Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Cách thức vận động phát triển theo quan điểm duy vật biện chứng Giá trị thực tiễn
Thuật ngữ “Biện chứng” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là Dialektica, có nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận. Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ lập luận của mình. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức đúng thì không thể có mâu thuẫn trong tri thức đó, và quá trình đi tới chân lý là quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong lập luận.
Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được dung đối lập với “siêu hình”. Đó là lý luận, đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau,ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng. Phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật cá biệt, mà còn thấy mối liên hệ với nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật, mà còn thấy sự hình thành và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy “cây” mà còn thấy cả “rừng”. Theo Ph.Ăngghen, phương pháp biện chứng “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, trong sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”.
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật:
Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là là khoa học về sự liên hệ phổ biến” và “Phép biện chứng là môn khoa học nghiên cứu về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của loài người và tư duy” V.I Lenin viết ”Phép biện chứng, tức là học thuyết của sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy triết học; là phương pháp tư duy khác về chất so với các phương pháp tư duy trước đó; là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc trong sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác. Theo Ph.Ăngghen, “ Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thong qua những mặt đối lập, tức là những mặt thong qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng từ mặt này đến mặt kia, tương tự với hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy quy định nội dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là những nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng là sự cụ thể hóa các nguyên lý trên. Nghiên cứu và làm sáng tỏ các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật cơ bản, đó là nhiệm vụ của phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen nhấn mạnh ”Vậy là từ trong lịch sử của tự nhiên và lịch sử của xã hội loài người mà người ta đã rút ra được các quy luật của biện chứng. Những quy luật không phải là cái gì khác ngoài những quy luật chung nhất của giai đoạn phát triển lịch sử ấy, cũng như là bản thân của tư duy”
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dung để khái quát mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau thế nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, không nêntuyệt đối hóa mối lien hệ nào và cũng không nên tách rời mối lien hệ này khỏi mối liên hệ khác bởi trên thực tế, các mối liên hệ còn phải được nghiên cứu cụ thể trong biến đổi và phát triển của chúng.
Nghuyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới bằng những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn trong thế giới khách quan,tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có nhiều hình thức, vai trò khác nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nguyên lý về sự phát triển :
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường xoáy ốc, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùt tương đối trong sự phát triển.
Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới cao hơn, phức tạp hơn; làm cho cơ cấu tổ chức, cách vận động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển có tính khách quan, phổ biến rất đa dạng. Từ nguyên lý phát triển, con người có thể rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn.
Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Các mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng được phép duy vật biện chứng khái quát thành các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản chất - hiện tượng,nguyên nhân - kết quả, khả năng – hiện thực, nội dung – hình thức…Chúng được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội. Các phạm trù cái riêng - cái chung - cái đơn nhất, tất nhiên – ngẫu nhiên, bản chất – hiện tượng là cơ sở của phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để từ đó nhận thức toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các phạm trù nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở phương pháp luận để chỉ ra mối liên hệ và phát triển giữa các sự vật, hiện tượng là một quá trình. Các phạm trù nội dung - hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của phương pháp nhận thức và thực tiễn.
Cái riêng , cái chung và cái đơn nhất:
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh các sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá trình so sánh giữa các sự vật, hiện tượng này với các sự vật, hiện tượng khác,; phân biệt chỗ giống nhau và khác nhau giữa chúng, nhận thức đi đến chỗ phân biệt cái riêng-cái chung. Cái riêng là phạm trù dung để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định và cái đơn nhất. Cái chung là phạm trù dung để chỉ những mặt, những thuộc tính lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng. Cái đơn nhấtvlà phạm trù dung để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Giữa cái riêng, cái chung, và cái đơn nhất có mối liên hệ biên chứng với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng; ngược lại, cái riêngchỉ tồn tại trong mối lien hệ với cái chung, bao hàm cái chung; cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung cà cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng; cái đơn nhất và cái riêng có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. V.I Lenin viết: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung, bất cứ cái chung nào cũng bao quát một cách đại khái tất cả cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung…. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác.”
Nguyên nhân và kết quả:
Nhận thức về sự qua lại giữa các mặt, các yếu tố, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật, hiện tượng mới và do vậy phát sinh ra mối liên hệ nhân quả. Nguyên nhân là do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vât, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Giữa nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại quy định lẫn nhau. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên luôn có trước cái kết quả, sau khi xuất hiện, kết quả ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân - kết quả lúc này có tính tương đối. Một sự vật, hiện tượng ở trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân - quả vô tận. Do vậy, nguyên nhân - kết quả bao giờ cũng ở trong mối quan hệ cụ thể.
Tất nhiên và ngẫu nhiên:
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính không một nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng nên phân chia chúng thành những mối liên hệ nhất định, phải xảy ra đúng như thế và các nhóm liên hệ có thể xảy ra,cũng có thể không xảy ra, cũng có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do mối liên hệ cơ bản bên trong của sự vật, hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định; có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này, có thể xuất hiện thế khác.
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thong qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên. Tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên chỉ có thể làm cho sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm, trong hình thức này hay hình thức khác. Sự phân biệt tất nhiên-ngẫu nhiên có tính tương đối, trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau.
Khi một doanh nghệp bắt đầu khởi sự, điều đầu tiên để họ tự tin khi xâm nhập thị trường chính là những lợi thế riêng biệt của doanh nghiệp đó, và đó cũng là cơ sở để họ thành công khi cạnh tranh với các đối thủ khác. Nếu một doanh nghiệp mà không có những cái đơn nhất, cái lợi thế riêng của họ thì doanh nghiệp đó sẽ nhanh chóng bị các đối thủ vượt qua mặt, sẽ không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và sụp đổ. Ngược lại, doanh nghiệp có nhiều cái đơn nhất, chiếm nhiều cái ưu thế trên thị trường thì sẽ trở nên thống lĩnh thị trường trở thành doanh nghiệp độc quyền, hay có sự ảnh hưởng lớn trên thị trường.
Ta tiếp tục xem xét tới cặp phạm trù “khả năng – hiện thực”:
Đây cũng là cơ sở lý luận nòng cốt cho doanh nghiệp trong việc hoạch định các chính sách kinh doanh, hay đề ra các mục tiêu để phấn đấu, dự báo trước những rủi ro và đưa ra biện pháp phòng tránh. Trong hiện thực, thực tế của doanh nghiệp luôn luôn tồn tại những khả năng xảy ra theo cả hai chiều hướng tốt và xấu mà người lãnh đạo cần có tầm nhìn để phán đoán trước : khả năng khi tiếp xúc với những điều kiện nhất định thì sẽ trở thành hiện thực. Vì vậy, nhà lãnh đạo cần xem xét mối liên hệ biện chứng này trong nội tại của công ty, của thị trường để tạo điều kiện cho các khả năng tốt có thể xảy ra, trở thành hiện thực, đồng thời ngăn chặn các khả năng xấu không thể trở thành hiện thực.
Không chỉ riêng trong doanh nghiệp, mà còn trong rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, vấn đề “bản chất – hiện tượng” là vấn đề rất đáng được nghiên cứu kỹ và nắm bắt được những quy luật, cách thức thể hiện của chúng để có được cách hành xử thích hợp cho mỗi sự việc đang xảy ra:
Liệu đó chỉ là hiện tượng hay là bản chất thực của sự việc đó? Trong thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, chắc chắn cũng có không ít những lần rủi ro hay các biến cố xảy đến cho doanh nghiệp nói riêng và cho cả thị trường nói chung, như vậy nhà quản lý cần phân tích mối quan hệ biện chứng giữa những cái hình thức bên ngoài, những hiện tượng đang xảy ra, để xác định xem nội dung bên trong những hiện tượng đó là gì? Điều gì đang thực sự xảy đến? Nếu phân tích đúng và xác định đúng bản chất của sự việc đó, doanh nghiệp sẽ được lợi rất lớn trong việc đón đầu những diễn tiến của thị trường; ngược lại nếu chủ quan, hay không xác định rõ đâu là bản chất - đâu là hiện tượng, thì doanh nghiệp dễ dàng bị nhầm lẫn và hành động sai, không thể làm chủ được tình hình và dễ bị “chết đứng” trong thương trường.
Kết luận:
Tóm lại, khi nghiên cứu về cách thức vận động và phát triển theo quan điểm duy vật biện chứng, ta nhận thấy rằng cách thức vận động đó mang tính quy luật, và chúng ta có thể chia cách thức hoạt động của chúng theo những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chúng tác động qua lại, tương hỗ với nhau, vừa đấu tranh với nhau, nhưng lại thống nhất với nhau trong một chừng mực nào đó. Các sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động không ngừng.
Doanh nghiệp, xét cho cùng thì cũng chỉ là một tổ chức, hoạt động trong xã hội, nên chịu những quy luật của xã hội chi phối. Do vậy, việc ứng dụng, hay nói đúng hơn là tuân theo cách thức hoạt động của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên là một việc rất cần thiết để có thể tồn tại và phát triển cùng với xã hội. Nắm bắt được những quy luật của tự nhiên, bằng phép phủ định biện chứng, doanh nghiệp có thể chủ động tìm ra cách thức để hoàn thiện bộ máy của mình, tìm ra hướng đi đúng cho doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích các sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh. Nếu đi sâu vào phân tích từng vấn đề theo giác độ của triết học duy vật biện chứng, chúng ta sẽ khám phá ra những khía cạnh khác của doanh nghiệp, mà bình thường có lẽ chúng ta sẽ không thể nghĩ tới những vấn đề như vậy, vì bản chất con người thường hay tuyệt đối hóa những sự việc họ đánh giá là đúng, đánh giá là tốt và hành động theo những suy nghĩ chủ quan, duy ý chí.
Ngoài ra, nghiên cứu về cách thức vận động, phát triển của sự vật theo quan điểm duy vật biện chứng còn giúp chúng ta tự hoàn thiện suy nghĩ, lập luận của riêng mình, không quy kết hồ đồ; trái lại luôn xem xét sự việc trong một mối quan hệ cụ thể, có tính biện chứng cao. Không quá chú trọng vào một đặc tính nào hay xem nhẹ một đặc tính nào của sự vật, hiện tượng.Luôn hướng đến cái tổng thể trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa thống nhất giữa các mặt đối lập.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Cách thức vận động phát triển theo quan điểm duy vật biện chứng Giá trị thực tiễn
Thuật ngữ “Biện chứng” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là Dialektica, có nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận. Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ lập luận của mình. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức đúng thì không thể có mâu thuẫn trong tri thức đó, và quá trình đi tới chân lý là quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong lập luận.
Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được dung đối lập với “siêu hình”. Đó là lý luận, đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau,ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng. Phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật cá biệt, mà còn thấy mối liên hệ với nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật, mà còn thấy sự hình thành và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy “cây” mà còn thấy cả “rừng”. Theo Ph.Ăngghen, phương pháp biện chứng “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, trong sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”.
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
Phép biện chứng duy vật:
Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là là khoa học về sự liên hệ phổ biến” và “Phép biện chứng là môn khoa học nghiên cứu về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của loài người và tư duy” V.I Lenin viết ”Phép biện chứng, tức là học thuyết của sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy triết học; là phương pháp tư duy khác về chất so với các phương pháp tư duy trước đó; là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc trong sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác. Theo Ph.Ăngghen, “ Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thong qua những mặt đối lập, tức là những mặt thong qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng từ mặt này đến mặt kia, tương tự với hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy quy định nội dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là những nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng là sự cụ thể hóa các nguyên lý trên. Nghiên cứu và làm sáng tỏ các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật cơ bản, đó là nhiệm vụ của phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen nhấn mạnh ”Vậy là từ trong lịch sử của tự nhiên và lịch sử của xã hội loài người mà người ta đã rút ra được các quy luật của biện chứng. Những quy luật không phải là cái gì khác ngoài những quy luật chung nhất của giai đoạn phát triển lịch sử ấy, cũng như là bản thân của tư duy”
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dung để khái quát mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau thế nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, không nêntuyệt đối hóa mối lien hệ nào và cũng không nên tách rời mối lien hệ này khỏi mối liên hệ khác bởi trên thực tế, các mối liên hệ còn phải được nghiên cứu cụ thể trong biến đổi và phát triển của chúng.
Nghuyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới bằng những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn trong thế giới khách quan,tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có nhiều hình thức, vai trò khác nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nguyên lý về sự phát triển :
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường xoáy ốc, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùt tương đối trong sự phát triển.
Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới cao hơn, phức tạp hơn; làm cho cơ cấu tổ chức, cách vận động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển có tính khách quan, phổ biến rất đa dạng. Từ nguyên lý phát triển, con người có thể rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn.
Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Các mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng được phép duy vật biện chứng khái quát thành các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản chất - hiện tượng,nguyên nhân - kết quả, khả năng – hiện thực, nội dung – hình thức…Chúng được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội. Các phạm trù cái riêng - cái chung - cái đơn nhất, tất nhiên – ngẫu nhiên, bản chất – hiện tượng là cơ sở của phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để từ đó nhận thức toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các phạm trù nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở phương pháp luận để chỉ ra mối liên hệ và phát triển giữa các sự vật, hiện tượng là một quá trình. Các phạm trù nội dung - hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của phương pháp nhận thức và thực tiễn.
Cái riêng , cái chung và cái đơn nhất:
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh các sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá trình so sánh giữa các sự vật, hiện tượng này với các sự vật, hiện tượng khác,; phân biệt chỗ giống nhau và khác nhau giữa chúng, nhận thức đi đến chỗ phân biệt cái riêng-cái chung. Cái riêng là phạm trù dung để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định và cái đơn nhất. Cái chung là phạm trù dung để chỉ những mặt, những thuộc tính lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng. Cái đơn nhấtvlà phạm trù dung để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Giữa cái riêng, cái chung, và cái đơn nhất có mối liên hệ biên chứng với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng; ngược lại, cái riêngchỉ tồn tại trong mối lien hệ với cái chung, bao hàm cái chung; cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung cà cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng; cái đơn nhất và cái riêng có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. V.I Lenin viết: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung, bất cứ cái chung nào cũng bao quát một cách đại khái tất cả cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung…. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác.”
Nguyên nhân và kết quả:
Nhận thức về sự qua lại giữa các mặt, các yếu tố, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật, hiện tượng mới và do vậy phát sinh ra mối liên hệ nhân quả. Nguyên nhân là do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vât, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Giữa nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại quy định lẫn nhau. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên luôn có trước cái kết quả, sau khi xuất hiện, kết quả ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân - kết quả lúc này có tính tương đối. Một sự vật, hiện tượng ở trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân - quả vô tận. Do vậy, nguyên nhân - kết quả bao giờ cũng ở trong mối quan hệ cụ thể.
Tất nhiên và ngẫu nhiên:
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính không một nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng nên phân chia chúng thành những mối liên hệ nhất định, phải xảy ra đúng như thế và các nhóm liên hệ có thể xảy ra,cũng có thể không xảy ra, cũng có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do mối liên hệ cơ bản bên trong của sự vật, hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định; có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này, có thể xuất hiện thế khác.
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thong qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên. Tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên chỉ có thể làm cho sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm, trong hình thức này hay hình thức khác. Sự phân biệt tất nhiên-ngẫu nhiên có tính tương đối, trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau.
Khi một doanh nghệp bắt đầu khởi sự, điều đầu tiên để họ tự tin khi xâm nhập thị trường chính là những lợi thế riêng biệt của doanh nghiệp đó, và đó cũng là cơ sở để họ thành công khi cạnh tranh với các đối thủ khác. Nếu một doanh nghiệp mà không có những cái đơn nhất, cái lợi thế riêng của họ thì doanh nghiệp đó sẽ nhanh chóng bị các đối thủ vượt qua mặt, sẽ không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và sụp đổ. Ngược lại, doanh nghiệp có nhiều cái đơn nhất, chiếm nhiều cái ưu thế trên thị trường thì sẽ trở nên thống lĩnh thị trường trở thành doanh nghiệp độc quyền, hay có sự ảnh hưởng lớn trên thị trường.
Ta tiếp tục xem xét tới cặp phạm trù “khả năng – hiện thực”:
Đây cũng là cơ sở lý luận nòng cốt cho doanh nghiệp trong việc hoạch định các chính sách kinh doanh, hay đề ra các mục tiêu để phấn đấu, dự báo trước những rủi ro và đưa ra biện pháp phòng tránh. Trong hiện thực, thực tế của doanh nghiệp luôn luôn tồn tại những khả năng xảy ra theo cả hai chiều hướng tốt và xấu mà người lãnh đạo cần có tầm nhìn để phán đoán trước : khả năng khi tiếp xúc với những điều kiện nhất định thì sẽ trở thành hiện thực. Vì vậy, nhà lãnh đạo cần xem xét mối liên hệ biện chứng này trong nội tại của công ty, của thị trường để tạo điều kiện cho các khả năng tốt có thể xảy ra, trở thành hiện thực, đồng thời ngăn chặn các khả năng xấu không thể trở thành hiện thực.
Không chỉ riêng trong doanh nghiệp, mà còn trong rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, vấn đề “bản chất – hiện tượng” là vấn đề rất đáng được nghiên cứu kỹ và nắm bắt được những quy luật, cách thức thể hiện của chúng để có được cách hành xử thích hợp cho mỗi sự việc đang xảy ra:
Liệu đó chỉ là hiện tượng hay là bản chất thực của sự việc đó? Trong thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, chắc chắn cũng có không ít những lần rủi ro hay các biến cố xảy đến cho doanh nghiệp nói riêng và cho cả thị trường nói chung, như vậy nhà quản lý cần phân tích mối quan hệ biện chứng giữa những cái hình thức bên ngoài, những hiện tượng đang xảy ra, để xác định xem nội dung bên trong những hiện tượng đó là gì? Điều gì đang thực sự xảy đến? Nếu phân tích đúng và xác định đúng bản chất của sự việc đó, doanh nghiệp sẽ được lợi rất lớn trong việc đón đầu những diễn tiến của thị trường; ngược lại nếu chủ quan, hay không xác định rõ đâu là bản chất - đâu là hiện tượng, thì doanh nghiệp dễ dàng bị nhầm lẫn và hành động sai, không thể làm chủ được tình hình và dễ bị “chết đứng” trong thương trường.
Kết luận:
Tóm lại, khi nghiên cứu về cách thức vận động và phát triển theo quan điểm duy vật biện chứng, ta nhận thấy rằng cách thức vận động đó mang tính quy luật, và chúng ta có thể chia cách thức hoạt động của chúng theo những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chúng tác động qua lại, tương hỗ với nhau, vừa đấu tranh với nhau, nhưng lại thống nhất với nhau trong một chừng mực nào đó. Các sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động không ngừng.
Doanh nghiệp, xét cho cùng thì cũng chỉ là một tổ chức, hoạt động trong xã hội, nên chịu những quy luật của xã hội chi phối. Do vậy, việc ứng dụng, hay nói đúng hơn là tuân theo cách thức hoạt động của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên là một việc rất cần thiết để có thể tồn tại và phát triển cùng với xã hội. Nắm bắt được những quy luật của tự nhiên, bằng phép phủ định biện chứng, doanh nghiệp có thể chủ động tìm ra cách thức để hoàn thiện bộ máy của mình, tìm ra hướng đi đúng cho doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích các sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh. Nếu đi sâu vào phân tích từng vấn đề theo giác độ của triết học duy vật biện chứng, chúng ta sẽ khám phá ra những khía cạnh khác của doanh nghiệp, mà bình thường có lẽ chúng ta sẽ không thể nghĩ tới những vấn đề như vậy, vì bản chất con người thường hay tuyệt đối hóa những sự việc họ đánh giá là đúng, đánh giá là tốt và hành động theo những suy nghĩ chủ quan, duy ý chí.
Ngoài ra, nghiên cứu về cách thức vận động, phát triển của sự vật theo quan điểm duy vật biện chứng còn giúp chúng ta tự hoàn thiện suy nghĩ, lập luận của riêng mình, không quy kết hồ đồ; trái lại luôn xem xét sự việc trong một mối quan hệ cụ thể, có tính biện chứng cao. Không quá chú trọng vào một đặc tính nào hay xem nhẹ một đặc tính nào của sự vật, hiện tượng.Luôn hướng đến cái tổng thể trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa thống nhất giữa các mặt đối lập.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: quy luật nào chỉ ra cách thức vận động phát triển của sự vật hiện tượng, liên hệ thực tiễn quy luật chỉ ra cách thức phát triển của sự vâtj, hiện tượng, tư tưởng biện chứng duy vậy trong giới tự nhiên xảy ra ở đâu, quan điểm phát triển trong thực tiễn, Liên hệ thực tế quan điểm phát triển trong phép biện chứng duy vật, Nguồn gốc vận động theo quan điểm duy vật biện chứng, quy luật nào chỉ ra cách thức, phương thức vận động phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới, phép biện chứng duy vật về cách tức vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng, theo quan điểm duy vật biện chứng hình thức của sự phát triển là hình xoáy ốc
Last edited by a moderator: