anh chị em và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại bỏ đi cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế.
Thông tư 81 xác định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Đây là một quan điểm tiến bộ vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Vì vậy, diện thừa kế được quy định trong thông tư bao gồm: vợ góa (vợ cà và vợ lẽ) hay chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố mẹ đẻ hay bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi. Ngoài ra thông tư còn quy định “người thừa tự” cũng là người thừa kế theo pháp luật tức là cháu được quyền thừa kế của ông bà nếu cha mẹ không còn.
Pháp lệnh thừa kế do Hội đồng Nhà nước ban hành vào ngày 30/8/1990. Diện thừa kế theo pháp lệnh này mở rộng hơn so với Thông tư 81. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại tài sản theo trực hệ được xác định đến tận 4 đời (từ đời cụ xuống đời chắt). Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và ngược lại). Pháp lệnh thừa kế bác bỏ quyền thừa kế của anh chị em nuôi.
Bộ luật dân sự 1995 không quy định trực tiếp về diện thừa kế nhưng dựa vào hàng thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế thế vị thì đã xác định được diện thừa kế bao gồm: vợ hay chồng; các con đẻ và các con nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ nhất); bố mẹ đẻ hay bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột (thuộc hàng thừa kế thứ hai); cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại (thừa kế thế vị).
Cho đến nay Bộ luật dân sự 2005 thì diện thừa kế vẫn được xác định như năm 1999. Tuy nhiên có một điểm khác biệt là chắt được liệt thêm vào hàng thừa kế thứ ba.
b.Hàng thừa kế
Theo pháp luật, di sản của người chết đượcchia cho những người thân thích, gần gũi đối với người chết. Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam và phần lớn các nước đặt ra quy định về hàng thừa kế để giải quyết vấn đề này.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế để giải quyết vấn đề này.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.
Theo Khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra làm ba hàng:
Hàng thứ nhất bao gồm:vợ hay chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau:
+ Quan hệ thừa kế của vợ chồng:
Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì “Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Vì thế vào thời điểm mở thừa kế nếu quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại được thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau. Do rất nhiều thay đổi trong luật pháp nên việc xác định quyền thừa kế của vợ chồng cần chú ý các trường hợp sau:
Trường hợp một: vợ chồng đã chia tài sản chung hay sống ly thân hay một người đã bỏ đi sống với người khác một cách bất hợp pháp nhưng chưa ly hôn, về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân vẫn còn tồn tại. Nên người này được quyền thừa kế khi người kia chết.
Trường hợp hai: vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án chấp nhận hay đã được chấp nhận nhưng quyết định hay bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật thì một người chết. Khi đó người còn lại vẫn được quyền hưởng di sản của người chết.
Trường hợp ba: nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đều tiến hành trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc (ngày Luật hôn nhân và gia định năm 1959 có hiệu lực ở miền Bắc) và trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì việc người đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi người này chết thì tất cả các bà vợ (còn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế theo hàng thứ nhất và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các bà vợ qua đời.
Do anh B và anh C chết cùng thời điểm với ông A, do vậy con của họ được thừa kế thế vị theo quy định tại điều 677 Bộ luật dân sự.
E = F = 360 000 000 đồng : 2 = 180 000 000 đồng
Q = K = 360 000 000 đồng : 2 = 180 000 000 đồng
Trong trường hợp này, di sản của ông A không thể chuyển giao cho những người thuộc hàng thừa kế thứ hai được hưởng. Vì hiệu lực pháp luật của di chúc vô hiệu và di sản của ông A đã được chia theo pháp luật và các cháu của ông A đã thừa kế thế vị, do anh B và anh C chết cùng thời điểm với ông A.
Trường hợp thứ ba, nếu toàn bộ người ở hàng thừa kế thứ nhất đều bị người để lại di sản truất quyền thừa kế theo di chúc và tại hàng này không có cha, mẹ, vợ hay chồng của người để lại di sản. Các con của người để lại di sản đều còn sống vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản thì di sản của người chết được chuyển giao cho những người thừa kế tại hàng thừa kế thứ hai được hưởng.
Ví dụ: ông A có một người em ruột là ông M và có hai người con là B và C, đều đã trưởng thành. Ông A chết có để lại di chúc truất quyền thừa kế của anh B và anh C. Di sản của ông A có 90 000 000 đồng.
Do hai người con của ông A bị truất quyền hưởng di sản của ông A, do vậy di sản của ông A được chuyển sang hàng thừa kế thứ hai được hưởng, theo đó ông M được hưởng thừa kế di sản của ông A theo pháp luật là 90 000 000 đồng.
Trường hợp thứ tư, những người thừa kế tại hàng thứ nhất đều đã chết trước người để lại di sản và trong số họ có người đã có con, do vậy di sản của người chết không thể chuyển xuống cho những người thừa kế hàng thứ hai được hưởng mà vẫn chia di sản theo hàng thừa kế thứ nhất để có căn cứ xác định phần di sản của người được hưởng thừa kế thế vị.
Ví dụ: ông A có ba người con là anh B, anh C và chị D. Anh C có hai con là M và N. Cả ba người con của ông A đều đã chết trước ông A. Ông A qua đời vào tháng 3, 2007 không để lại di chúc. Vậy di sản của ông A được chia như sau: Hàng thừa kế thứ nhất của ông A có ba người nhưng đều đã chết trước ông A nhưng anh C đã có con, vậy di sản của ông A được chia cho 1 suất thừa kế (là anh C nếu còn sống thì hưởng) và trong trường hợp này, các con của anh C được thừa kế thế vị.
Vậy M = N = 90 000 000 đồng : 2 = 45 000 000 đồng
Theo những nội dung phân tích trên đây, nhận thấy pháp luật thừa kế của nước ta còn nhiều vấn đề liên quan đến thừa kế theo pháp luật đặc bieetk là mối quan hệ giữa thừa kế thế vị và trường hợp di sản được chuyển cho những ngưởi thừa kế tại hàng thứ hai.
III.Diện và hàng thừa kế theo pháp luật - Một số điểm hạn chế
Thứ nhất, hàng thừa kế thứ hai cháu chỉ được thừa kế của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi ở hàng thừa kế thứ nhất có một người thừa kế là cha đẻ (mẹ đẻ) bị mất quyền hưởng di sản hay có nhiều người thừa kế nhưng tất cả đều không có quyền hưởng di sản hay không nhận di sản,thì cháu cùng với anh chị em ruột của người chết sẽ được hưởng di sản của ông bà. Trên thực tế trường hợp này rất khó xảy ra. Mặt khác, quan hệ giữa cháu nội với ông nội, bà nội là quan hệ huyết thống trực hệ và nếu xét về quan hệ gia đình truyền thống thì giữa ông nội, bà nội và cháu nội là một gia đình, cháu phải nuôi dưỡng thờ cúng ông bà, cho nên cháu cần được hưởng di sản trước anh chị em ruột của người chết. Trường hợp không có cháu hay chắt thì anh chị em ruột được hưởng di sản của người chết.
Thứ hai, theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì cháu ở hàng thứ hai chỉ được nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi hàng thứ nhất có một người thừa kế duy nhất còn. Trường hợp này nếu cha đẻ, mẹ đẻ của cháu không nhận hay không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì di sản chia cho người thừa kế hàng thứ hai là cháu. Ngược lại, nếu hàng thứ nhất nhiều người thừa kế trong đó có một người là cha hay mẹ cháu không nhận di sản, không có quyền nhận di sản…thì phần di sản lẽ ra cha mẹ cháu được hưởng sẽ chia cho những người thừa kế cùng hàng là cô, dì, chú, bác ruột của cháu. Trường hợp này vô hình chung những người thừa kế hàng thứ nhất được hưởng nhiều hơn một suất theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền lợi của các cháu, pháp luật nên cho phép cháu được hưởng phần di sản mà cha hay mẹ cháu không được hưởng.
Thứ ba, khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự quy định những người thừa kế hàng sau chỉ được hưởng di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết…Quy định này mâu thuẫn với Điều 677 là cháu thừa kế thế vị khi bố hay mẹ chết trước hay chết cùng ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, vì vậy nếu cháu thế vị thì hàng thứ hai hay thứ ba không được hưởng di sản.
IV.Hoàn thiện một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
Đối với thừa kế theo pháp luật, nên cấu trúc lại Điều 676 về người thừa kế theo pháp luật. Nên chia điểm b Điều 676 thành 2 hàng (hàng 2 và 3) thừa kế.
Hàng thứ nhất gồm cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi người chết.
Hàng thứ hai gồm cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thứ ba gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột của người chết.
Hàng thứ tư gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Xét về quan hệ huyết thống trực hệ thì cháu ruột với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại gần gũi hơn quan hệ anh, chị, em ruột với nhau. Về quan hê nuôi dưỡng, cháu có nghĩa vụ nuôi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại nếu không có người nuôi dưỡng. Mặt khác, theo tập quán thì cháu phải thờ cũng ông, bà. Vì những lẽ trên, quy định cháu ở hàng thứ hai là phù hợp.
Trường hợp không xếp cháu là hàng thứ hai thì không nên quy định về thừa kế thế vị như Điều 677 sẽ hạn chế quyền lợi của các cháu khi mà bố hay mẹ từ chối, không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội hay ông ngoại, bà ngoại, thì cháu không hưởng di sản của ông nội, bà nội,hay ông ngoại, bà ngoại. Vì vậy nên quy định là trường hợp bố hay mẹ từ chối, không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội hay ông ngoại, bà ngoại thì các con của người từ chối nhận di sản (cháu) sẽ hưởng di sản của ông nội, bà nội hay ông ngoại, bà ngoại.
Kết luận
Mục lục
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I.Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế. 2
1.Thừa kế theo pháp luật. 2
2.Diện và hàng thừa kế 3
a.Diện thừa kế……………………………………………………………….3
b.Hàng thừa kế………………………………………………………………5
II.Quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế - Thực tiễn áp dụng. 3
III.Diện và hàng thừa kế theo pháp luật - Một số điểm hạn chế 3
IV.Hoàn thiện một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật. 3
Kết luận 3
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Lời mở đầu
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó, đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ làm giảm đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Diện và hàng thừa kế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.
Nội dung
I.Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế.
1.Thừa kế theo pháp luật.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế. Theo điều 674 Bộ luật dân sự 2005: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.
Theo quy định của thừa kế theo pháp luật thì sau khi người để lại di sản qua đời, tài sản sẽ được chia đều cho những người thừa kế của người đó. Những người thừa kế này được xác định thông qua ba mối quan hệ chính là: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Những người thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng lực hành vi thì người đó vẫn có quyền thừa kế. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân về quyền thừa kế nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế từ người chết và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản mình nhận được.
Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người thừa kế thành nhiều hàng thừa kế. Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất là những người có quan hệ hộn nhân, quan hệ huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác. Các hàng thứ hai, thứ ba là các hàng dự bị, chỉ được hưởng di sản nếu như không còn ai ở hàng thứ nhất hay có nhưng họ đều không nhận hay không được quyền nhận.
2.Diện và hàng thừa kế
a.Diện thừa kế:
Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được pháp luật quy định dựa trên ba mối quan hệ chính với người để lại di sản:
Quan hệ hôn nhân: xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng.
Quan hệ huyết thống: quan hệ giữa những người cùng dòng máu (cụ với ông, bà; ông, bà với cha, mẹ; cha mẹ với các con; anh chị em ruột…)
Quan hệ nuôi dưỡng: xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (cha mẹ nhận nuôi con nuôi). Ở Việt Nam thời phong kiến, dựa theo khuôn mẫu gia đình “tam, tứ đại đồng đường” là kiểu gia đình mở rộng, nơi ba bốn thế hệ chung sống dưới cùng một mái nhà. Nên diện thừa kế theo pháp luật được xác định hết sức rộng rãi, bao gồm toàn bộ những người thích thuộc của người chết mà không theo mức độ gần gũi. Theo sự ghi nhận của các bộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân thuộc của người chết dù xa hay gần, dù thân hay sợ đều thuộc diện thừa kế theo luật của người đó. Khi không còn ai bên nội tộc còn sống thì di sản được chuyển dịch sang bên ngoại.
Sau khi giành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam dân chủ công hòa, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật xác định phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luât:
Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19/8/1956 quy định diện những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ hay chồng, các con đẻ, các con nuôi, cháu, chắt, cha mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế khác. Nhưng thông tư này không xác định rõ những người thừa kế khác là ai nên trong thời kỳ này anh, chị, ông, bà không thuộc diện thừa kế.
Thông tư 594 xác định diện thừa kế bao gồm: vợ góa (cả vợ cả và vợ lẽ); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại; anh chị em ruột và anh chị em nuôi. Thông tư này đã thêm được anh chị em và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại bỏ đi cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế.
Thông tư 81 xác định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Đây là một quan điểm tiến bộ vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Vì vậy, diện thừa kế được quy định trong thông tư bao gồm: vợ góa (vợ cà và vợ lẽ) hay chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố mẹ đẻ hay bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi. Ngoài ra thông tư còn quy định “người thừa tự” cũng là người thừa kế theo pháp luật tức là cháu được quyền thừa kế của ông bà nếu cha mẹ không còn.
Pháp lệnh thừa kế do Hội đồng Nhà nước ban hành vào ngày 30/8/1990. Diện thừa kế theo pháp lệnh này mở rộng hơn so với Thông tư 81. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại tài sản theo trực hệ được xác định đến tận 4 đời (từ đời cụ xuống đời chắt). Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và ngược lại). Pháp lệnh thừa kế bác bỏ quyền thừa kế của anh chị em nuôi.
Bộ luật dân sự 1995 không quy định trực tiếp về diện thừa kế nhưng dựa vào hàng thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế thế vị thì đã xác định được diện thừa kế bao gồm: vợ hay chồng; các con đẻ và các con nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ nhất); bố mẹ đẻ hay bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột (thuộc hàng thừa kế thứ hai); cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại (thừa kế thế vị).
Cho đến nay Bộ luật dân sự 2005 thì diện thừa kế vẫn được xác định như năm 1999. Tuy nhiên có một điểm khác biệt là chắt được liệt thêm vào hàng thừa kế thứ ba.
b.Hàng thừa kế
Theo pháp luật, di sản của người chết đượcchia cho những người thân thích, gần gũi đối với người chết. Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam và phần lớn các nước đặt ra quy định về hàng thừa kế để giải quyết vấn đề này.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế để giải quyết vấn đề này.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.
Theo Khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra làm ba hàng:
Hàng thứ nhất bao gồm:vợ hay chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau:
+ Quan hệ thừa kế của vợ chồng:
Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì “Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Vì thế vào thời điểm mở thừa kế nếu quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại được thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau. Do rất nhiều thay đổi trong luật pháp nên việc xác định quyền thừa kế của vợ chồng cần chú ý các trường hợp sau:
Trường hợp một: vợ chồng đã chia tài sản chung hay sống ly thân hay một người đã bỏ đi sống với người khác một cách bất hợp pháp nhưng chưa ly hôn, về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân vẫn còn tồn tại. Nên người này được quyền thừa kế khi người kia chết.
Trường hợp hai: vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án chấp nhận hay đã được chấp nhận nhưng quyết định hay bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật thì một người chết. Khi đó người còn lại vẫn được quyền hưởng di sản của người chết.
Trường hợp ba: nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đều tiến hành trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc (ngày Luật hôn nhân và gia định năm 1959 có hiệu lực ở miền Bắc) và trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì việc người đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi người này chết thì tất cả các bà vợ (còn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế theo hàng thứ nhất và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các bà vợ qua đời.
Do anh B và anh C chết cùng thời điểm với ông A, do vậy con của họ được thừa kế thế vị theo quy định tại điều 677 Bộ luật dân sự.
E = F = 360 000 000 đồng : 2 = 180 000 000 đồng
Q = K = 360 000 000 đồng : 2 = 180 000 000 đồng
Trong trường hợp này, di sản của ông A không thể chuyển giao cho những người thuộc hàng thừa kế thứ hai được hưởng. Vì hiệu lực pháp luật của di chúc vô hiệu và di sản của ông A đã được chia theo pháp luật và các cháu của ông A đã thừa kế thế vị, do anh B và anh C chết cùng thời điểm với ông A.
Trường hợp thứ ba, nếu toàn bộ người ở hàng thừa kế thứ nhất đều bị người để lại di sản truất quyền thừa kế theo di chúc và tại hàng này không có cha, mẹ, vợ hay chồng của người để lại di sản. Các con của người để lại di sản đều còn sống vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản thì di sản của người chết được chuyển giao cho những người thừa kế tại hàng thừa kế thứ hai được hưởng.
Ví dụ: ông A có một người em ruột là ông M và có hai người con là B và C, đều đã trưởng thành. Ông A chết có để lại di chúc truất quyền thừa kế của anh B và anh C. Di sản của ông A có 90 000 000 đồng.
Do hai người con của ông A bị truất quyền hưởng di sản của ông A, do vậy di sản của ông A được chuyển sang hàng thừa kế thứ hai được hưởng, theo đó ông M được hưởng thừa kế di sản của ông A theo pháp luật là 90 000 000 đồng.
Trường hợp thứ tư, những người thừa kế tại hàng thứ nhất đều đã chết trước người để lại di sản và trong số họ có người đã có con, do vậy di sản của người chết không thể chuyển xuống cho những người thừa kế hàng thứ hai được hưởng mà vẫn chia di sản theo hàng thừa kế thứ nhất để có căn cứ xác định phần di sản của người được hưởng thừa kế thế vị.
Ví dụ: ông A có ba người con là anh B, anh C và chị D. Anh C có hai con là M và N. Cả ba người con của ông A đều đã chết trước ông A. Ông A qua đời vào tháng 3, 2007 không để lại di chúc. Vậy di sản của ông A được chia như sau: Hàng thừa kế thứ nhất của ông A có ba người nhưng đều đã chết trước ông A nhưng anh C đã có con, vậy di sản của ông A được chia cho 1 suất thừa kế (là anh C nếu còn sống thì hưởng) và trong trường hợp này, các con của anh C được thừa kế thế vị.
Vậy M = N = 90 000 000 đồng : 2 = 45 000 000 đồng
Theo những nội dung phân tích trên đây, nhận thấy pháp luật thừa kế của nước ta còn nhiều vấn đề liên quan đến thừa kế theo pháp luật đặc bieetk là mối quan hệ giữa thừa kế thế vị và trường hợp di sản được chuyển cho những ngưởi thừa kế tại hàng thứ hai.
III.Diện và hàng thừa kế theo pháp luật - Một số điểm hạn chế
Thứ nhất, hàng thừa kế thứ hai cháu chỉ được thừa kế của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi ở hàng thừa kế thứ nhất có một người thừa kế là cha đẻ (mẹ đẻ) bị mất quyền hưởng di sản hay có nhiều người thừa kế nhưng tất cả đều không có quyền hưởng di sản hay không nhận di sản,thì cháu cùng với anh chị em ruột của người chết sẽ được hưởng di sản của ông bà. Trên thực tế trường hợp này rất khó xảy ra. Mặt khác, quan hệ giữa cháu nội với ông nội, bà nội là quan hệ huyết thống trực hệ và nếu xét về quan hệ gia đình truyền thống thì giữa ông nội, bà nội và cháu nội là một gia đình, cháu phải nuôi dưỡng thờ cúng ông bà, cho nên cháu cần được hưởng di sản trước anh chị em ruột của người chết. Trường hợp không có cháu hay chắt thì anh chị em ruột được hưởng di sản của người chết.
Thứ hai, theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì cháu ở hàng thứ hai chỉ được nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi hàng thứ nhất có một người thừa kế duy nhất còn. Trường hợp này nếu cha đẻ, mẹ đẻ của cháu không nhận hay không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì di sản chia cho người thừa kế hàng thứ hai là cháu. Ngược lại, nếu hàng thứ nhất nhiều người thừa kế trong đó có một người là cha hay mẹ cháu không nhận di sản, không có quyền nhận di sản…thì phần di sản lẽ ra cha mẹ cháu được hưởng sẽ chia cho những người thừa kế cùng hàng là cô, dì, chú, bác ruột của cháu. Trường hợp này vô hình chung những người thừa kế hàng thứ nhất được hưởng nhiều hơn một suất theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền lợi của các cháu, pháp luật nên cho phép cháu được hưởng phần di sản mà cha hay mẹ cháu không được hưởng.
Thứ ba, khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự quy định những người thừa kế hàng sau chỉ được hưởng di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết…Quy định này mâu thuẫn với Điều 677 là cháu thừa kế thế vị khi bố hay mẹ chết trước hay chết cùng ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, vì vậy nếu cháu thế vị thì hàng thứ hai hay thứ ba không được hưởng di sản.
IV.Hoàn thiện một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
Đối với thừa kế theo pháp luật, nên cấu trúc lại Điều 676 về người thừa kế theo pháp luật. Nên chia điểm b Điều 676 thành 2 hàng (hàng 2 và 3) thừa kế.
Hàng thứ nhất gồm cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi người chết.
Hàng thứ hai gồm cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thứ ba gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột của người chết.
Hàng thứ tư gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Xét về quan hệ huyết thống trực hệ thì cháu ruột với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại gần gũi hơn quan hệ anh, chị, em ruột với nhau. Về quan hê nuôi dưỡng, cháu có nghĩa vụ nuôi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại nếu không có người nuôi dưỡng. Mặt khác, theo tập quán thì cháu phải thờ cũng ông, bà. Vì những lẽ trên, quy định cháu ở hàng thứ hai là phù hợp.
Trường hợp không xếp cháu là hàng thứ hai thì không nên quy định về thừa kế thế vị như Điều 677 sẽ hạn chế quyền lợi của các cháu khi mà bố hay mẹ từ chối, không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội hay ông ngoại, bà ngoại, thì cháu không hưởng di sản của ông nội, bà nội,hay ông ngoại, bà ngoại. Vì vậy nên quy định là trường hợp bố hay mẹ từ chối, không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội hay ông ngoại, bà ngoại thì các con của người từ chối nhận di sản (cháu) sẽ hưởng di sản của ông nội, bà nội hay ông ngoại, bà ngoại.
Kết luận
Mục lục
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I.Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế. 2
1.Thừa kế theo pháp luật. 2
2.Diện và hàng thừa kế 3
a.Diện thừa kế……………………………………………………………….3
b.Hàng thừa kế………………………………………………………………5
II.Quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế - Thực tiễn áp dụng. 3
III.Diện và hàng thừa kế theo pháp luật - Một số điểm hạn chế 3
IV.Hoàn thiện một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật. 3
Kết luận 3
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: