Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
a - mở đầu
Sau khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề sở hữu đã có sự thay đổi theo chiều hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích cho người lao động. Với sự tồn tại của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, quan hệ sở hữu khác nhau người lao động có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh, phát huy chức năng động sáng tạo của mình, tìm được nơi làm việc thích ứng với hoàn cảnh sinh sống và năng lực của mình,bảo đảm cho lợi ích tốt hơn. Kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, sở hữu quy định tính chất của các hình thức tổ chức kinh doanh và dựa vào đây để phân định các thành phần inh tế. Trong bài này em chỉ muốn trình bày vấn đề quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã xác định quan điểm chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Những chủ trương chính sách đó đã được cụ thể hoá và thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy cuả Nhà nước. Được thực tiễn những năm qua kiểm nghiệm. Đồng thời cuộc sống cũng đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ nhiều khía cạnh lý luận và đề ra một hệ thống chính sách cụ thể chung quanh vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế nhằm huy dộng mọi nguồn lực trong và ngoài nước, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân.
Xem xét vấn đề "Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta" là đi sâu vào nghiên cứu nhiều đề tài khoa học giúp ích cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN.
Quá trình tiếp cận thông tin chưa được đầy đủ, đề án này còn nhiều hạn chế nên em rất mong được sự giúp đỡ của thầy giáo.
Em xin trân thành Thank !
b - Nội dung
I- Sở hữu về tư liệu sản xuất và những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay.
1.1. Lý luận chung về sở hữu
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra rằng, chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa vận động trong sự đối lập giữa hai cực: tư bản và lao động. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, sự đối lập giữa hai cực này sẽ ngày càng trở nên gay gắt và đến một giai đoạn nhất định, sự đối lập sẽ phá vỡ hình thức tồn tại của nó, tức chế độ sở hữu TBCN. Điều này được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Giống như mọi cuộc cách mạng xã hội khác, cuộc cách mạng này có nhiệm vụ giải quyết vấn đề chế độ sở hữu, xoá bỏ chế độ sở hữu cũ, xây dựng chế độ sở hữu mới. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa.
Lợi ích của giai cấp vô sản gắn liền với sự nghiệp xoá bỏ chế độ tư hữu. Vì chế độ sở hữu TBCN tồn tại trên cơ sở tước bỏ sở hữu của đại đa số cư dân trong xã hội, nên khi thực hiện sứ mệnh lịch sử củng mình, đem lại lợi ích cho bản thân mình, giai cấp vô sản cũng đồng thời đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của tất cả những người lao động và quần chúng bị bóc lột.
Vấn đề là ở chỗ: giai cấp vô sản sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình như thế nào, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn đề sở hữu - một trong những nội dung cơ bản của cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa? "Tuyên ngôn" nhấn mạnh rằng, mục đích của việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản là nhằm tạo điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy lực lượng sản xuất, xoá bỏ sự tách rời người lao động khỏi những điều kiện lao động, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của lực lượng sản xuất, cung cấp đầy đủ sản phẩm cho mọi người trong xã hội. Với chế độ sở hữu TBCN thì lao động sống phục vụ cho lao động quá khứ, lao động làm thuê phục vụ cho sự sinh sôi, nảy nở của tư bản. Xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa trong đó lao động quá khứ phục vụ cho lao động sống, "lao động tích luỹ sẽ trở thành phương tiện để mở rộng, làm phong phú và làm giảm nhẹ cho quá trình sống của những người lao động".
Như vậy, quá trình xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN không phải là quá trình phủ định sạch trơn sở hữu, mà là quá trình xoả bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai cực mà sở hữu vận động trong đó là tư bản và lao động.
Đối với tư bản, đó là quá trình chuyển biến tính chất xã hội của sở hữu, xoá bỏ tính chất tư sản của sở hữu, xoá bỏ quyền dùng chiếm hữu để nô dịch người khác.
Đối với người lao động, đó là quá trình xoá bỏ tính chất bi thảm của chiếm hữu. "Tuyên ngôn" khẳng định, những người vô sản- những công nhân làm thuê - chỉ có thể giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách xoá bỏ cách chiếm hữ hiện nay của chính họ, thực chất là xoá bỏ "tính chất bi thảm của cái cách khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi".
Xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN là một quá trình, dựa trên những điều kiện hiện thực, là kết quả của hoạt động hiện thực.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản chỉ ra rằng, mặc dù lực lượng sản xuất xã hội của CNTB hiện đại chưa phát triển đến mức có thể sản xuất đủ sản phẩm cho mọi người và khiến cho chế độ tư hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của các lực lượng sản xuất đó, thậm chí cho đến ngày nay nó vẫn còn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nhưng lực lượng sản xuất ngày nay đã được tạo ra với quy mô lớn chưa từng có và có điều kiện để nó tiếp tục phát triển. Cùng với quá trình đó, sự phân chia giai cấp trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Tuyệt đại đa số dân cư bị tước mất hết mọi sở hữu. Lực lượng sản xuất tập trung trong tay một số ít nhà tư sản, của cải của tư sản càng tăng thì quần chúng nhân dân càng lâm vào tình cảnh cùng kiệt đói và không thể chịu đựng được nữa. Lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ đến mức mà những quan hệ xã hội cũ không chứa đựng nổi, dẫn đến những chấn động, những khủng hoảng trong xã hội. Những điều kiện hiện thực đó khiến cho việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN trở thành có thể và cần thiết. Tất cả chỉ còn phụ thuộc vào những hoạt động hiện thực của giai cấp vô sản. Điều này cũng đã được "Tuyên ngôn" nêu lên thông qua việc phân tích những bước đi cần thiết trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa.
Bước đầu tiên là giai cấp vô sản phải "làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương" giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền, biến thành giai cấp thống trị. Sau đó, với công cụ chính quyền Nhà nước trong tay, giai cấp vô sản sẽ "từng bước một" thực hiện quá trình thay đổi tính chất xã hội của sở hữu, chuyển chế độ sở hữu tư nhân TBCN sang chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa, "đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay Nhà nước", để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất xã hội.
Trong quá trình thực hiện sự chuyển biến chế độ sở hữu, tuỳ theo điều kiện cụ thể của những nước khác nhau mà áp dụng những biện pháp khác nhau, thậm chí "khác nhau rất nhiều".
Nhấn mạnh về khả năng sử dụng những biện pháp linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đi tới mục tiêu chiến lược cuối cùng mà "Tuyên ngôn" ra đời, Ăng-ghen đã viết: "Cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong "Tuyên ngôn" này vẫn còn hoàn toàn đúng. ở chỗ, có một vài chi tiết cần thiết phải xem lại. Chính ngay "Tuyên ngôn" cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời".
Mặc dầu giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, nhưng để có thể thực hiện tốt đẹp sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp này cũng cần có một quá trình chuẩn bị về mọi mặt.
Về mặt nhận thức, giai cấp vô sản cần có một ý thức "hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản"; phải nhận thức được tính tất yếu, hợp qui luật khách quan của việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN; có một niềm tin đầy tinh thần lạc quan cách mạng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng vô sản.
Về mặt tổ chức, cần đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng có chung lợi ích trong việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN. Trong hoạt động thực tiễn, giai cấp vô sản cần ủng hộ tất cả các phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành, luôn luôn "đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu không kể là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào"; trong khi đấu tranh cho những mục đích và lợi ích trước mắt, không bao giờ được xao lãng mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng; xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa - nhân tố cơ bản của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa.
150 năm đã trôi qua, tính đúng đắn của những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ngày càng đựơc thực tế chứng minh. Chế độ sở hữu TBCN ngày càng tỏ ra bất lực, không bao chứa nổi lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển như vũ bão, tình trạng thất nghiệp, phân cực giàu cùng kiệt quá xa... trong từng nước tư bản. Những vấn đề cấp bách toàn cầu như nạn đói ở Châu Phi, tình trạng huỷ hoại môi trường sinh thái, mối quan hệ bất bình đẳng giữa các nước phát triển với các nước chậm phát triển, cuộc khủng hoảng tiền tệ, những cuộc chiến tranh kinh tế.... đang đòi hỏi phải có sự thay đổi căn bản chế độ sở hữ TBCN, thay đổi cả chế độ xã hội tư bản. Nguyên lý về tính tất yếu phải xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa của "Tuy ngôn" cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.
1.2. Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Song, đây lại là vấn đề hết sức phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tui không có tham vọng trình bày cặn kẽ vấn đề hết sức phức tạp, mà chỉ nêu lên một số ý kiến về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã chứng tỏ tính đúngđắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không thể chỉ có hai hình thức sở hữu - toàn dân và tập thể - như quan niệm trước đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể , sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái quát lại, chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là những hình thức trung gian, quá độ hay hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều cách biểu hiện và trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý.
Về sở hữu toàn dân. ở nước ta hiện nay, như Hiến pháp và Luật đất đai đã qui định rõ: "đất đai thuộc sở hữu toàn dẫn". Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ, là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng, khi xét trên cả hai phương diện, có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là tư liệu sản xuất, hay nói cách chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo những qui luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những qui luật đó.
Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người thay mặt sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao đổi quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, song người nông dân được quyền sử dụng ổn định, lâu dài, thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tăng trưởng kinh tế nói chung.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan quyền lực thay mặt cho lợi ích của nhân dân và là người thay mặt đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Nhận thức sở hữu trong kho tàng kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thực tiễn xây dựng CNXH của nhiều nước, đã và đang ngày càng được làm giàu, phong phú hơn trong đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Trên thực tế, hơn mười năm đổi mới, ở nước ta đã diễn ra quá trình khắc phục chế độ công hữu hình thức, có tính áp đặt, đã làm xuất hiện nhiều loại hình, hình thức sở hữu, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, làm cho quan hệ sở hữu phù hợp, kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất. Giải quyết đúng quan hệ sở hữu chính là giữ được nguồn nuôi dưỡng động lực kinh tế cho sự ổn định kinh tế –xã hội theo định hướng XHCN, thực hiện được dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
III. Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta
1. Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới:
Trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, vì nhiều lsy do khách quan và chủ quan khác nhau đã dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các loại hình tư hữu, xác lập công hữu một cách hình thức, áp đặt. Hình như quốc doanh hoá, tập thể hoá càng nhanh thi càng chóng có CNXH. Tuy nhiên cũng cần thấy rõ trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, những điểm "bất hợp lý" đó đã bị che mờ đi. Sự điều hành tập trung cao độ theo lối hành chính – quân sự lại có hiệu quả nhất định v.v...
Sau ngày thống nhất đất nước (30-4-1975), vào thời trước đổi mới, sai lầm chính là ở chỗ điều kiện trong và ngoài nước đã có những thay đổi nhất định thế mà vẫn qúa "say sưa" với kinh nghiệm cũ, đem áp dụng một cách máy móc những tiến trình cải biến quan hệ sở hữu đã làm. ở đây lại một lần nữa phủ định tính khách quan và vai trò kinh tế của các loại hình sở hữu phi công hữu còn rất phát triển, làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế của người lao động, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
ý tưởng xây dựng chế độ công hữu để thay thế dần tư hữu ở những hâu cần thiết theo tinh thần của Tuyên ngôn cộng sản là đúng, song bằng cách nào? bước đi ra sao thì phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn có tính khả thi.
Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể inh doanh bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, tập thể, tư nhân xuất hiện và cạnh tranh trên thị trường. Trong điều kiện đó, mọi doanh nghiệp cần thay đổi cách hoạt động chuyển thành những chủ thể kinh tế hàng hoá độc lập tương đối. Đặc biệt, nhờ sự tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh mà có cơ sở để cải cách đưa một bộ phận lớn doanh nghiệp nhà nuớc vào vận động theo cơ chế thị trường. Nhờ đó, quan hệ sở hữu tiếp tục vận động, biến đổi mà vẫn hoàn toàn có thể theo định hướng XHCN được.
Nhận thức sở hữu trong kho tàng kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thực tiễn xây dựng CNXH của nhiều nước, đã và đang ngày càng được làm giàu phong phú hơn trong đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
2. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan khi xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ là sự nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế, nhưng do bản chất của các thành phần kinh tế khác nhau, nên sự hoạt động giữa ccác thành phàn kinh tế không chỉ có mặt thống nhất, mà còn có mặt mâu thuẫn với nhau. Sự phát triển của mâu thuẫn về lợi ích giữa các thành phần, nhất là thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, dẫn đến sự bất lợi đối với việc thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần có chính sách kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế, để hướng sự hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước đi theo định hướng xã hội chủ nghiã đã chọn.
- Mặc dù nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở kinh tế của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường với tư cách là cái chung, tự nó không thể đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu trong quá trình xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế không nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần lưu ý rằng, kinh tế thị trường có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa – con đường quen thuộc và đã có tiền tệ trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới. Hơn nữa, kinh tế thị trường mà nước ta cần xây dựng không phải là kinh tế thị trường bất kỳ, mà là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Một số vấn đề tiếp tục phát triển :
Theo tôi, sở hữu nhà nước là một trong ba loại hình sở hữu cơ bản của nền kinh tế nước ta: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗnhợp. Cải cách chế độ sở hữu nhà nước là một vấn đề nan giải nhưng không thể né tránh. Nó cần được xem như một khâu trung tâm và điểm xuất phát quan trọng để giải quyết yêu cầu bức xúc của nền kinh tế hàng hoá đặt ra là xác định rõ quyền sở hữu tài sản, tiền vốn của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Thay đổi hình thức sở hữu của những doanh nghiệp nhà nước không có vai trò then chốt, quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế, thông qua việc bán toàn bộ hay phần lớn tài sản cho tập thể hay tư nhân để chuyển thành công ty tư nhân hay công ty hợp doanh.
Đối với những doanh nghiệp không thể xử lý theo các giải pháp trên, thì cho pháp phá sản, tiến hành thanh lý toàn bộ hay từng phần tài sản, giải quyết chính sách, chế độ với những người lao động tạm thời thất nghiệp ở những xí nghiệp này, giúp họ tìm kiếm chỗ làm việc mới hay đào tạo lại để họ có điều kiện chuyển sang nghề mới , v.v… Cần kiên quyết không "ném phao cấp cứu" dưới bất cứ dạng nào để kéo dài sự ngắc ngoải của những doanh nghiệp thuộc dạng này, bởi lẽ làm như vậy là một gánh nặng quá tải đối với ngân sách nhà nước và với toàn xã hội.
C - Kết luận
Lịch sử và kinh nghiệm chuyển đổi nền kinh tế của nhiều nước cho thấy hi chuyển sang kinh tế thị trường, việc xư lý vấn đề cơ cấu sở hữu và do đó cơ cấu thành phần kinh tế có liên quan đến sự sống còn của thế đã chọn. Việc xử lý cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế theo hướng bất lợi (theo hướng hạ thấp) vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, tăng cường vai trò của sở hữu và kinh tế tư bản tư nhân, đến một lúc nào đó, sự tương quan về sở hữu thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của Đảng cầm quyền. Hậu quả khó tránh khỏi đi trệch định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn.
Chính vì vậy, việc nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế là rất cần thiết và có ý nghĩa về nguyên tắc cần được coi trọng.
Như đã phân tích ở trên, đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là quy luật chung đối với tất cả các nước, gắn liền với phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường không thể tách rời việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Chính vì vậy đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta lại có nét độc đáo riêng.
ở nước ta hiện nay, việc phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với phân công và hợp tác lao động trong nước cũng như quốc tế và khu vực.
Quá trình đó vừa đòi hỏi lại vừa tạo ra điều iện để đa dạng hoá một cách nhanh chóng các hình thưcs sở hữu về tư liệu sản xuất, từ sở hữu của người sản xuất nhỏ cá thể, đến sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Sự hình thành phát triển một cách đa dạng các hình thức sở hữu đó cho phép giải phóng được các năng lực sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân.
Trong quá trình phát triển đa dạng các hình thức sở hữu đó, để đảm bảo định hướng XHCN, cần giải quyết hai vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Phải đảm bảo kinh tế Nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Vai trò đó là ở chỗ: nó phải nắm được các vị trí kinh tế then chốt để có thể hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng quỹ đạo của CNXH, vừa đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, vừa đảm bảo thực hiện tốt công bằng xã, bảo vệ tốt môi sinh, môi trường khi tính toán hiệu quả của kinh tế Nhà nước, một mặt phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh (đối với các doanh nghiệp thực hiện chức năng kinh doanh): những mặt quan trọng hơn là phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội.
Thứ hai: Phải đặc biệt chú ý tới phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới mọi hình thức.Đây là một xu hướng phát triển tất yếu trong quá trình liên doanh liên kết, hợp tác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó cho phép phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên tiến và là bước đi tất yếu quá độ lên CNXH.
Rõ ràng trong quá trình xây dựng KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu không thể tách rời việc giữ vững vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước, đồng thời với việc sử dụng kinh tế tư bản – nhà nước làm khâu trung gian để đi đến CNXH.
Mục lục
Trang
a - Mở đầu 1
b - Nội dung 2
I- Sở hữu về tư liệu sản xuất và những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay. 2
1.1. Lý luận chung về sở hữu 2
1.2. Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 5
1.3. Những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay 11
II- Thực tiển giải quyết vấn đề sở hữu ở nước ta khi chuyển sang phát triển nền kinh tế 15
III. Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta 17
1. Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới: 17
2. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. 18
3. Một số vấn đề tiếp tục phát triển : 18
C - Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 23
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
a - mở đầu
Sau khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề sở hữu đã có sự thay đổi theo chiều hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích cho người lao động. Với sự tồn tại của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, quan hệ sở hữu khác nhau người lao động có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh, phát huy chức năng động sáng tạo của mình, tìm được nơi làm việc thích ứng với hoàn cảnh sinh sống và năng lực của mình,bảo đảm cho lợi ích tốt hơn. Kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, sở hữu quy định tính chất của các hình thức tổ chức kinh doanh và dựa vào đây để phân định các thành phần inh tế. Trong bài này em chỉ muốn trình bày vấn đề quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã xác định quan điểm chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Những chủ trương chính sách đó đã được cụ thể hoá và thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy cuả Nhà nước. Được thực tiễn những năm qua kiểm nghiệm. Đồng thời cuộc sống cũng đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ nhiều khía cạnh lý luận và đề ra một hệ thống chính sách cụ thể chung quanh vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế nhằm huy dộng mọi nguồn lực trong và ngoài nước, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân.
Xem xét vấn đề "Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta" là đi sâu vào nghiên cứu nhiều đề tài khoa học giúp ích cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN.
Quá trình tiếp cận thông tin chưa được đầy đủ, đề án này còn nhiều hạn chế nên em rất mong được sự giúp đỡ của thầy giáo.
Em xin trân thành Thank !
b - Nội dung
I- Sở hữu về tư liệu sản xuất và những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay.
1.1. Lý luận chung về sở hữu
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra rằng, chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa vận động trong sự đối lập giữa hai cực: tư bản và lao động. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, sự đối lập giữa hai cực này sẽ ngày càng trở nên gay gắt và đến một giai đoạn nhất định, sự đối lập sẽ phá vỡ hình thức tồn tại của nó, tức chế độ sở hữu TBCN. Điều này được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Giống như mọi cuộc cách mạng xã hội khác, cuộc cách mạng này có nhiệm vụ giải quyết vấn đề chế độ sở hữu, xoá bỏ chế độ sở hữu cũ, xây dựng chế độ sở hữu mới. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa.
Lợi ích của giai cấp vô sản gắn liền với sự nghiệp xoá bỏ chế độ tư hữu. Vì chế độ sở hữu TBCN tồn tại trên cơ sở tước bỏ sở hữu của đại đa số cư dân trong xã hội, nên khi thực hiện sứ mệnh lịch sử củng mình, đem lại lợi ích cho bản thân mình, giai cấp vô sản cũng đồng thời đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của tất cả những người lao động và quần chúng bị bóc lột.
Vấn đề là ở chỗ: giai cấp vô sản sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình như thế nào, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn đề sở hữu - một trong những nội dung cơ bản của cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa? "Tuyên ngôn" nhấn mạnh rằng, mục đích của việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản là nhằm tạo điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy lực lượng sản xuất, xoá bỏ sự tách rời người lao động khỏi những điều kiện lao động, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của lực lượng sản xuất, cung cấp đầy đủ sản phẩm cho mọi người trong xã hội. Với chế độ sở hữu TBCN thì lao động sống phục vụ cho lao động quá khứ, lao động làm thuê phục vụ cho sự sinh sôi, nảy nở của tư bản. Xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa trong đó lao động quá khứ phục vụ cho lao động sống, "lao động tích luỹ sẽ trở thành phương tiện để mở rộng, làm phong phú và làm giảm nhẹ cho quá trình sống của những người lao động".
Như vậy, quá trình xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN không phải là quá trình phủ định sạch trơn sở hữu, mà là quá trình xoả bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai cực mà sở hữu vận động trong đó là tư bản và lao động.
Đối với tư bản, đó là quá trình chuyển biến tính chất xã hội của sở hữu, xoá bỏ tính chất tư sản của sở hữu, xoá bỏ quyền dùng chiếm hữu để nô dịch người khác.
Đối với người lao động, đó là quá trình xoá bỏ tính chất bi thảm của chiếm hữu. "Tuyên ngôn" khẳng định, những người vô sản- những công nhân làm thuê - chỉ có thể giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách xoá bỏ cách chiếm hữ hiện nay của chính họ, thực chất là xoá bỏ "tính chất bi thảm của cái cách khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi".
Xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN là một quá trình, dựa trên những điều kiện hiện thực, là kết quả của hoạt động hiện thực.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản chỉ ra rằng, mặc dù lực lượng sản xuất xã hội của CNTB hiện đại chưa phát triển đến mức có thể sản xuất đủ sản phẩm cho mọi người và khiến cho chế độ tư hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của các lực lượng sản xuất đó, thậm chí cho đến ngày nay nó vẫn còn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nhưng lực lượng sản xuất ngày nay đã được tạo ra với quy mô lớn chưa từng có và có điều kiện để nó tiếp tục phát triển. Cùng với quá trình đó, sự phân chia giai cấp trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Tuyệt đại đa số dân cư bị tước mất hết mọi sở hữu. Lực lượng sản xuất tập trung trong tay một số ít nhà tư sản, của cải của tư sản càng tăng thì quần chúng nhân dân càng lâm vào tình cảnh cùng kiệt đói và không thể chịu đựng được nữa. Lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ đến mức mà những quan hệ xã hội cũ không chứa đựng nổi, dẫn đến những chấn động, những khủng hoảng trong xã hội. Những điều kiện hiện thực đó khiến cho việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN trở thành có thể và cần thiết. Tất cả chỉ còn phụ thuộc vào những hoạt động hiện thực của giai cấp vô sản. Điều này cũng đã được "Tuyên ngôn" nêu lên thông qua việc phân tích những bước đi cần thiết trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa.
Bước đầu tiên là giai cấp vô sản phải "làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương" giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền, biến thành giai cấp thống trị. Sau đó, với công cụ chính quyền Nhà nước trong tay, giai cấp vô sản sẽ "từng bước một" thực hiện quá trình thay đổi tính chất xã hội của sở hữu, chuyển chế độ sở hữu tư nhân TBCN sang chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa, "đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay Nhà nước", để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất xã hội.
Trong quá trình thực hiện sự chuyển biến chế độ sở hữu, tuỳ theo điều kiện cụ thể của những nước khác nhau mà áp dụng những biện pháp khác nhau, thậm chí "khác nhau rất nhiều".
Nhấn mạnh về khả năng sử dụng những biện pháp linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đi tới mục tiêu chiến lược cuối cùng mà "Tuyên ngôn" ra đời, Ăng-ghen đã viết: "Cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong "Tuyên ngôn" này vẫn còn hoàn toàn đúng. ở chỗ, có một vài chi tiết cần thiết phải xem lại. Chính ngay "Tuyên ngôn" cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời".
Mặc dầu giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, nhưng để có thể thực hiện tốt đẹp sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp này cũng cần có một quá trình chuẩn bị về mọi mặt.
Về mặt nhận thức, giai cấp vô sản cần có một ý thức "hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản"; phải nhận thức được tính tất yếu, hợp qui luật khách quan của việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN; có một niềm tin đầy tinh thần lạc quan cách mạng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng vô sản.
Về mặt tổ chức, cần đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng có chung lợi ích trong việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN. Trong hoạt động thực tiễn, giai cấp vô sản cần ủng hộ tất cả các phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành, luôn luôn "đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu không kể là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào"; trong khi đấu tranh cho những mục đích và lợi ích trước mắt, không bao giờ được xao lãng mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng; xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa - nhân tố cơ bản của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa.
150 năm đã trôi qua, tính đúng đắn của những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ngày càng đựơc thực tế chứng minh. Chế độ sở hữu TBCN ngày càng tỏ ra bất lực, không bao chứa nổi lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển như vũ bão, tình trạng thất nghiệp, phân cực giàu cùng kiệt quá xa... trong từng nước tư bản. Những vấn đề cấp bách toàn cầu như nạn đói ở Châu Phi, tình trạng huỷ hoại môi trường sinh thái, mối quan hệ bất bình đẳng giữa các nước phát triển với các nước chậm phát triển, cuộc khủng hoảng tiền tệ, những cuộc chiến tranh kinh tế.... đang đòi hỏi phải có sự thay đổi căn bản chế độ sở hữ TBCN, thay đổi cả chế độ xã hội tư bản. Nguyên lý về tính tất yếu phải xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa của "Tuy ngôn" cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.
1.2. Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Song, đây lại là vấn đề hết sức phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tui không có tham vọng trình bày cặn kẽ vấn đề hết sức phức tạp, mà chỉ nêu lên một số ý kiến về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã chứng tỏ tính đúngđắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không thể chỉ có hai hình thức sở hữu - toàn dân và tập thể - như quan niệm trước đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể , sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái quát lại, chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là những hình thức trung gian, quá độ hay hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều cách biểu hiện và trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý.
Về sở hữu toàn dân. ở nước ta hiện nay, như Hiến pháp và Luật đất đai đã qui định rõ: "đất đai thuộc sở hữu toàn dẫn". Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ, là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng, khi xét trên cả hai phương diện, có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là tư liệu sản xuất, hay nói cách chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo những qui luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những qui luật đó.
Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người thay mặt sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao đổi quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, song người nông dân được quyền sử dụng ổn định, lâu dài, thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tăng trưởng kinh tế nói chung.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan quyền lực thay mặt cho lợi ích của nhân dân và là người thay mặt đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Nhận thức sở hữu trong kho tàng kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thực tiễn xây dựng CNXH của nhiều nước, đã và đang ngày càng được làm giàu, phong phú hơn trong đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Trên thực tế, hơn mười năm đổi mới, ở nước ta đã diễn ra quá trình khắc phục chế độ công hữu hình thức, có tính áp đặt, đã làm xuất hiện nhiều loại hình, hình thức sở hữu, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, làm cho quan hệ sở hữu phù hợp, kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất. Giải quyết đúng quan hệ sở hữu chính là giữ được nguồn nuôi dưỡng động lực kinh tế cho sự ổn định kinh tế –xã hội theo định hướng XHCN, thực hiện được dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
III. Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta
1. Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới:
Trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, vì nhiều lsy do khách quan và chủ quan khác nhau đã dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các loại hình tư hữu, xác lập công hữu một cách hình thức, áp đặt. Hình như quốc doanh hoá, tập thể hoá càng nhanh thi càng chóng có CNXH. Tuy nhiên cũng cần thấy rõ trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, những điểm "bất hợp lý" đó đã bị che mờ đi. Sự điều hành tập trung cao độ theo lối hành chính – quân sự lại có hiệu quả nhất định v.v...
Sau ngày thống nhất đất nước (30-4-1975), vào thời trước đổi mới, sai lầm chính là ở chỗ điều kiện trong và ngoài nước đã có những thay đổi nhất định thế mà vẫn qúa "say sưa" với kinh nghiệm cũ, đem áp dụng một cách máy móc những tiến trình cải biến quan hệ sở hữu đã làm. ở đây lại một lần nữa phủ định tính khách quan và vai trò kinh tế của các loại hình sở hữu phi công hữu còn rất phát triển, làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế của người lao động, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
ý tưởng xây dựng chế độ công hữu để thay thế dần tư hữu ở những hâu cần thiết theo tinh thần của Tuyên ngôn cộng sản là đúng, song bằng cách nào? bước đi ra sao thì phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn có tính khả thi.
Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể inh doanh bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, tập thể, tư nhân xuất hiện và cạnh tranh trên thị trường. Trong điều kiện đó, mọi doanh nghiệp cần thay đổi cách hoạt động chuyển thành những chủ thể kinh tế hàng hoá độc lập tương đối. Đặc biệt, nhờ sự tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh mà có cơ sở để cải cách đưa một bộ phận lớn doanh nghiệp nhà nuớc vào vận động theo cơ chế thị trường. Nhờ đó, quan hệ sở hữu tiếp tục vận động, biến đổi mà vẫn hoàn toàn có thể theo định hướng XHCN được.
Nhận thức sở hữu trong kho tàng kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thực tiễn xây dựng CNXH của nhiều nước, đã và đang ngày càng được làm giàu phong phú hơn trong đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
2. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan khi xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ là sự nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế, nhưng do bản chất của các thành phần kinh tế khác nhau, nên sự hoạt động giữa ccác thành phàn kinh tế không chỉ có mặt thống nhất, mà còn có mặt mâu thuẫn với nhau. Sự phát triển của mâu thuẫn về lợi ích giữa các thành phần, nhất là thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, dẫn đến sự bất lợi đối với việc thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần có chính sách kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế, để hướng sự hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước đi theo định hướng xã hội chủ nghiã đã chọn.
- Mặc dù nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở kinh tế của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường với tư cách là cái chung, tự nó không thể đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu trong quá trình xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế không nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần lưu ý rằng, kinh tế thị trường có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa – con đường quen thuộc và đã có tiền tệ trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới. Hơn nữa, kinh tế thị trường mà nước ta cần xây dựng không phải là kinh tế thị trường bất kỳ, mà là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Một số vấn đề tiếp tục phát triển :
Theo tôi, sở hữu nhà nước là một trong ba loại hình sở hữu cơ bản của nền kinh tế nước ta: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗnhợp. Cải cách chế độ sở hữu nhà nước là một vấn đề nan giải nhưng không thể né tránh. Nó cần được xem như một khâu trung tâm và điểm xuất phát quan trọng để giải quyết yêu cầu bức xúc của nền kinh tế hàng hoá đặt ra là xác định rõ quyền sở hữu tài sản, tiền vốn của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Thay đổi hình thức sở hữu của những doanh nghiệp nhà nước không có vai trò then chốt, quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế, thông qua việc bán toàn bộ hay phần lớn tài sản cho tập thể hay tư nhân để chuyển thành công ty tư nhân hay công ty hợp doanh.
Đối với những doanh nghiệp không thể xử lý theo các giải pháp trên, thì cho pháp phá sản, tiến hành thanh lý toàn bộ hay từng phần tài sản, giải quyết chính sách, chế độ với những người lao động tạm thời thất nghiệp ở những xí nghiệp này, giúp họ tìm kiếm chỗ làm việc mới hay đào tạo lại để họ có điều kiện chuyển sang nghề mới , v.v… Cần kiên quyết không "ném phao cấp cứu" dưới bất cứ dạng nào để kéo dài sự ngắc ngoải của những doanh nghiệp thuộc dạng này, bởi lẽ làm như vậy là một gánh nặng quá tải đối với ngân sách nhà nước và với toàn xã hội.
C - Kết luận
Lịch sử và kinh nghiệm chuyển đổi nền kinh tế của nhiều nước cho thấy hi chuyển sang kinh tế thị trường, việc xư lý vấn đề cơ cấu sở hữu và do đó cơ cấu thành phần kinh tế có liên quan đến sự sống còn của thế đã chọn. Việc xử lý cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế theo hướng bất lợi (theo hướng hạ thấp) vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, tăng cường vai trò của sở hữu và kinh tế tư bản tư nhân, đến một lúc nào đó, sự tương quan về sở hữu thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của Đảng cầm quyền. Hậu quả khó tránh khỏi đi trệch định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn.
Chính vì vậy, việc nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế là rất cần thiết và có ý nghĩa về nguyên tắc cần được coi trọng.
Như đã phân tích ở trên, đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là quy luật chung đối với tất cả các nước, gắn liền với phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường không thể tách rời việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Chính vì vậy đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta lại có nét độc đáo riêng.
ở nước ta hiện nay, việc phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với phân công và hợp tác lao động trong nước cũng như quốc tế và khu vực.
Quá trình đó vừa đòi hỏi lại vừa tạo ra điều iện để đa dạng hoá một cách nhanh chóng các hình thưcs sở hữu về tư liệu sản xuất, từ sở hữu của người sản xuất nhỏ cá thể, đến sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Sự hình thành phát triển một cách đa dạng các hình thức sở hữu đó cho phép giải phóng được các năng lực sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân.
Trong quá trình phát triển đa dạng các hình thức sở hữu đó, để đảm bảo định hướng XHCN, cần giải quyết hai vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Phải đảm bảo kinh tế Nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Vai trò đó là ở chỗ: nó phải nắm được các vị trí kinh tế then chốt để có thể hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng quỹ đạo của CNXH, vừa đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, vừa đảm bảo thực hiện tốt công bằng xã, bảo vệ tốt môi sinh, môi trường khi tính toán hiệu quả của kinh tế Nhà nước, một mặt phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh (đối với các doanh nghiệp thực hiện chức năng kinh doanh): những mặt quan trọng hơn là phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội.
Thứ hai: Phải đặc biệt chú ý tới phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới mọi hình thức.Đây là một xu hướng phát triển tất yếu trong quá trình liên doanh liên kết, hợp tác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó cho phép phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên tiến và là bước đi tất yếu quá độ lên CNXH.
Rõ ràng trong quá trình xây dựng KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu không thể tách rời việc giữ vững vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước, đồng thời với việc sử dụng kinh tế tư bản – nhà nước làm khâu trung gian để đi đến CNXH.
Mục lục
Trang
a - Mở đầu 1
b - Nội dung 2
I- Sở hữu về tư liệu sản xuất và những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay. 2
1.1. Lý luận chung về sở hữu 2
1.2. Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 5
1.3. Những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay 11
II- Thực tiển giải quyết vấn đề sở hữu ở nước ta khi chuyển sang phát triển nền kinh tế 15
III. Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta 17
1. Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới: 17
2. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. 18
3. Một số vấn đề tiếp tục phát triển : 18
C - Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 23
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: