Justain

New Member
Link tải miễn phí Luận văn: cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần (khảo sát qua thư tịch lịch sử và sáng tác văn chương) : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2011
Chủ đề: Chữ Nôm
Văn học Nôm
Thời Lý
Thời Trần
Nghiên cứu văn học
Miêu tả: 126 tr. + CD-ROM+Tóm tắt
Luận văn ThS. Văn học Việt Nam -- Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011
Chương 1: Lược thuật quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý – Trần -- Chương 2: Những dấu ấn tiêu biểu của văn học Nôm thời Lý – Trần (Qua thư tịch lịch sử và sáng tác văn chương) -- Chương 3 : Ngả đường hoàn thiện chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý – Trần Phần kết luận
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
CHƢƠNG MỘT
LƢỢC THUẬT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỮ NÔM VÀ VĂN
HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN
1.1. Chất nền của văn học thời Lý Trần ................................................................................... 16
1.2. Sự ra đời của chữ Nôm là một tất yếu lịch sử ................................................................... 18
1.3. Văn học chữ Nôm trong mối liên hệ với văn học chữ Hán .............................................. 22
CHƢƠNG HAI
NHỮNG DẤU ẤN TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN (Qua thƣ tịch lịch
sử và sáng tác văn chƣơng)
2.1 Các dữ liệu tiêu biểu về chữ Nôm và văn học Nôm trong chính sử. ................................ 33
2.2. Văn học Nôm đời Trần – nơi hội tụ cao nhất “cách ứng xử” với chữ Nôm ..... 58
2.3. Những hạn chế mang tính cách thời đại............................................................................ 79
2.4. Tiểu kết................................................................................................................................. 81
CHƢƠNG 3
NGẢ ĐƢỜNG HOÀN THIỆN CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ TRẦN
3.1. Nôm hóa giáo lí Phật giáo qua hiện tƣợng Tuệ Tĩnh dịch Khóa hư lục.......................... 82
3.2. Nôm hóa giáo lí Nho giáo qua hiện tƣợng Hồ Quý Ly ..................................................... 85
3.3.…Và ngả đƣờng tất yếu phải đi .......................................................................................... 87
3.4. Tiểu kết................................................................................................................................. 92
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................................99
PHỤ LỤC....................................................................................................................................108
MỘT SỐ QUI ƢỚC VỀ VIẾT TẮT
VSL: Việt sử lược
ĐVSKTT: Đại Việt sử kí toàn thư
KĐVSTGCM: Khâm định Việt sử thông giám cương mục
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 1
PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM
THỜI LÝ - TRẦN
(Khảo sát qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng)
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giai đoạn Lý – Trần1, giai đoạn khởi đầu của lịch sử văn học viết Việt
Nam, giai đoạn nước Đại Việt vững bước trong kỷ nguyên độc lập, tự chủ và
thống nhất, giai đoạn rực rỡ trong lịch sử đất nước, đánh dấu những bước
khởi đầu vô cùng quan trọng của một dân tộc mới dành được quyền tự chủ.
Từ đây, người Việt Nam đã xây dựng được khối đại đoàn kết, lòng tự hào dân
tộc, dần dần khẳng định vị trí của nhà nước Đại Việt.
Văn học Lý – Trần là giai đoạn có ý nghĩa nền tảng đối với văn hiến dân tộc.
Có thể nói đây là thời đại hào hùng và oanh liệt , rưc̣ rỡ và đep̣ đẽ nhất trong
lịch sử Việt Nam . Đây cũng là giai đoạn manh nha, hình thành chữ Nôm và
bắt đầu có thành tựu văn học Nôm - Một thứ văn tự có ý nghĩa quan trọng đối
với văn hiến dân tộc.
Chữ Nôm trở thành một hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh vào
khoảng giữa thế kỷ XIII. Ðiều chắc chắn là từ cuối thế kỷ XIII, chữ Nôm đã
được dùng để ghi lại một số thi văn bằng tiếng Việt như sáng tác của Trần
Nhân Tông, Huyền Quang, Mạc Đĩnh Chi…. Nhưng vì chữ Nôm không được
điển chế hóa nên chưa bao giờ nó được hệ thống hoá một cách chính xác. Do
vậy, ngay cả một bậc túc nho như Phạm Ðình Hổ (1769-1839) cũng đã phải
thú nhận trong bài "Tự thuật" mở đầu Vũ trung tuỳ bút: "Ta đã học vỡ được ít
kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết" [37, 9]. Ngoại trừ các cải cách
ngắn ngủi của Hồ Quý Ly (1336-1407) và Nguyễn Huệ (1753-1792), chữ
1
Khái niệm giai đoạn Lý - Trần được chúng tui sử dụng bao gồm 5 thế kỷ đầu tiên của nền độc lập tự chủ
dưới thời Trung đại, bao gồm trong nó 6 triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ.Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 2
Nôm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam chính thức công nhận. Mới
xét đến, tình hình đó dường như là một nghịch lý, nhưng ta có thể cắt nghĩa
nó bằng tầm quan trọng chiến lược của chữ Hán đối với trật tự phong kiến.
Có một đòi hỏi khách quan rằng khi đất nước đã dần ổn định, việc dùng
mãi một thứ ngôn ngữ vốn không ghi âm ngôn ngữ của đời sống là một điều
ngày càng bộc lộ những hạn chế. Thời gian trôi đi, chữ Nôm dần dần có mặt
trong đầy đủ những hoạt động thường ngày của người Việt. Từ những tập
quán sinh hoạt cho tới những kinh nghiệm trong lao động để lại từ xa xưa đều
được ghi chép lại bằng những văn bản chữ Nôm….Chữ Nôm ra đời có ý
nghĩa hết sức lớn lao, đánh dấu bước phát triển của nền văn hoá dân tộc, ý
thức tự cường và khẳng định vai trò địa vị của tiếng Việt.
Lâu nay, trong giới nghiên cứu văn học Việt Nam tồn tại một nhận thức: các
triều đại quan phương cho rằng Nôm Na là “cha mách qué”, văn học Nôm là
thứ văn học của “bố cu mẹ đĩ”, ít được coi trọng và đánh giá cao. Thông
thường có một tâm lý coi nhẹ thứ văn tự không hay ít được sử dụng trong
môi trường hành chính sự nghiệp, chưa được xác nhận là văn tự chính thức
của quốc gia. Chúng tui có thể liệt kê một số nhận định của một số nhà
nghiên cứu về chữ Nôm và văn học Nôm như sau:
“Chính vì thái độ khinh rẻ, thái độ cấm đoán của vua chúa phong kiến cho
nên chữ Nôm chưa bào giờ được đưa vào nhà trường. Chưa bao giờ được coi
là công cụ văn hóa của nhà nước và do đó chưa bao giờ được tiếp nhận, thừa
hưởng một cố gắng điển chế nào” [8, 17].
“Văn học chữ Nôm thường bị giai cấp thống trị coi nhẹ” [10, 17]
“Văn học chữ Nôm được coi là văn học cấp thấp, là “nôm na mách qué”, là
vui chơi giải trí nên gần đời sống thực hơn, đời thường hơn [92, 15]
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 3
“Thời phong kiến, Văn học chữ Nôm bị coi là văn học cấp thấp, là quê mùa,
dân dã, cũng có thể ngôn chí, tự thuật, nhưng chủ yếu là vui chơi, giải trí”
[57, 85]
“Do thái độ khinh rẻ, cấm đoán của vua chú phong kiến nên chữ Nôm chưa
bao giờ được đưa vào nhà trường, chưa được điển chế hóa nên trong cấu tạo
chữ Nôm mang nhiều dấu ấn của cá nhân tạo chữ….” [45, 128]
“…..cho dù đã sáng tạo nên chữ Nôm, nhưng cho đến đầu thế kỉ XX này chữ
Hán vẫn được coi là quốc tự dùng trong văn bản nhà nước và chữ Nôm chỉ là
“nôm na mánh qué” chưa bao giờ được xem là văn tự quốc gia” [50, 175]
Thái độ trọng Hán khinh Nôm đã từng bị nhà thơ Phạm Đình Toái, tác giả
Đại Nam quốc sử diễn ca chỉ trích: "Uống nước quên nguồn, người xưa chê
trách. Trái thầy mà học, người hiền vốn tránh. Nước ta ở thiên về phương
Nam, tiếng nói khác với Trung Quốc. Những học sĩ nho sinh, tuy tập theo văn
tự Trung Hoa, song hát vịnh nói năng đều chẳng lìa bỏ thanh âm của bản
quốc. Lẽ nào lại có thể chỉ một điều cho chữ Hán là thanh cao mà lại chối bỏ
tiếng ta, chê là thô bỉ” 2
Đào Duy Anh cho rằng “Đến như Việt ngữ thì các nhà nho thường khinh là
“nôm na mách qué” nên chỉ khi nào làm văn chơi đùa tiêu khiển thì mới
dùng đến, cho nên Việt văn không thịnh đạt cũng không lạ gì”.[3, 279]
Nguyễn Tài Cẩn cũng có ý kiến: “Chính vì thái độ khinh rẻ, thái độ cấm
đoán của vua chúa phong kiến cho nên chữ Nôm chưa bao giờ được đưa vào
nhà trường, chưa bao giờ được coi là công cụ văn hóa của nhà nước, và do
dó cũng chưa bao giờ được tiếp nhận, thừa hưởng một cố gắng điển chế nào”
[35, 484]
Khi đề cập đến thái độ ứng xử của các triều đại Lý Trần với chữ Nôm
Nguyễn Danh Phiệt cho rằng: “Dù sao, chúng ta cũng đứng trước một sự thật
2 Trích Quốc âm từ điệu, Phạm Đình ToáiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 4
lịch sử: Trong khi chọn lọc đi đến chỗ chấp nhận nội dung giáo dục Nho
giáo, các vua Lý Trần đã loại trừ chữ Nôm, một di sản văn hóa của dân tộc
được hình thành do sự đóng góp của nhiều thế hệ” [35, 459]
Chữ Nôm chưa bao giờ được nhà nước phong kiến điển chế hóa, đó là sự
thực. Có một sự thực nữa là chữ Nôm vẫn tồn tại bên cạnh chữ Hán, bổ
khuyết cho những mảng đời sống mà chữ Hán và văn học chữ Hán không
quan tâm hay không đánh giá là quan trọng. Chữ Nôm có vai trò quan trọng trong
hình thành, phát triển và bảo lưu văn hoá; đồng thời thúc đẩy quá trình thuần
thục văn hoá trong biến chuyển kinh tế từng giai kì và diễn dịch văn học Việt
Nam. Vậy, các triều đại quan phương trong thời kì đầu độc lập nhận thức như
thế nào về vai trò của chữ Nôm. Họ có coi thường thứ “tục tự” này hay
không? Thái độ ứng xử của các triều đại với văn học Nôm như thế nào? Họ
có “loại trừ” chữ Nôm hay không? Tâm lý coi nhẹ thứ văn tự không hay ít
được sử dụng trong môi trường hành chính sự nghiệp, chưa được xác nhận là
văn tự chính thức của quốc gia có phải là sự thực? Trên thực tế có loại văn
bản chính thống nào của nhà nước chuyên chế khẳng định tính chất “thấp
kém”, “nhảm nhí” của chữ Nôm và văn học Nôm3?
Đó là câu hỏi trăn trở đối với chúng tui và truy tìm căn nguyên trả cho câu
hỏi ấy là một trong những lí do cho sự tồn tại của luận văn này. Với hi vọng
bước đầu khảo sát toàn bộ các cứ liệu lịch sử liên quan và văn chương giai
3
Dường như đã có sự hiểu lầm một cách rộng rãi tinh thần các huấn điều của chúa Trịnh đối với việc in ấn
và lưu hành các “thi tập”, “ca khúc” chữ Nôm, những lời lẽ bị suy diễn khái quát hóa thành sự phủ định hay
chí ít là coi thường chữ Nôm và văn chương Nôm nói chung. Những huấn điều như:
Cũng là truyện cũ nôm na
Hết thơ tập ấy lại ca khúc này
Tiếng dâm dễ tiếng người say,
Chớ cho in bán, hại ngay thói thuần
Thực ra các huấn điều này bài xích một số phương diện nội dung của những “thi tập”, “ca khúc” hơn là coi
thường, phủ định văn tự chữ Nôm và văn học sáng tác bằng chữ Nôm. Cùng với việc ban hành 47 điều giáo
hóa, Trịnh Tạc cho sưu tầm nhiều sách Nôm “có hại cho giáo hóa” đem đốt đi. Vấn đề là Trịnh Tạc chỉ sai
đốt những sách Nôm có hại chứ không phải tất cả các sách Nôm nói chung. Thái độ coi thường ở đây là coi
thường phương diện dâm tục của một số sách (chứ không phải toàn bộ những sáng tác bằng chữ Nôm). Như
thế chúa Trịnh có thực sự coi thường văn tự chữ Nôm không? Chúng tui sẽ trở lại vấn đề này và khảo sát
một cách kĩ lưỡng vào dịp khác.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 5
đoạn Lý – Trần (tính đến đời Hồ, còn từ giai đoạn Lê sơ về sau chúng tui sẽ
khảo sát ở một công trình khác, dài hơi hơn), chúng tui mong muốn có những
dữ liệu toàn diện và đầy đủ về giai đoạn đầu của lịch sử hình thành, phát triển
chữ Nôm và văn học Nôm nhằm cung cấp một cái nhìn khách quan về một
mảng văn tự và văn học dân tộc. Từ đó có cơ sở cụ thể cho những kết luận
ban đầu về qui luật hình thành, vận động và phát triển của văn hóa, văn học
dân tộc trong những thế kỉ đầu độc lập. Trên cơ sở những khảo sát ban đầu
chúng tui tiếp tục hình dung công việc cho chặng tiếp theo, dài hơi và quan
trọng hơn sau này.
Thêm nữa, chúng tui đồng ý với nhận thức rằng: việc nghiên cứu chữ
Nôm với tư cách là hiện tượng khởi đầu của truyền thống văn hiến Việt Nam
tuy đã và đang được chú ý song vẫn là công việc lâu dài, chúng tui chỉ mong
đóng góp chút sức lực bé nhỏ của mình để tiếp sức cho chặng đường chung
gian nan ấy.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Chữ Nôm và văn học chữ Nôm là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử
phát triển của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Đi sâu nghiên cứu về chữ Nôm
và văn học chữ Nôm là công việc quan trọng đã và đang đặt ra đối với các
học giả trong nước và cả ngoài nước, xuất phát từ những nhu cầu của thực
tiễn đời sống xã hội nước ta cũng như từ những nhu cầu của nhận thức khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do nhận thức được vị thế của chữ Nôm
đối với văn hiến dân tộc nên việc nghiên cứu chữ Nôm có lịch sử tương đối
sớm4. Ngay từ thời phong kiến đã có một số ý kiến xung quanh các cuốn tự
điển, sách giáo khoa, trực tiếp hay gián tiếp bàn về nguồn gốc, cách cấu tạo,
cách viết ….của chữ Nôm. Đến thời thuộc Pháp, tình hình nghiên cứu chữ
4 Cũng cần nhấn mạnh rằng: Lịch sử nghiên cứu chữ Nôm khác với lịch sử nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức
năng…..của chữ Nôm và văn học Nôm. Về mảng này, các nhà nghiên cứu đã quan tâm nhưng chưa có nhiều
công trình đi sâu.Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 6
Nôm đã được chú ý hơn. Có nhiều học giả và nhiều công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về chữ Nôm của Việt Nam, trong đó có không ít tác giả
đã để lại những ấn tượng sâu sắc như: J. L. Taberd, H. Maspéro, Hoàng Xuân
Hãn, Pual Schneider, Văn Hựu, Vương Lực, Yonosuke Takeuchi, Kawamoto
Kuniye, v.v… Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu sưu tầm thư tịch
cổ, năm 1970 Ban Hán Nôm thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam được
thành lập, quy tụ nhiều nhà hoạt động cách mạng lão thành, kiến thức Hán
Nôm uyên bác để nghiên cứu di sản của cha ông một cách hệ thống. Năm
1979, Viện Nghiên cứu Hán Nôm chính thức được thành lập trên cơ sở Ban
Hán Nôm đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu chữ Nôm và văn học
Nôm của dân tộc và tổng hợp những kết quả nghiên cứu trước đó thành hệ
thống. Căn cứ vào kết quả tổng hợp của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chúng tôi
hệ thống lại lịch sử nghiên cứu chữ Nôm như sau:
Về sự ra đời của chữ Nôm có nhiều học giả trong và ngoài nước đã đi
sâu tìm hiểu về sự ra đời của chữ Nôm và có nhiều ý kiến khác nhau. Trịnh
Khắc Mạnh đã tổng kết lại các ý kiến đó như sau: “Lê Dư và Nguyễn Đổng
Chi đã căn cứ vào ý “Sĩ Vương bắt đầu lấy chữ Hán để dịch ra tiếng ta” của
Nguyễn Văn San trong Đại Nam quốc ngữ, để đưa ra nhận định cho rằng chữ
Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II). Nguyễn Văn Tố thì dựa vào chữ “Bố
Cái” mà nhân dân suy tôn Phùng Hưng là “Bố Cái đại vương” để cho rằng
chữ Nôm có từ cuối thế kỷ thứ VIII. Học giả Trần Văn Giáp đã căn cứ vào
chữ “Cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt”, để cho rằng chữ Nôm có từ thời
nhà Đinh. Trần Huy Bá dựa vào chữ “Ông Hà” khắc trên quả chuông Vân
Bản tự chung minh tìm được ở Đồ Sơn có niên đại năm 1076, để cho rằng
chữ Nôm có từ thời nhà Lý. Hai nhà nghiên cứu là GS. Nguyễn Tài Cẩn và
GS. Lê Văn Quán đã căn cứ vào mặt thanh mẫu, vận mẫu để chứng minh chữ
Nôm không thể có từ thời Sĩ Nhiếp mà xuất hiện sau thời Đường Tống” [45].
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 7
GS. Đào Duy Anh cho rằng: “do yêu cầu mới của xã hội từ sau cuộc giải
phóng, đặc biệt dưới các triều Đinh, Lê và đầu Lý, chữ Nôm đã xuất hiện”
[1, 81].
Cũng theo Trịnh Khắc Mạnh, bắt đầu từ thời nhà Lý, chúng ta thấy trong
các văn bia hiện còn lưu giữ được, xuất hiện những chữ Nôm ghi tên đất và
tên người, như: Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí (niên đại 1173) có các
chữ:: “Bà Cảm, đầu đình, cửa ngõ, bến sông”; Chúc Thánh Báo Ân tự bi
(niên đại 1185-1214) có các chữ: “Bà Đỗ, đồng Mộc”; Báo Ân thiền tự bi ký
(niên đại 1210) có các chữ” “đồng Hấp, đồng Chài, đồng Nhe”. Những chữ
Nôm khắc trên các văn bia thời Lý là sản phẩm của giai đoạn đầu trong quá
trình hình thành và phát triển của chữ Nôm trong các văn bản và làm tiền đề
tạo nên văn học chữ Nôm ở Việt Nam sau này.
Về nghiên cứu chữ Nôm có: Chữ Nôm với chữ Quốc ngữ (Lê Dư),
Chữ Nôm - Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến (Đào Duy Anh), Lược khảo về
nguồn gốc chữ Nôm (Trần Văn Giáp), Một số vấn đề về chữ Nôm (Nguyễn
Tài Cẩn), Nghiên cứu về chữ Nôm (Lê Văn Quán), Nghiên cứu chữ Nôm Tày
(Hoàng Triều Ân và Cung Văn Lược), Các cách biểu âm trong cấu
trúc chữ Nôm Việt (Nguyễn Tá Nhí), Cấu trúc nghĩa trong chữ Nôm Việt (Lã
Minh Hằng), Mối tương quan giữa âm Hán Việt và âm Nôm trong cách đọc
chữ Nôm (Trương Đức Quả), Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (Hoàng Thị Ngọ), Chữ Nôm và tiếng
Việt qua văn bản Thiên Nam ngữ lục (Nguyễn Thị Lâm), Truyền kì mạn lục -
Nghiên cứu văn bản và vấn đề dịch Nôm (Hoàng Hồng Cẩm), Nghiên cứu
chữ Nôm (Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam; Hội bảo tồn di sản chữ Nôm
Hoa Kì) v.v...Về phần nghiên cứu chữ Nôm, đặc biệt đóng vai trò quan trọng
là nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Hồng. Có thể khẳng định Khái luận văn tự
học chữ Nôm là một chuyên luận nghiên cứu nhiều mặt về chữ Nôm, tác giảLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 8
đã xây dựng một hệ thống thuật ngữ cùng hệ thống phương pháp tiếp cận đối
tượng, tạo thành một bộ khung lý thuyết, gợi mở cho sự phát triển của bộ
môn văn tự học ở nước ta. Cuốn sách chứa đựng một khối lượng tư liệu, dẫn
liệu phong phú, được lựa chọn công phu, có giá trị tiêu biểu. Đặc biệt, tác giả
đã dùng nhiều bảng biểu, nhiều hình ảnh minh họa, giúp cho bạn đọc phổ
thông có thể nhìn thấy tận mắt những tư liệu vốn không dễ tìm. Với Khái
luận văn tự học chữ Nôm tác giả đã nghiên cứu tỉ mỉ sự diễn biến của chữ
Nôm trên cấp độ “đơn vị văn tự” và cả trên cấp độ “hệ thống văn tự”, dựa
trên những cứ liệu khảo sát các văn bản tiêu biểu qua nhiều thời kỳ, tác giả
Nguyễn Quang Hồng đi đến xác định những đặc điểm chính của chữ Nôm
Việt theo cách nhìn lịch đại cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khá toàn diện
và thuyết phục
Về việc phiên âm các văn bản Nôm, có: Truyện Kiều, Hoa Tiên, Phan
Trần, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Lục súc tranh công, Phạm
Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Lâm tuyền kỳ ngộ, Quốc âm thi tập,
Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi, Chỉ nam ngọc âm, Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ
giải âm tập chú, Ngọc Kiều Lê, Thơ ca trù, Thiên Nam minh giám, Thiên
Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn ca, Lục Vân Tiên, thơ
Nôm Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Nguyễn Khuyến và nhiều tác gia khác v.v...
Về biên soạn những bộ sách công cụ, nhằm góp phần tạo nên những
phương tiện tra cứu khi tiếp cận di sản chữ Nôm, có thể kể như: Bảng tra chữ
Nôm (Viện Ngôn ngữ học), Đại từ điển chữ Nôm (Vũ Văn Kính), Từ điển
chữ Nôm Tày (Hoàng Triều Ân chủ biên), Từ điển chữ Nôm Việt (Nguyễn
Quang Hồng chủ biên), Từ ngữ văn Nôm (Nguyễn Thạch Giang) v.v..
Về nghiên cứu khai thác và biên dịch những bộ tùng thư theo chuyên
đề, nhằm xã hội hóa ngày càng nhiều các tư liệu Nôm, giúp cho các thế hệ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 9
người Việt Nam hôm nay hiểu được giá trị đích thực của văn hóa truyền
thống trong lịch sử, có thể kể như: Thư mục sách Nôm, Thơ Nôm Hàn luật,
Văn Nôm biền ngẫu, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang triển khai xuất bản bộ
Tổng tập văn học chữ Nôm - một sưu tập văn học chữ Nôm đầy đủ lần đầu
tiên được giới thiệu rộng rãi v.v...
Đặc biệt, để bảo tồn và phát huy chữ Nôm, dưới sự chủ trì của Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, các chuyên gia nghiên cứu Hán Nôm cùng các chuyên
gia tin học trong và ngoài nước đã xây dựng bảng mã chữ Nôm và đưa chữ
Nôm vào bảng mã chuẩn quốc tế IRG/ISO, tổng số chữ Nôm đã đưa vào kho
chữ chung quốc tế là 9.299 chữ, trong đó số chữ Nôm không trùng hình với
chữ của các nước trong khu vực khoảng 4.200 chữ. Hiện nay, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm đang tiếp tục sưu tầm và vẽ chữ Nôm để đưa vào bảng mã
chuẩn quốc tế (gồm chữ Nôm Kinh và chữ Nôm Tày), kế hoạch sẽ đưa thêm
khoảng hơn 2.000 chữ mới. Khi chữ Nôm được khẳng định trong bảng mã
chuẩn quốc tế, như vậy chủ quyền đã được khẳng định, điều này rất có ý
nghĩa về quốc tế, cũng như phát huy giá trị khoa học của chữ Nôm trong quá
trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt Nam.
Mặc dù vậy các công trình đó đều tập trung vào một số vấn đề của chữ
Nôm: Sự hình thành, nguồn gốc, cách cấu tạo, diễn biến, cách lưu giữ và bảo
tồn… của chữ Nôm qua các thời kì lịch sử nhưng chưa có công trình nào bàn
nghiêm túc về thái độ của các triều đại đối với chữ Nôm và văn học Nôm.
Trước đây, trong bài viết Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại
thư tịch của Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn
có viết: “ Quan niệm phong kiến chính thống chưa bao giờ bài xích chữ Nôm
PHẦN KẾT LUẬN
Có thể thấy, thời Lý Trần là thời kỳ mà cùng với dân tộc, nền văn hóa
Đại Việt phải vận động và có ý thức đối chọi với nhiều thách thức gay gắt từ
môi trường chính trị và văn hóa khu vực. Do sự vận động nội tại cũng như
những tác động ngoại sinh, văn hóa Đại Việt thời Lý Trần có sự chuyển hóa
mạnh trong cơ tầng, cấu trúc cũng như biểu hiện và hành vi văn hóa. Sự
chuyển hóa đó được thể hiện rõ nhất ở các thành tố bên trên, tức những lớp
văn hóa thượng tầng mà biểu hiện rõ rệt nhất là ngôn ngữ và văn học
Sự ra đời của chữ Nôm đã đáp ứng được nhu cầu của dân tộc trong sự
phát triển văn hoá, góp phần nâng cao địa vị tiếng Việt. Văn chương Phật
giáo, Nho giáo viết bằng chữ Nôm có ý nghĩa thiết thực trong sự phát triển
văn hoá dân tộc. Văn bản vẫn còn, hình tích chưa phai, chữ Nôm mãi mãi là
đứa con tinh thần của người Việt, gắn liền với truyền thống nghìn năm đã qua
và về sau. “Cái diệu trong chế tác tỏ ra ở điển lễ hiến chương, cái hay trong
tâm thuật ngụ vào trong văn chương sách vở, cho nên xem đến tư văn thì biết
được đạo trời. Thư tịch, văn minh của loài người là ở đó”. [9, 379]
Giống như các nước đồng văn khác, Việt Nam đã tiếp thu và sử dụng chữ
Hán trong lịch sử, nhưng đồng thời cũng sáng tạo ra một di sản vô cùng độc
đáo, thể hiện bản lĩnh văn hoá dân tộc Việt Nam, ghi lại ngôn ngữ của chính
mình, khác hẳn với bất kỳ quốc gia nào, đó chính là chữ Nôm của người Việt.
Hiện tượng này vừa mang những nét đặc thù của riêng mình nhưng đồng thời
nó cũng nằm trong qui luật chung của thế giới. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Vương cho rằng, đây là một hiện tượng mang tính quốc tế “Tới những thời
điểm nhất định, các nền văn hoá, văn học “được tích hợp” đều hiển thị
những nỗ lực tìm kiếm và sáng tạo của mình trên bình diện công cụ và các
yếu tố hình thức nhằm vừa để làm gia tăng phương tiện và công cụ biểu hiện,
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 95
phản ánh cảm xúc và tư duy, vừa để vượt thoát khỏi sự ràng buộc mang tính
cầm tù của các phương tiện nghệ thuật mà ở điểm xuất phát, họ đã buộc phải
vay mượn, tiếp thu từ “nền văn hoá, văn học cổ mẫu” (archétype). Kết quả là
sự xuất hiện và hoàn thiện từng bước của các hệ thống văn tự mang tính
“quốc ngữ” (Nhật văn, Hàn văn, chữ Nôm), các thể loại văn học và nghệ
thuật hướng tới trình độ “điển phạm dân tộc”. Giữa trình độ phát triển của
ngôn ngữ văn học thể hiện đặc thù dân tộc với sự xuất hiện và hoàn thiện hoá
các thể loại văn học dân tộc dĩ nhiên có sự hô ứng và tòng thuộc lẫn nhau.”
[97]
Như vậy, ở “thời đại thứ nhất” của lịch sử văn học, nền văn học Việt Nam
vừa mang những “đặc điểm nhận dạng” tương tự với “những đặc điểm nhận
dạng” của các nền văn học khác trong khu vực, cụ thể là văn học Nhật Bản và
văn học Triều Tiên, (cùng tiếp nhận những thành tựu và khuôn mẫu của nền
văn học “gốc” là văn học Trung Quốc, lại cũng cùng kinh qua những chặng
đường và cách thức dân tộc hoá tương tự nhau) vừa cũng đã xác lập nên
“những tiêu chí hệ hình” thuần tuý cho riêng mình (chữ viết – ngôn ngữ văn
học riêng, hệ thống chủ đề - đề tài riêng, hệ thống hình tượng văn học riêng,
một số thể loại văn học riêng ).
Chữ Nôm đã có một quá trình hình thành và sử dụng lâu dài ở Việt Nam, là
phương tiện chuyển tải những giá trị truyền thống, biểu đạt những đặc trưng
văn hoá, phản ánh nhân sinh quan và thế giới quan của lớp lớp người Việt
Nam qua hàng chục thế kỷ “….quá trình trở thành chữ văn học của kiểu chữ
này trải qua nhiều thăng trầm trong suốt nhiều thế kỉ” [23, 263]
Trên cơ sở các kết quả khảo sát các dữ liệu trong chính sử về phương
thức ứng xử của các triều đại hành chính quan phương thời Lý Trần chúng ta
thấy một thực tế được ghi chép lại rằng: Tuyệt nhiêu các triều đại chính thống
không coi thường và miệt thị chữ Nôm mà ngược lại có niềm tự hào và bằngLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 96
những cách khác nhau đều cố gắng thể gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình
trong những trước tác khác nhau. Cách ứng xử với chữ Nôm trong công việc
hành chính, trong bày tỏ tâm tư, và đặc biệt trong giao dịch với dân chúng có
những ưu ái nhất định. Các thành tựu về văn học mặc dù chưa phong phú
song lượng tác phẩm phú Nôm và dịch phẩm Khóa hư lục đã cho thấy vai trò
của ngôn ngữ văn Nôm với trí thức đương thời, việc Nôm hóa giáo lí Phật
giáo, Nho giáo là chặng đi cần thiết mà dân tộc phải trải qua.
Từ góc nhìn lịch đại, cũng không có gì ngạc nhiên nếu cho rằng thời Lý
Trần nền văn học vẫn chưa đạt được những thành tựu đáng kể nào về ngôn
ngữ văn học. Văn học chữ Nôm mặc dù đã có thành tựu song phải đến
Nguyên Trãi mới có những nét riêng về bản sắc. Có thể coi giai đoạn trước
Nguyễn Trãi là thời kì vận động và tích hợp, ươm đủ những điều kiện cần
thiết để tạo tiền đề cho chặng tiếp theo.
Có thể thấy rằng trong hơn năm thế kỉ đã qua (X – XV), ngôn ngữ dùng
trong đời sống và sáng tạo văn chương luôn nằm trong thế phải vận động,
phải cựa quậy, phải nỗ lực và luôn khao khát đến đích của sự ổn định và hoàn
thiện. Trịnh Khắc Mạnh nhấn mạnh: “Các triều đại nhà nước phong kiến ở
Việt Nam phát triển lúc thịnh lúc suy; nhưng văn học Việt Nam nói chung và
văn học chữ Nôm nói riêng, lại có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều điểm mới
trong sáng tác văn học nghệ thuật được hình thành về cả giá trị nội dung và
hình thức nghệ thuật. Văn học chữ Nôm phát triển toàn diện về chất lượng
nội dung và số lượng tác phẩm”44
Trên những nét tổng thể, sự manh nha, hình thành và phát triển của chữ Nôm
và văn học Nôm nằm ở “dòng riêng giữa nguồn chung”. Nó không đi ngược
với qui luật hình thành, phát sinh, phát triển của văn hóa khu vực. Các nền
văn học Nhật Bản, Triều Tiên hay Việt Nam cho tới cuối thời đại thứ nhất về
44
trong Hội Nghị Quốc tế về chữ Nôm năm 2006
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 97
cơ bản vẫn vận hành theo quỹ đạo khu vực, tính chất “đồng văn” vẫn cực kỳ
đậm đặc. Nói cách khác, giữa các nền văn học này và nền văn học Trung
Quốc vẫn duy trì rõ nét những “đồng dạng hệ hình”. “Các nền văn học vùng
Ðông Á chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc cũng vận động theo hai quá
trình: một mặt nỗ lực để theo kịp khuôn mẫu Trung Quốc (vừa “vô tốn” vừa
“bất dị”), mặt khác từng bước kiên trì tìm kiếm và cuối cùng đã kiến tạo
được cả ngôn ngữ văn học mới, cả hệ thống thể loại mới”. [97]
Để có một nền văn học Nôm rực rỡ và phong phú thì phải đến giai đoạn
sau: thế kỉ XV, XVIII – XIX45. Đó là phần kiến thức nằm ngoài phạm vị của
luận văn này, người viết xin được đề cập trong một dịp khác.
Phác họa của tác giả luận văn về chặng đường nghiên cứu tiếp theo.
Như đã khẳng định ở Phần mở đầu: việc nghiên cứu chữ Nôm với tư
cách là hiện tượng khởi đầu của truyền thống văn hiến Việt Nam tuy đã và
đang được chú ý song vẫn là công việc lâu dài. Thực hiện luận văn này chúng
tui mong muốn bắt đầu cho một hướng đi khác mà lâu nay giới nghiên cứu
chưa quan tâm thích đáng. Những khảo luận trong phạm vi luận văn chỉ có ý
nghĩa như là thao tác đầu tiên, góp phần định hướng một cách tiếp cận mang
tính hệ thống và là tiền đề quan trọng cho những bước tiếp theo. Chúng tui dự
kiến sẽ tiếp tục công việc này với những định hướng ban đầu như sau:
+ Khảo lại các dữ kiện trong lịch sử sau Hồ liên quan đến thái độ của các
chính thể đối với chữ Nôm và văn học Nôm, tức từ đời Lê trở về sau đến hết
thế kỉ XVIII bao gồm: toàn bộ phần dữ liệu xung quanh vấn đề chữ Nôm,
văn học Nôm bao gồm các tài liệu chính sử, các tài liệu hành chính quan
phương, các tài liệu chữ Nôm và văn học Nôm.
45 Chúng tui dự kiến sẽ khảo toàn bộ dữ liệu trong chính sử và sáng tác văn chương thời trung đại để có cái
nhìn tổng thể và toàn diện về vấn đề này trong chặng đường tiếp theo.Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai
cách ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 98
+ Trên cơ sở những dữ kiện lịch sử và văn học tiêu biểu tác giả định hướng
phân tích, đối sánh và tìm căn nguyên sâu xa cho quá trình phát triển nội tại
của chữ Nôm và văn học Nôm cũng như lí giải sự hưng thịnh và suy vong
của nó
+ Nhìn nhận lại một nhận định lâu nay tồn tại như một định kiến nhằm nhìn
nhận lại vấn đề ứng xử với văn học Nôm của các triều đại chính thống quan
phương, cung cấp một cái nhìn hệ thống về thái độ của các chính thể hành
chính quan phương với chữ Nôm và văn học Nôm
+ Trên cơ sở những gì làm được mục đích cao nhất của tác giả là tìm ra qui
luật riêng của văn học Việt Nam trên dòng chảy chung của các trong khu vực
văn minh phương Đông mà Trung Quốc là cái nôi kiến tạo
Những phác thảo trên là định hướng của tác giả luận văn về công việc của
chặng đường tiếp theo. Chúng tui rất mong nhận được sự động viên và chia
sẻ của tất cả những ai quan tâm đến công việc gian nan và thú vị này
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
S Ứng dụng phần mềm PSS/ADEPT xác định phương thức vận hành tối ưu cho lưới phân phối 22kV (Ninh Kiều - Cần Thơ) Khoa học kỹ thuật 0
L Sự thích ứng với hoạt động học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ của sinh viên trường Đại học Kho Tâm lý học đại cương 2
M Ứng dụng phương pháp hình thức hóa trong việc thẩm định tính logic của các mệnh đề trong các văn bản Kinh tế chính trị 0
B Ứng dụng đạo hàm trong chứng minh bất đẳng thức và giải phương trình, hệ phương trình Khoa học Tự nhiên 2
N Nghiên cứu về tiêu chuẩn truyền hình theo phương thức IP (IPTV) và khả năng ứng dụng ở Việt Nam Công nghệ thông tin 3
M Dạy học tích cực phần Đạo hàm và ứng dụng cho sinh viên Học viện Tài chính theo phương thức đào tạo tín chỉ Luận văn Sư phạm 0
S CÁC PHƯƠNG THỨC TÍCH HỢP IP TRÊN QUANG VÀ ỨNG DỤNG TRONG NGN CỦA TỔNG CÔNG TY BCVT VIỆT NAM Tài liệu chưa phân loại 0
H Các phương thức tích hợp IP trên quang và ứng dụng trong NGN của tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 2
V Nghiên cứu và phát triển hệ thống tạo luồng thời gian thực và giao thức thích ứng cho truyền thông đa phương tiện trong mạng Ad hoc Tài liệu chưa phân loại 0
H Các phương thức tích hợp IP trên quang và ứng dụng trong NGN của Công ty BCVT Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 1

Các chủ đề có liên quan khác

Top