lephamhong93_lephamhong93
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
. Đặc điểm chung
Tày- Nùng là hai dân tộc có chung nguồn gốc lịch sử, đặc điểm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng gần gũi, thời gian chung sống lâu dài. Trong đời sống văn hoá tinh thần của hai dân tộc này, Then, Tào, Bụt…có vị trí quan trọng đặc biệt. Then là loại hình nghệ thuật, sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng nổi bật nhất, phổ biến nhất và không thể thiếu trong các lễ nghi gia đình, xã hội và các nghi lễ chu kỳ đời người của dân tộc Tày- Nùng ở Việt Bắc, đặc biệt ở 5 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang. Then có nhiều tên gọi khác nhau như Pựt, Bựt, Vửt, giàng… nhưng tên gọi Then vẫn là phổ biến nhất.
1. Về khái niệm
Then còn nhiều điều còn tranh cãi, song đa số mọi người thống nhất quan niệm chung, Then là tiên (sliên), là con trời. Then giữ mối liên hệ trần gian với Ngọc Hoàng và Long Vương. Khi làm Then, thay mặt cho người trời giúp người trần gian, mong sự tốt lành, điều thiện cứu giúp. Người Tày- Nùng quan niệm thế giới tâm linh Then là một thế giới đa thần trong đó có thần mặt đất, trên trời, và dưới đất. Người sống trên trời có quyền uy hơn cả, là Thần Ngọc Hoàng. Thần linh trên trời chi phối đời sống muôn loài ở dưới đất. Có thể ban bình yên hay bất hạnh. Người ta tin Then giữ vai trò quan trọng trung gian giữa thế giới thần linh và con người. Then có thể giao tiếp với thần linh, truyền nguyện vọng của con người với thần linh và thông qua Then, thần linh giúp con người thực hiện nguyện vọng đó. Mỗi khi thực hiện cuộc hành trình từ mặt đất lên trời, Then và đội quân dùng lời hát, tiếng đàn diễn tả cuộc hành trình của mình. Cuộc hành trình phải vượt qua nhiều cửa ải khó khăn như: Cửa thổ công, cửa Thành Hoàng, cửa táo quân, cửa tổ tiên, cửa pháp sư, cửa tướng, đường ve sầu, cửa ô khuông, ô khắc, vượt biển…Then đem đến cho con người niềm tin.Nó đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người cho dù đó là niềm tin hão huyền, phi lý, song nó vẫn cứu cánh cho cuộc sống và là hạt nhân của mọi quan hệ với sự tồn tại cân bằng và ổn định của xã hội, cộng đồng, cá nhân.
Then còn là thầy thuốc chữa bệnh, người nghệ sĩ dân gian của bản làng. Then đem đến liều thuốc tinh thần, thực hiện hành động tín ngưỡng cụ thể giải toả tâm lý người bệnh. Với tư cách người nghệ sĩ, Then được nhiều người mến mộ, là người giỏi thơ văn, biết đàn, hát, biết múa các điệu múa, điệu dân vũ của dân tộc. Buổi lễ Then không khí linh thiêng, huyễn hay cuốn hút người nghe, người xem bằng nghệ thuật của mình. Người làm Then là một nhạc sĩ, một nhạc công, vừa đánh đàn, vừa hát, đôi khi kiêm xóc nhạc, vũ công biểu diễn trước đám đông.
2. Nguồn gốc của Then
Qua các giai thoại ở Cao Bằng có thể biết Then có từ rất lâu, vào khoảng thế kỷ XVI- XVII khi Mạc Kính Cung lên chiếm cứ đất Cao Bằng đánh lại nhà Lê (1598-1625).Có nhiều giai thoại về Then khác nhau nhưng thống nhất trên 5 tỉnh của Việt Bắc thì Then có nguồn gốc ở Cao Bằng.
Lời ca có nhiều chi tiết nhất quán, phổ biến trong Then là đi sứ (pây sử) khảm hải (vượt biển), bắt phu phen…Những đoạn “lập cầu hào quang” nói về việc đúc đồng, đúc gang rèn sắt để bắc cầu, “thấu quang thấu nạn” kể về việc quân Then dùng súng ống săn hươu nai. Nhiều chỗ nói quân Then được tổ chức thành đội, có câu nói việc đốt hoả tiễn thăng thiên dùng làm pháo lệnh. Đoạn miêu tả chợ Tam Quan mua bán nhộn nhịp đông vui…Cho thấy Then xuất hiện trong xã hội có tôn ti trật tự, có phân chia đẳng cấp rõ rết, phân công lao động, nghề thủ công phát triển.
II. Các hình thức sinh hoạt Then
Then có nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và tuỳ vào phong tục tập quán của từng vùng mà có mức độ khác nhau. Có những loại Then phổ biến sau:
1. Then cầu mong
Lễ cầu an: Người tày nùng thường tổ chức lễ này vào tháng giêng hàng năm. Người ta đón ông bà Then về nhà lễ để cầu an bình. Lễ cầu an còn là ngày hội tụ xóm làng, vui xuân. đây là loại Then vui, hát về tình ca, sử ca. Thường thì người ta mời các ông bà Then có giọng hát hay, biết nhiều làn điệu đàn giỏi về làm lễ trong ngày này để mọi người cùng thưởng thức.
Lễ giải hạn: Lễ này được tổ chức vào bất kỳ ngày nào dịp nào trong năm. Bởi cứ khi thấy có điều không lành, người ta thường mời Then về cúng để cầu mong sự may mắn, an bình, tai qua nạn khỏi.
Lễ cầu bjoóc, cầu va hay còn gọi là cầu tự. Người Tày- Nùng ví con cái là bông hoa, do vậy những đôi vợ chồng mới cưới hay không có con đều mời Then về làm lễ cầu bjoóc, cầu va…Họ hy vọng Then hay mo hay sliên sẽ hát cầu xin với Hoa Vương Thánh Mẫu vốn là nữ thần trông coi tình yêu, hạnh phúc, con cái của thiên hạ. Người Tày- Nùng cho rằng bà là bà mụ của những đứa trẻ do vậy bà có quyền ban phát hoa vàng hoa bạc cho ai là tuỳ. Mặt khác bà còn có thể ban phát sức khoẻ cho bọn trẻ…
Lễ câu mùa, cầu đảo, diệt trùng. Đây là lễ mang tính chất cộng đồng làng bản. Thường được tổ chức vào ngày đầu xuân tại nơi thờ thổ công, miếu thần hay trên thửa ruộng của làng. Người ta mời ông Then,bà Then có nơi mời thầy mo thầy tạo về làm lễ với mục đích cầu mùa. Lễ này ngoài những đoạ hát mang tính nghi lễ, ông bà Then còn hát về những đoạn năm tháng, lịch, kinh nghiệm làm ăn của từng tháng trong năm. Ngày này còn là ngày tụ hội làng bản vui xuân, chúc mừng năm mới vui vẻ sau một năm làm việc mệt nhọc.
2. Loại Then chữa bệnh
Trước đây dân tộc Tày- Nùng cũng như các dân tộc khác đều cho rằng người ốm, chết do nhiều nguyên nhân. Nhiều người ốm do không hiểu nguyên nhân sinh bệnh nên họ cho rằng do thần linh ma quỷ làm hại. Có thể hồn bị xúc phạm bỏ đi hay do sợ hãi quá cũng hốt hoảng bỏ đi. Khi đó muốn biết người ốm bị sao người ra phải nhờ đến Then giải quyết có khả năng thương lượng với thần linh dùng sức mạn trấn áp quỷ thần có khả năng sai khiến âm binh đi tìm hồn về nhập vào xác. Then chữa bệnh bằng sức truyền cảm âm nhạc, thơ ca, phần nào làm trọng chức năng an ủi, dỗ dành nỗi đau của người bệnh, làm cho mọi người thấy tâm hồn thanh thản hơn sau buổi làm Then. Đây là phương pháp chữa bệnh bằng tinh thần của người Tày- Nùng xưa.
3. Loại Then tống tiễn
Những gia đình có người chết hay đứa trẻ xấu số, sau khi chôn cất xong, chọn được ngày lành, người Tày- Nùng thường đón Then về làm lễ tiễn hồn người chết đi khỏi nhà để không quấy rối những người còn đang sống.
4. Loại Then vui mừng, chúc tụng, ca ngợi
Thưòng những nhà giàu xưa kia khi có việc mừng thường hày mời Then đến đàn, hát vui, chúc tụng ca ngợi. Những cuộc làm Then này phải theo trình tự như các đám cúng lễ. Lời ca phần lớn ứng tác cho phù hợp với yêu cầu của hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng có một số bài mẫu, đối tượng giao tiếp chủ yếu là người chức không phải là thần linh.
5. Loại Then trung lễ, đại lễ cấp sắc (lẩu Then, lẩu vửt…)
Những người làm Then thường 3-5 năm phải làm lễ cấp sắc một lần gọi là đại lễ. Nhưng cũng có Then vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng làm lễ đúng kỳ hạn thì phải làm lễ trung để khất. Người Tày- Nùng gọi là trung lễ là Hất lẩu khao mạ chỉ mời một người Then đến làm giúp và chỉ cần chút hương hoa quả thết đãi binh mã và tổ sư đồng thời xin khất với Ngọc Hoàng đến kỳ sau sẽ làm đại lễ.
Đại lễ của nhà Then là lễ đem lễ vật gồm hương, hoa, trà rượu vàng bạc châu báu gạo thịt bánh traí tiến dâng lên Ngọc hoàng thượng đế để thỉnh cầu nhà vua ban cấp cho Then. Mỗi lần lẩu Then là một lần Then lên chức. Then nào lo làm lẩu Then nhiều lần thì chức tước càng cao tăng thêm uy tín với quần chúng có quyền hạn oai phong giải quyết nhiều việc cứu nhân độ thế.
Trong Then có chức tước quyền hạn được phân chia theo từng cấp độ khác nhau và rõ ràng. Lẩu Then là một lễ quan trọng. Chức tước Then được đánh dấu bằng tua trên mũ của các ông bà Then. Số tua cao nhất có thể lên tới 15. Khi không còn làm Then nữa một số nơi làm lẩu Then nhưng với mục đích tạ ơn.
6. Then_loại hình âm nhạc
Then là một loại hình diễn xướng dân gian được tổ chức chủ yếu trong nhà, thường là vào đêm khuya thanh vắng, do đó âm nhạc trong Then là loại nhạc êm dịu, ấm cúng, nhẹ nhàng và tâm tình. Phạm vi sân khấu của nó là một chiếc chiếu gồm một người đàn hát và người xóc nhạc vừa đủ cho ngừơi nghe và xem trong khuôn khổ một gia đình (ngoại trừ các cuộc đại lễ Then và Then ngoài trời).
Âm nhạc trong Then được diễn tả biểu hiện nội dung văn học có cốt truyện dài ngắn khác nhau. Vì thế cấu trúc âm nhạc khác với các loại dân ca ta thường gặp. Dân ca thường là khúc hát trọn vẹn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần với lời ca khác nhau. Nhưng hát Then lời ca nhiều khi được nhắc đi nhắc lại trên một làn điệu nhưng không có kết thúc trọn vẹn mà liên tục cho đến hết bài bản nội dung của một buổi Then. Cũng do quy định nội dung chặt chẽ của văn học nên âm nhạc trong Then khá phong phú về giai điệu và chặt chẽ về tiết tấu nhịp điệu bởi nó luôn được đi đôi với nhịp điệu của tiếng đàn và bộ xóc nhạc.
Nhạc điệu trong Then ở từng địa phương có sự tiếp thu các làn điệu dân ca như lượn, phong slư, hát ru…có những đạo trong Then được dùng nguyên một loại lượn như lượn cọi ở Then Tuyên Quang, lượn Then hay lượn Nàng Hai ở Then Cao Bằng…Tuy nhiên Then ở mỗi địa phương, mỗi tỉnh khác nhau đều có những màu sắc âm nhạc khác nhau. Đặc điểm này tạo cho âm nhạc trong Then có sự giàu có về mằu sắc khúc thức và tiết tấu âm nhạc.
Âm nhạc trong Then có sự giao lưu với loại âm nhạc khác như chất giai điệu và phong cách diễn xướng của thầy mo, trong một số chương đoạn nhưng có phần tiếp thu và cải biến phù hợp từng nội dung văn học cũng như tính chất của Then nhẹ nhàng, ấm cúng và sinh động hơn. Then được hình thành và phát triển trong dân gian nhưng thường phát triển theo kiểu nối nghề nối nghiệp. Theo kiểu cha truyền con nối, hay có số mệnh phải theo Then thì cũng phải theo học thầy thành thạo một thời gian dài mới đứng ra làm Then độc lập.Cách thức này đã biến Then trở thành một loại hình âm nhạc dân gian mang trình độ cao, chuyên nghiệp có tay nghề đạt tới trình độ cao về nghệ thuật.
Trong lễ làm Then thường có múa và múa Then nằm trong nghi thức tôn giáo. Tuy nhiên múa Then bao giờ cũng phải kèm theo đạo cụ. Và âm nhạc trong múa Then đơn giản, thường dùng đàn tính và chùm xóc nhạc để đệm song tiết tấu âm nhạc múa phong phú một số nơi có hát.
Các hình thức âm nhạc trong Then.
Bên cạnh ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng, Then còn được xem xét như một yếu tố là một loại diễn xướng do chỉ có một người hát với cây tính Then và chùm xóc nhạc. Ở trong những cuộc đại lễ Then có nhiều ngừơi cùng đàn, hát, múa. Như vậy âm nhạc trong Then có cả nhạc hát, nhạc đệm, nhạc không lời, nhạc múa.
Các nhạc cụ trong Then
Nhạc cụ trong Then chủ yếu là đàn tính và đàn xóc, nhưng chuông cũng có lúc được sử dụng tuy nhiên rất ít. Tuy chỉ có hai nhạc cụ chính nhưng các cuộc Then có thể đảm nhiệm được phần nhạc đệm cho hát, cho múa và cả những bài nhạc không lời, nhạc lưu không. Hai nhạc cụ cần thiết cho múa trong Then. Một số đoạn mang nội dung cầu cúng, bẩm báo hay trình diện Then còn sử dụng cả chuông như một sự báo hiệu với tính chất nghiêm trnag kính cẩn. Qua khảo sát nhạc cụ trong Then ở nhiều địa phương, thấy chủ yếu và phổ biến những loại nhạc cụ sau:
Tính Then
Tính dùng trong Then người Tày- Nùng quen gọi là “ăn tính” trong đó, “ăn”, “tính” có nghĩa là đàn. Nhiều nơi chỉ gọi là tính có nghĩa là cây đàn tính dùng trong hát Then, làm Then.
Tính Then giống tính tẩu của người Thái là nhạc cụ học dây chỉ gẩy. Là nhạc cụ họ dây vì có nguồn rung là dây rung, phương pháp kích âm là dùng ngón trỏ phải tác động vào dây theo hai chiều nên thuộc chi gẩy.
chức năng có nhiều cỡ to nhỏ, tuỳ theo từng vùng. Loại to có âm thanh to, khoẻ phù hợp với giọng trầm ấm, loại nhỏ có âm thanh cao, tươi sáng phù hợp với giọng nữ trẻ. Loại cỡ trung bình có thể phù hợp với nhiều loại giọng. Tính Then là nhạc cụ dân gian được dùng với các nguyên liêu sẵn có ở địa phương và được làm bằng phương pháp thủ công do vậy không có một kích thước cố định. Tính Then phổ biến ở vùng Tày- Nùng ở Việt Bắc, đặc biệt là các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn.
Cấu tạo
Tính Then có cấu tạo khá đơn giản. Đàn được làm bằng gỗ nhẹ, mịn thớ, ít cong vênh. Chiều dài cần đàn theo cách tính của nghệ nhân là chín nắm tay cộng lại, số đo bằng chín nắm tay này tương đương với chiều dài khoảng 75- 90 cm. Cây đàn nhẵn, trơn không có phím. Phía đầu cần đàn lắp trục lên dây, tuỳ từng địa phương dùng đàn 2 dây hay 3 dây mà số trục có khác nhau. Mặt cần được lắp thẳng với mặt đàn, phía đầu trên trục lên dây người ta chạm khắc những hoa văn hình các con vật như rồng, long mã, con phượng, con cá hay bằng các thứ hoa như hoa chuối. Có đầu đàn được chạm công phu có các chữ như Phúc thọ ninh khang ở bốn mặt.
Mặt đàn xưa được làm bằng các loại gỗ dai, xốp và chống được ẩm. Nhiều nơi còn bưng mặt đàn bằng giấy bản ép và dùng nhựa của nâu nhựa cậy, nhựa hồng để gắn mặt với bầu đàn. Mặt đàn được xẻ mỏng khoảng 2,5 đến 3mm bào nhẵn tránh không có sẹo gỗ để âm thanh lan đều.
Bầu đàn đựơc làm bằng quả bầu cắt đi 1/3 để già, phơi khô. Về kích thước các nghệ nhân thường chọn cách tính như sau: 3 nắm bầu, 9 nắm cần. Kích thước tương ứng đường kính khoảng 15-20, chiều cao bầu đàn khoảng 12-15cm. Tuy nhiên tùy từng vùng và ý thích nghệ nhân mà còn có nhiều kích thước các biệt khác nhau. Để có đựoc tiếng đàn vang và chuẩn, bầu đàn phải có độ tròn và dày đều. Xung quanh bầu đàn gần sát phía mặt đàn được khoét nhiều lỗ thoát âm, thường khoét các lỗ tròn nhỏ tuỳ theo từng cụm (khoảng từ 6 cụm) như hình hoa, mỗi cụm khoảng 9 lỗ nhỏ. Một số vùng như ở Lạng Sơn còn dùng bầu đàn bằng đồng nhưng âm thanh không hay, rè và khô.
Ngựa đàn là một miếng gỗ nhỏ hình thang, chiều cao khoảng từ 1-1,4 cm, chiều dài khoảng 3-4cm. Phía dưới ngựa luôn được khoét hình tròn hay hình chữ M tạo cho ngựa luôn áp sát xuống mặt đàn, tránh được tiếng rè. Điểm đặt ngựa là chính giữa mặt đàn tạo sự cân đối, nên tạo sự chấn rung tốt. Do vậy có thể thấy tiếng tính có âm hưởng vang, không bị tức tiếng và có âm sắc ấm áp.
Dây đàn xưa được se bằng tơ tằm lấy sáp ong vuốt nhẵn, kêu trơn kêu gọn tiếng mà lâu hỏng. Ngày nay người ta thường dùng dây ni lon, cước. Tính Then có hai loại, loại 2 dây và loại 3 dây. Vùng Lạng Sơn phổ biến là loại 3 dây. Vùng Tuyên Quang, Hà Giang phổ biến là dùng đàn 2 dây và 3 dây. Tính Then 2 dây lên dây theo quan hệ quãng 4 hay quãng 5 tuỳ theo hàng âm của giai điệu bài hát hoạc nhạc đệm. Có vùng khi hát làn điệu tàng bốc người ta còn lên dây theo quãng 4, còn khi hát làn điệu tàng nặm người ta thường lên dây quãng 5. Tính Then 3 dây là loại thêm một dây trầm nhất. Dây này thấp hơn dây thứ hai một quãng 8. Vì đàn không có phím và dài ngựa đàn lại thấp nên lên dây không quá căng, do đó trên thực tế tiếng đàn chỉ vang, có âm thanh đẹp ở ba thế tay đầu tiên. ở các thế cao tay khi bấm dây bị dính vào mặt cần tiếng bị sạn và âm thanh không chuẩn.
Nghệ thuật biểu hiện và khả năng diễn tấu của tính Then.
Nghệ nhân khi đánh phải đặt bầu đàn trên đùi phải, dùng ngón tay cái của tay trái đỡ lưng cần đàn, các ngón còn lại dùng để bấm dây. Tay phải, ngón cái và ngón 3, 4, 5 cầm ở chỗ tiếp giáp giữa bầu đàn và cần đàn, dùng ngón trỏ tay phải để gẩy đàn theo hai chiều. Khi gẩy lên âm phát ra bởi phần thịt của đầu ngón tay tạo ra âm sắc dịu dàng mềm mại, còn khi gẩy xuống có phần ảnh hưởng của móng tay nên âm sắc cứng, thô và có phần hơi đanh. Khi trình diễn hai âm đó được trộn đan xem vào nhau tạo cho tính Then có một âm sắc độc đáo đặc biệt.
nhàng kèm theo nghệ thuật múa, các trò diễn và những trang trí mỹ thuật đã làm cho Then gần gũi, hấp dẫn bền lâu trong quần chúng nhân dân người Tày- Nùng.
Nghệ nhân Then dù yêu thích Then mà theo nghề hay do có căn đều phải học các thầy một cách nghiêm túc theo lối truyền miệng, truyền ngón tới mức điêu luyện trong vài năm mới có thể tự hành nghề. Mức điêu luyện ở đây cũng có nghĩa là các nghệ nhân Then đã đạt được trình độ cao về nghệ thuật văn thơ, ca hát, đàn, múa và các trò diễn dân gian tới mức chuyên nghiệp. Ngoài những bài học truyền khẩu, các nghệ nhân Then còn phải có ý thức rèn luyện nghề cho mình có một trình độ đàn, hát ngày một điêu luyện. Trong quá trình tìm diễn xướng nhiều nghệ nhân đã tự tìm tòi, sáng tạo để có thêm làn điệu âm nhạc hay, những ngón đàn độc đáo và phong cách trình diễn hấp dẫn. Hát Then được hình thành trong tâm thức dân gian được các nghệ nhân luôn sáng tạo, bổ sung vì thế mà Then ở mỗi địa phương mỗi vùng đều có sắc mằu độc đáo khác nhau. Đặc điểm này tạo ra cho âm nhạc trong Then giàu có tương đối về mặt màu sắc, giai điệu, khúc thức và tiết tấu.
Âm nhạc trong Then ở mỗi vùng vó ảnh hưởng chất liệu thi ca của vùng đó. Âm nhạc trong Then còn có sự giao lưu với một số thể loại âm nhạc gần gũi như si lượn…song khi vào Then đều được các nghệ nhân biến hoá, phát triển trở thành chất Then, nhẹ nhàng tình cảm sinh động hơn. Nhiều yếu tố âm nhạc trên đã góp phần cho Then đạt tời trình độ nghệ thuật đỉnh cao, hấp dẫn và quan trọng trong đời sống Then.
Ngày nay trong đời sống người Việt Nam hiện đại khi các giá trị âm nhạc cổ truyền đang bị mai một, các giá trị ngoại lai đang lấn át, phát triển các giá trị cổ truyền dân tộc thì Then qua bao biến thiên của lịch sử vẫn hiện diện trong đời sống của người Tày- Nùng.
Then vẫn tồn tại trong đời sống người…như nó vẫn tồn tại từ xa xưa đến giờ. Tuy nhiên do xã hội thay đổi Then cũng có những thay đổi để thích nghi. Những hình thức Then thuộc dạng bói toán, chữa bệnh mơ hồ dĩ nhiên không còn phổ biến như xưa. Những hình thức cầu an, giải hạn, vào những ngày mùa nhàn rỗi, những ngaỳ đầu xuân, mừng nhà mới, nhất là những cuộc đại lễ Then (ngày hội của nhà Then) là những cuộc Then đến nay vẫn còn nguyên sức thu hút.
Hát Then hình thành và lưu truyền trong dân gian, sự truyền nghề không được quy định chặt chẽ theo từng chương đoạn của ghi chép sách vở mà phần lớn theo truyền miệng, truyền ngón. Do đặc điểm đó mà mỗi nghệ nhân được truyền nghiệp sẽ tiếp nhận cái cũ và có những sáng tạo mới đa dạng khác nhau. Vì thế mà Then đến nay có nhiều lớp như lớp rất cổ, lớp cổ vừa, lớp kim của cận đại và hiện đại. Những nghệ nhân chính ngày nay thuộc lớp Then kim của cận đại…
Then tồn tại trong đời sống tâm linh của người Tày- Nùng không chỉ trỏog đời sống tâm linh mà còn tồn tại như một hiện tượng văn hoá cổ truyền với nền văn hoá mới thông qua những tiết mục đàn, hát, và múa trên sần khấu.
V. Kết luận
Trong đời sống con người …không chỉ Then mới biết sử dụng tính Then, hát Then mà cả người dân bình thường cũng vậy, đạt trình độ gần tương đương Then chuyên nghiệp. Then được đàn, hát trong sinh hoạt hàng ngày không nằm trong nghi lễ, đưa lên sân khấu bằng nhiều hình thức. Từ làn điệu nguyên gốc phong phú của nhiều vùng, Then được đặt lời mới phù hợp với nội dung mới của thời đại, do các nghệ sĩ không chuyên trình diễn tại các sân khấu địa phương.
Thời gian gần đây nhiều nghệ nghệ thuật từ chất liệu Then. Then được đưa lên sân khấu lớn với những nội dung có giá trị nghệ thuật nhưng gần gũi với nhân dân.
Then là một loại hình nghệ thuật được quân chúng giữ gìn và phát huy, vận dụng trong đời sống tinh thần. Có thể thấy rằng, dân tộc Tày- Nùng yêu Then là yêu một loại hình diễn xướng tổng hợp độc đáo. Loại hình này đã đi sâu vào lòng người, cảm hoá con người bằng nội dung và sức truyền cảm của giọng hát, sự rung động của cây đàn cũng như đường nét, động tác đẹp mang phong cách nghệ thuật múa và trang trí mỹ thuât. Tạo nên sự hài hoà âm thành và màu sắc. Nó vừa mang tính chất nghiêm trang của nghi lễ vừa mang tính nhiều vẻ của đời sống văn hoá dân tộc.
MỤC LỤC
I. Đặc điểm chung 1
1. Về khái niệm 1
2. Nguồn gốc của Then 2
II. Các hình thức sinh hoạt Then 2
1. Then cầu mong 2
2. Loại Then chữa bệnh 3
3. Loại Then tống tiễn 3
4. Loại Then vui mừng, chúc tụng, ca ngợi 4
5. Loại Then trung lễ, đại lễ cấp sắc (lẩu Then, lẩu vửt…) 4
6. Then_loại hình âm nhạc 4
III. Chùm xóc nhạc 9
IV. Chuông 10
V. Kết luận 14
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
. Đặc điểm chung
Tày- Nùng là hai dân tộc có chung nguồn gốc lịch sử, đặc điểm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng gần gũi, thời gian chung sống lâu dài. Trong đời sống văn hoá tinh thần của hai dân tộc này, Then, Tào, Bụt…có vị trí quan trọng đặc biệt. Then là loại hình nghệ thuật, sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng nổi bật nhất, phổ biến nhất và không thể thiếu trong các lễ nghi gia đình, xã hội và các nghi lễ chu kỳ đời người của dân tộc Tày- Nùng ở Việt Bắc, đặc biệt ở 5 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang. Then có nhiều tên gọi khác nhau như Pựt, Bựt, Vửt, giàng… nhưng tên gọi Then vẫn là phổ biến nhất.
1. Về khái niệm
Then còn nhiều điều còn tranh cãi, song đa số mọi người thống nhất quan niệm chung, Then là tiên (sliên), là con trời. Then giữ mối liên hệ trần gian với Ngọc Hoàng và Long Vương. Khi làm Then, thay mặt cho người trời giúp người trần gian, mong sự tốt lành, điều thiện cứu giúp. Người Tày- Nùng quan niệm thế giới tâm linh Then là một thế giới đa thần trong đó có thần mặt đất, trên trời, và dưới đất. Người sống trên trời có quyền uy hơn cả, là Thần Ngọc Hoàng. Thần linh trên trời chi phối đời sống muôn loài ở dưới đất. Có thể ban bình yên hay bất hạnh. Người ta tin Then giữ vai trò quan trọng trung gian giữa thế giới thần linh và con người. Then có thể giao tiếp với thần linh, truyền nguyện vọng của con người với thần linh và thông qua Then, thần linh giúp con người thực hiện nguyện vọng đó. Mỗi khi thực hiện cuộc hành trình từ mặt đất lên trời, Then và đội quân dùng lời hát, tiếng đàn diễn tả cuộc hành trình của mình. Cuộc hành trình phải vượt qua nhiều cửa ải khó khăn như: Cửa thổ công, cửa Thành Hoàng, cửa táo quân, cửa tổ tiên, cửa pháp sư, cửa tướng, đường ve sầu, cửa ô khuông, ô khắc, vượt biển…Then đem đến cho con người niềm tin.Nó đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người cho dù đó là niềm tin hão huyền, phi lý, song nó vẫn cứu cánh cho cuộc sống và là hạt nhân của mọi quan hệ với sự tồn tại cân bằng và ổn định của xã hội, cộng đồng, cá nhân.
Then còn là thầy thuốc chữa bệnh, người nghệ sĩ dân gian của bản làng. Then đem đến liều thuốc tinh thần, thực hiện hành động tín ngưỡng cụ thể giải toả tâm lý người bệnh. Với tư cách người nghệ sĩ, Then được nhiều người mến mộ, là người giỏi thơ văn, biết đàn, hát, biết múa các điệu múa, điệu dân vũ của dân tộc. Buổi lễ Then không khí linh thiêng, huyễn hay cuốn hút người nghe, người xem bằng nghệ thuật của mình. Người làm Then là một nhạc sĩ, một nhạc công, vừa đánh đàn, vừa hát, đôi khi kiêm xóc nhạc, vũ công biểu diễn trước đám đông.
2. Nguồn gốc của Then
Qua các giai thoại ở Cao Bằng có thể biết Then có từ rất lâu, vào khoảng thế kỷ XVI- XVII khi Mạc Kính Cung lên chiếm cứ đất Cao Bằng đánh lại nhà Lê (1598-1625).Có nhiều giai thoại về Then khác nhau nhưng thống nhất trên 5 tỉnh của Việt Bắc thì Then có nguồn gốc ở Cao Bằng.
Lời ca có nhiều chi tiết nhất quán, phổ biến trong Then là đi sứ (pây sử) khảm hải (vượt biển), bắt phu phen…Những đoạn “lập cầu hào quang” nói về việc đúc đồng, đúc gang rèn sắt để bắc cầu, “thấu quang thấu nạn” kể về việc quân Then dùng súng ống săn hươu nai. Nhiều chỗ nói quân Then được tổ chức thành đội, có câu nói việc đốt hoả tiễn thăng thiên dùng làm pháo lệnh. Đoạn miêu tả chợ Tam Quan mua bán nhộn nhịp đông vui…Cho thấy Then xuất hiện trong xã hội có tôn ti trật tự, có phân chia đẳng cấp rõ rết, phân công lao động, nghề thủ công phát triển.
II. Các hình thức sinh hoạt Then
Then có nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và tuỳ vào phong tục tập quán của từng vùng mà có mức độ khác nhau. Có những loại Then phổ biến sau:
1. Then cầu mong
Lễ cầu an: Người tày nùng thường tổ chức lễ này vào tháng giêng hàng năm. Người ta đón ông bà Then về nhà lễ để cầu an bình. Lễ cầu an còn là ngày hội tụ xóm làng, vui xuân. đây là loại Then vui, hát về tình ca, sử ca. Thường thì người ta mời các ông bà Then có giọng hát hay, biết nhiều làn điệu đàn giỏi về làm lễ trong ngày này để mọi người cùng thưởng thức.
Lễ giải hạn: Lễ này được tổ chức vào bất kỳ ngày nào dịp nào trong năm. Bởi cứ khi thấy có điều không lành, người ta thường mời Then về cúng để cầu mong sự may mắn, an bình, tai qua nạn khỏi.
Lễ cầu bjoóc, cầu va hay còn gọi là cầu tự. Người Tày- Nùng ví con cái là bông hoa, do vậy những đôi vợ chồng mới cưới hay không có con đều mời Then về làm lễ cầu bjoóc, cầu va…Họ hy vọng Then hay mo hay sliên sẽ hát cầu xin với Hoa Vương Thánh Mẫu vốn là nữ thần trông coi tình yêu, hạnh phúc, con cái của thiên hạ. Người Tày- Nùng cho rằng bà là bà mụ của những đứa trẻ do vậy bà có quyền ban phát hoa vàng hoa bạc cho ai là tuỳ. Mặt khác bà còn có thể ban phát sức khoẻ cho bọn trẻ…
Lễ câu mùa, cầu đảo, diệt trùng. Đây là lễ mang tính chất cộng đồng làng bản. Thường được tổ chức vào ngày đầu xuân tại nơi thờ thổ công, miếu thần hay trên thửa ruộng của làng. Người ta mời ông Then,bà Then có nơi mời thầy mo thầy tạo về làm lễ với mục đích cầu mùa. Lễ này ngoài những đoạ hát mang tính nghi lễ, ông bà Then còn hát về những đoạn năm tháng, lịch, kinh nghiệm làm ăn của từng tháng trong năm. Ngày này còn là ngày tụ hội làng bản vui xuân, chúc mừng năm mới vui vẻ sau một năm làm việc mệt nhọc.
2. Loại Then chữa bệnh
Trước đây dân tộc Tày- Nùng cũng như các dân tộc khác đều cho rằng người ốm, chết do nhiều nguyên nhân. Nhiều người ốm do không hiểu nguyên nhân sinh bệnh nên họ cho rằng do thần linh ma quỷ làm hại. Có thể hồn bị xúc phạm bỏ đi hay do sợ hãi quá cũng hốt hoảng bỏ đi. Khi đó muốn biết người ốm bị sao người ra phải nhờ đến Then giải quyết có khả năng thương lượng với thần linh dùng sức mạn trấn áp quỷ thần có khả năng sai khiến âm binh đi tìm hồn về nhập vào xác. Then chữa bệnh bằng sức truyền cảm âm nhạc, thơ ca, phần nào làm trọng chức năng an ủi, dỗ dành nỗi đau của người bệnh, làm cho mọi người thấy tâm hồn thanh thản hơn sau buổi làm Then. Đây là phương pháp chữa bệnh bằng tinh thần của người Tày- Nùng xưa.
3. Loại Then tống tiễn
Những gia đình có người chết hay đứa trẻ xấu số, sau khi chôn cất xong, chọn được ngày lành, người Tày- Nùng thường đón Then về làm lễ tiễn hồn người chết đi khỏi nhà để không quấy rối những người còn đang sống.
4. Loại Then vui mừng, chúc tụng, ca ngợi
Thưòng những nhà giàu xưa kia khi có việc mừng thường hày mời Then đến đàn, hát vui, chúc tụng ca ngợi. Những cuộc làm Then này phải theo trình tự như các đám cúng lễ. Lời ca phần lớn ứng tác cho phù hợp với yêu cầu của hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng có một số bài mẫu, đối tượng giao tiếp chủ yếu là người chức không phải là thần linh.
5. Loại Then trung lễ, đại lễ cấp sắc (lẩu Then, lẩu vửt…)
Những người làm Then thường 3-5 năm phải làm lễ cấp sắc một lần gọi là đại lễ. Nhưng cũng có Then vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng làm lễ đúng kỳ hạn thì phải làm lễ trung để khất. Người Tày- Nùng gọi là trung lễ là Hất lẩu khao mạ chỉ mời một người Then đến làm giúp và chỉ cần chút hương hoa quả thết đãi binh mã và tổ sư đồng thời xin khất với Ngọc Hoàng đến kỳ sau sẽ làm đại lễ.
Đại lễ của nhà Then là lễ đem lễ vật gồm hương, hoa, trà rượu vàng bạc châu báu gạo thịt bánh traí tiến dâng lên Ngọc hoàng thượng đế để thỉnh cầu nhà vua ban cấp cho Then. Mỗi lần lẩu Then là một lần Then lên chức. Then nào lo làm lẩu Then nhiều lần thì chức tước càng cao tăng thêm uy tín với quần chúng có quyền hạn oai phong giải quyết nhiều việc cứu nhân độ thế.
Trong Then có chức tước quyền hạn được phân chia theo từng cấp độ khác nhau và rõ ràng. Lẩu Then là một lễ quan trọng. Chức tước Then được đánh dấu bằng tua trên mũ của các ông bà Then. Số tua cao nhất có thể lên tới 15. Khi không còn làm Then nữa một số nơi làm lẩu Then nhưng với mục đích tạ ơn.
6. Then_loại hình âm nhạc
Then là một loại hình diễn xướng dân gian được tổ chức chủ yếu trong nhà, thường là vào đêm khuya thanh vắng, do đó âm nhạc trong Then là loại nhạc êm dịu, ấm cúng, nhẹ nhàng và tâm tình. Phạm vi sân khấu của nó là một chiếc chiếu gồm một người đàn hát và người xóc nhạc vừa đủ cho ngừơi nghe và xem trong khuôn khổ một gia đình (ngoại trừ các cuộc đại lễ Then và Then ngoài trời).
Âm nhạc trong Then được diễn tả biểu hiện nội dung văn học có cốt truyện dài ngắn khác nhau. Vì thế cấu trúc âm nhạc khác với các loại dân ca ta thường gặp. Dân ca thường là khúc hát trọn vẹn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần với lời ca khác nhau. Nhưng hát Then lời ca nhiều khi được nhắc đi nhắc lại trên một làn điệu nhưng không có kết thúc trọn vẹn mà liên tục cho đến hết bài bản nội dung của một buổi Then. Cũng do quy định nội dung chặt chẽ của văn học nên âm nhạc trong Then khá phong phú về giai điệu và chặt chẽ về tiết tấu nhịp điệu bởi nó luôn được đi đôi với nhịp điệu của tiếng đàn và bộ xóc nhạc.
Nhạc điệu trong Then ở từng địa phương có sự tiếp thu các làn điệu dân ca như lượn, phong slư, hát ru…có những đạo trong Then được dùng nguyên một loại lượn như lượn cọi ở Then Tuyên Quang, lượn Then hay lượn Nàng Hai ở Then Cao Bằng…Tuy nhiên Then ở mỗi địa phương, mỗi tỉnh khác nhau đều có những màu sắc âm nhạc khác nhau. Đặc điểm này tạo cho âm nhạc trong Then có sự giàu có về mằu sắc khúc thức và tiết tấu âm nhạc.
Âm nhạc trong Then có sự giao lưu với loại âm nhạc khác như chất giai điệu và phong cách diễn xướng của thầy mo, trong một số chương đoạn nhưng có phần tiếp thu và cải biến phù hợp từng nội dung văn học cũng như tính chất của Then nhẹ nhàng, ấm cúng và sinh động hơn. Then được hình thành và phát triển trong dân gian nhưng thường phát triển theo kiểu nối nghề nối nghiệp. Theo kiểu cha truyền con nối, hay có số mệnh phải theo Then thì cũng phải theo học thầy thành thạo một thời gian dài mới đứng ra làm Then độc lập.Cách thức này đã biến Then trở thành một loại hình âm nhạc dân gian mang trình độ cao, chuyên nghiệp có tay nghề đạt tới trình độ cao về nghệ thuật.
Trong lễ làm Then thường có múa và múa Then nằm trong nghi thức tôn giáo. Tuy nhiên múa Then bao giờ cũng phải kèm theo đạo cụ. Và âm nhạc trong múa Then đơn giản, thường dùng đàn tính và chùm xóc nhạc để đệm song tiết tấu âm nhạc múa phong phú một số nơi có hát.
Các hình thức âm nhạc trong Then.
Bên cạnh ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng, Then còn được xem xét như một yếu tố là một loại diễn xướng do chỉ có một người hát với cây tính Then và chùm xóc nhạc. Ở trong những cuộc đại lễ Then có nhiều ngừơi cùng đàn, hát, múa. Như vậy âm nhạc trong Then có cả nhạc hát, nhạc đệm, nhạc không lời, nhạc múa.
Các nhạc cụ trong Then
Nhạc cụ trong Then chủ yếu là đàn tính và đàn xóc, nhưng chuông cũng có lúc được sử dụng tuy nhiên rất ít. Tuy chỉ có hai nhạc cụ chính nhưng các cuộc Then có thể đảm nhiệm được phần nhạc đệm cho hát, cho múa và cả những bài nhạc không lời, nhạc lưu không. Hai nhạc cụ cần thiết cho múa trong Then. Một số đoạn mang nội dung cầu cúng, bẩm báo hay trình diện Then còn sử dụng cả chuông như một sự báo hiệu với tính chất nghiêm trnag kính cẩn. Qua khảo sát nhạc cụ trong Then ở nhiều địa phương, thấy chủ yếu và phổ biến những loại nhạc cụ sau:
Tính Then
Tính dùng trong Then người Tày- Nùng quen gọi là “ăn tính” trong đó, “ăn”, “tính” có nghĩa là đàn. Nhiều nơi chỉ gọi là tính có nghĩa là cây đàn tính dùng trong hát Then, làm Then.
Tính Then giống tính tẩu của người Thái là nhạc cụ học dây chỉ gẩy. Là nhạc cụ họ dây vì có nguồn rung là dây rung, phương pháp kích âm là dùng ngón trỏ phải tác động vào dây theo hai chiều nên thuộc chi gẩy.
chức năng có nhiều cỡ to nhỏ, tuỳ theo từng vùng. Loại to có âm thanh to, khoẻ phù hợp với giọng trầm ấm, loại nhỏ có âm thanh cao, tươi sáng phù hợp với giọng nữ trẻ. Loại cỡ trung bình có thể phù hợp với nhiều loại giọng. Tính Then là nhạc cụ dân gian được dùng với các nguyên liêu sẵn có ở địa phương và được làm bằng phương pháp thủ công do vậy không có một kích thước cố định. Tính Then phổ biến ở vùng Tày- Nùng ở Việt Bắc, đặc biệt là các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn.
Cấu tạo
Tính Then có cấu tạo khá đơn giản. Đàn được làm bằng gỗ nhẹ, mịn thớ, ít cong vênh. Chiều dài cần đàn theo cách tính của nghệ nhân là chín nắm tay cộng lại, số đo bằng chín nắm tay này tương đương với chiều dài khoảng 75- 90 cm. Cây đàn nhẵn, trơn không có phím. Phía đầu cần đàn lắp trục lên dây, tuỳ từng địa phương dùng đàn 2 dây hay 3 dây mà số trục có khác nhau. Mặt cần được lắp thẳng với mặt đàn, phía đầu trên trục lên dây người ta chạm khắc những hoa văn hình các con vật như rồng, long mã, con phượng, con cá hay bằng các thứ hoa như hoa chuối. Có đầu đàn được chạm công phu có các chữ như Phúc thọ ninh khang ở bốn mặt.
Mặt đàn xưa được làm bằng các loại gỗ dai, xốp và chống được ẩm. Nhiều nơi còn bưng mặt đàn bằng giấy bản ép và dùng nhựa của nâu nhựa cậy, nhựa hồng để gắn mặt với bầu đàn. Mặt đàn được xẻ mỏng khoảng 2,5 đến 3mm bào nhẵn tránh không có sẹo gỗ để âm thanh lan đều.
Bầu đàn đựơc làm bằng quả bầu cắt đi 1/3 để già, phơi khô. Về kích thước các nghệ nhân thường chọn cách tính như sau: 3 nắm bầu, 9 nắm cần. Kích thước tương ứng đường kính khoảng 15-20, chiều cao bầu đàn khoảng 12-15cm. Tuy nhiên tùy từng vùng và ý thích nghệ nhân mà còn có nhiều kích thước các biệt khác nhau. Để có đựoc tiếng đàn vang và chuẩn, bầu đàn phải có độ tròn và dày đều. Xung quanh bầu đàn gần sát phía mặt đàn được khoét nhiều lỗ thoát âm, thường khoét các lỗ tròn nhỏ tuỳ theo từng cụm (khoảng từ 6 cụm) như hình hoa, mỗi cụm khoảng 9 lỗ nhỏ. Một số vùng như ở Lạng Sơn còn dùng bầu đàn bằng đồng nhưng âm thanh không hay, rè và khô.
Ngựa đàn là một miếng gỗ nhỏ hình thang, chiều cao khoảng từ 1-1,4 cm, chiều dài khoảng 3-4cm. Phía dưới ngựa luôn được khoét hình tròn hay hình chữ M tạo cho ngựa luôn áp sát xuống mặt đàn, tránh được tiếng rè. Điểm đặt ngựa là chính giữa mặt đàn tạo sự cân đối, nên tạo sự chấn rung tốt. Do vậy có thể thấy tiếng tính có âm hưởng vang, không bị tức tiếng và có âm sắc ấm áp.
Dây đàn xưa được se bằng tơ tằm lấy sáp ong vuốt nhẵn, kêu trơn kêu gọn tiếng mà lâu hỏng. Ngày nay người ta thường dùng dây ni lon, cước. Tính Then có hai loại, loại 2 dây và loại 3 dây. Vùng Lạng Sơn phổ biến là loại 3 dây. Vùng Tuyên Quang, Hà Giang phổ biến là dùng đàn 2 dây và 3 dây. Tính Then 2 dây lên dây theo quan hệ quãng 4 hay quãng 5 tuỳ theo hàng âm của giai điệu bài hát hoạc nhạc đệm. Có vùng khi hát làn điệu tàng bốc người ta còn lên dây theo quãng 4, còn khi hát làn điệu tàng nặm người ta thường lên dây quãng 5. Tính Then 3 dây là loại thêm một dây trầm nhất. Dây này thấp hơn dây thứ hai một quãng 8. Vì đàn không có phím và dài ngựa đàn lại thấp nên lên dây không quá căng, do đó trên thực tế tiếng đàn chỉ vang, có âm thanh đẹp ở ba thế tay đầu tiên. ở các thế cao tay khi bấm dây bị dính vào mặt cần tiếng bị sạn và âm thanh không chuẩn.
Nghệ thuật biểu hiện và khả năng diễn tấu của tính Then.
Nghệ nhân khi đánh phải đặt bầu đàn trên đùi phải, dùng ngón tay cái của tay trái đỡ lưng cần đàn, các ngón còn lại dùng để bấm dây. Tay phải, ngón cái và ngón 3, 4, 5 cầm ở chỗ tiếp giáp giữa bầu đàn và cần đàn, dùng ngón trỏ tay phải để gẩy đàn theo hai chiều. Khi gẩy lên âm phát ra bởi phần thịt của đầu ngón tay tạo ra âm sắc dịu dàng mềm mại, còn khi gẩy xuống có phần ảnh hưởng của móng tay nên âm sắc cứng, thô và có phần hơi đanh. Khi trình diễn hai âm đó được trộn đan xem vào nhau tạo cho tính Then có một âm sắc độc đáo đặc biệt.
nhàng kèm theo nghệ thuật múa, các trò diễn và những trang trí mỹ thuật đã làm cho Then gần gũi, hấp dẫn bền lâu trong quần chúng nhân dân người Tày- Nùng.
Nghệ nhân Then dù yêu thích Then mà theo nghề hay do có căn đều phải học các thầy một cách nghiêm túc theo lối truyền miệng, truyền ngón tới mức điêu luyện trong vài năm mới có thể tự hành nghề. Mức điêu luyện ở đây cũng có nghĩa là các nghệ nhân Then đã đạt được trình độ cao về nghệ thuật văn thơ, ca hát, đàn, múa và các trò diễn dân gian tới mức chuyên nghiệp. Ngoài những bài học truyền khẩu, các nghệ nhân Then còn phải có ý thức rèn luyện nghề cho mình có một trình độ đàn, hát ngày một điêu luyện. Trong quá trình tìm diễn xướng nhiều nghệ nhân đã tự tìm tòi, sáng tạo để có thêm làn điệu âm nhạc hay, những ngón đàn độc đáo và phong cách trình diễn hấp dẫn. Hát Then được hình thành trong tâm thức dân gian được các nghệ nhân luôn sáng tạo, bổ sung vì thế mà Then ở mỗi địa phương mỗi vùng đều có sắc mằu độc đáo khác nhau. Đặc điểm này tạo ra cho âm nhạc trong Then giàu có tương đối về mặt màu sắc, giai điệu, khúc thức và tiết tấu.
Âm nhạc trong Then ở mỗi vùng vó ảnh hưởng chất liệu thi ca của vùng đó. Âm nhạc trong Then còn có sự giao lưu với một số thể loại âm nhạc gần gũi như si lượn…song khi vào Then đều được các nghệ nhân biến hoá, phát triển trở thành chất Then, nhẹ nhàng tình cảm sinh động hơn. Nhiều yếu tố âm nhạc trên đã góp phần cho Then đạt tời trình độ nghệ thuật đỉnh cao, hấp dẫn và quan trọng trong đời sống Then.
Ngày nay trong đời sống người Việt Nam hiện đại khi các giá trị âm nhạc cổ truyền đang bị mai một, các giá trị ngoại lai đang lấn át, phát triển các giá trị cổ truyền dân tộc thì Then qua bao biến thiên của lịch sử vẫn hiện diện trong đời sống của người Tày- Nùng.
Then vẫn tồn tại trong đời sống người…như nó vẫn tồn tại từ xa xưa đến giờ. Tuy nhiên do xã hội thay đổi Then cũng có những thay đổi để thích nghi. Những hình thức Then thuộc dạng bói toán, chữa bệnh mơ hồ dĩ nhiên không còn phổ biến như xưa. Những hình thức cầu an, giải hạn, vào những ngày mùa nhàn rỗi, những ngaỳ đầu xuân, mừng nhà mới, nhất là những cuộc đại lễ Then (ngày hội của nhà Then) là những cuộc Then đến nay vẫn còn nguyên sức thu hút.
Hát Then hình thành và lưu truyền trong dân gian, sự truyền nghề không được quy định chặt chẽ theo từng chương đoạn của ghi chép sách vở mà phần lớn theo truyền miệng, truyền ngón. Do đặc điểm đó mà mỗi nghệ nhân được truyền nghiệp sẽ tiếp nhận cái cũ và có những sáng tạo mới đa dạng khác nhau. Vì thế mà Then đến nay có nhiều lớp như lớp rất cổ, lớp cổ vừa, lớp kim của cận đại và hiện đại. Những nghệ nhân chính ngày nay thuộc lớp Then kim của cận đại…
Then tồn tại trong đời sống tâm linh của người Tày- Nùng không chỉ trỏog đời sống tâm linh mà còn tồn tại như một hiện tượng văn hoá cổ truyền với nền văn hoá mới thông qua những tiết mục đàn, hát, và múa trên sần khấu.
V. Kết luận
Trong đời sống con người …không chỉ Then mới biết sử dụng tính Then, hát Then mà cả người dân bình thường cũng vậy, đạt trình độ gần tương đương Then chuyên nghiệp. Then được đàn, hát trong sinh hoạt hàng ngày không nằm trong nghi lễ, đưa lên sân khấu bằng nhiều hình thức. Từ làn điệu nguyên gốc phong phú của nhiều vùng, Then được đặt lời mới phù hợp với nội dung mới của thời đại, do các nghệ sĩ không chuyên trình diễn tại các sân khấu địa phương.
Thời gian gần đây nhiều nghệ nghệ thuật từ chất liệu Then. Then được đưa lên sân khấu lớn với những nội dung có giá trị nghệ thuật nhưng gần gũi với nhân dân.
Then là một loại hình nghệ thuật được quân chúng giữ gìn và phát huy, vận dụng trong đời sống tinh thần. Có thể thấy rằng, dân tộc Tày- Nùng yêu Then là yêu một loại hình diễn xướng tổng hợp độc đáo. Loại hình này đã đi sâu vào lòng người, cảm hoá con người bằng nội dung và sức truyền cảm của giọng hát, sự rung động của cây đàn cũng như đường nét, động tác đẹp mang phong cách nghệ thuật múa và trang trí mỹ thuât. Tạo nên sự hài hoà âm thành và màu sắc. Nó vừa mang tính chất nghiêm trang của nghi lễ vừa mang tính nhiều vẻ của đời sống văn hoá dân tộc.
MỤC LỤC
I. Đặc điểm chung 1
1. Về khái niệm 1
2. Nguồn gốc của Then 2
II. Các hình thức sinh hoạt Then 2
1. Then cầu mong 2
2. Loại Then chữa bệnh 3
3. Loại Then tống tiễn 3
4. Loại Then vui mừng, chúc tụng, ca ngợi 4
5. Loại Then trung lễ, đại lễ cấp sắc (lẩu Then, lẩu vửt…) 4
6. Then_loại hình âm nhạc 4
III. Chùm xóc nhạc 9
IV. Chuông 10
V. Kết luận 14
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: