[email protected]
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Mục lục
I. Tổng quan: 3
II. Thực trạng pháp luật về lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa: 5
III. Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành: 8
1. Cần thiết phải có sự can thiệp cần thiết của chính quyền không: 8
2. Chính sách có cần thiết phải thể hiện bằng luật không: 8
3. Có cơ sở pháp luật và thực tiễn chắc chắn không: 9
4. Giảm thiểu tác động lệch lạc tới thị trường: 9
5. Khuyến khích cạnh tranh: 10
6. Mang lại lợi ích nhiều hơn chi phí: 11
7. Có được xây dựng theo quy trình minh bạch, đảm bảo cơ hội bày tỏ quan điểm của các bên liên quan không: 12
8. Cân nhắc thiết chế thực thi: 12
9. Hình thức thể hiện và ngôn ngữ: 14
III. Kết luận, kiến nghị: 15
I. Tổng quan:
Ngày nay, với sự tiến bộ không ngừng của khoa học, kỹ thuật, đời sống kinh tế - xã hội phát triển với một tốc độ chóng mặt, đòi hỏi các Nhà nước luôn luôn vận động với tốc độ cao nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của xã hội cũng như thực hiện tốt các chức năng của mình. Theo xu thế chung, hầu hết các quốc gia trên thế giới đang hướng đến xây dựng chế độ nhà nước pháp quyền thượng tôn pháp luật, xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu quả, giảm dần chức năng quản lý nhà nước có tính chất cai trị sang chức năng quản lý nhà nước có tính chất phục vụ để cung ứng dịch vụ công cho xã hội, cho các tổ chức và công dân, vừa đảm bảo quyền lợi của các đối tượng trong xã hội, vừa không kìm hãm sự phát triển của họ, đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân được thực thi đầy đủ và đúng luật. Việt Nam cũng đang trong quá trình này.
Tuy nhiên, trong quá trình vừa mở rộng phạm vi chức năng vừa tăng cường hiệu quả quản lý đối với từng chức năng, Việt Nam hiện đang vấp phải những trục trặc làm giảm sức mạnh của nhà nước trong các chức năng thiết yếu và do đó làm suy giảm hiệu quả quản lý của nhà nước. Và cùng với quá trình chuyển đổi, những vấn đề mới phát sinh và sự điều chỉnh lại cơ cấu, thể chế đã đặt ra thách thức cho Việt Nam rằng nên chăng phải quản lý tất cả các lĩnh vực, các vấn đề phát sinh; hay là giảm phạm vi và tăng cường sức mạnh ở những chức năng thiết yếu, cơ bản.
Theo chúng tôi, Việt Nam trước hết nên tập trung thực hiện thật tốt những chức năng thiết yếu của một nhà nước, và một khi đã có một thể chế mạnh, phản ứng tức thì và hiệu quả đối với chức năng cơ bản thì sẽ tính đến việc mở rộng phạm vi chức năng. Chính vì lẽ đó, cung cấp và bảo đảm phúc lợi cho người dân, trong đó có cung cấp nơi chôn cất người chết là một trong những mãng thiết yếu mà nhà nước cần quan tâm thực hiện.
Bất kỳ người nào, đã là con người thì không ai tránh khỏi quy luật sinh tử, theo suy nghĩ của người dân Việt Nam, sống thì muốn có nơi ăn chốn ở, chết thì muốn có nơi chôn cất. Nhu cầu được an táng là một nhu cầu tất yếu của mỗi người dân và do vậy vấn đề xác định đất để làm nơi chôn cất (còn gọi là nghĩa trang, nghĩa địa) có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống của người dân Việt Nam.
Có thể thấy rằng đất làm nơi chôn cất là loại đất đặc biệt, có lẽ đã xuất hiện từ rất lâu và việc quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa cũng rất đặc biệt, gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng dân tộc và dòng họ.
Theo quy định của pháp luật đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý nên việc xác định đất để xây dựng nghĩa trang, nghĩa địa là trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Hơn nữa, đất nghĩa trang, nghĩa địa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân, nó là một loại hàng hóa đặc biệt phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân theo phong tục tập quán, truyền thống sinh hoạt cộng đồng xã hội trong việc an táng cho người chết. Do vậy, đất nghĩa trang, nghĩa địa là một hàng hóa, dịch vụ công mà Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp hay ủy nhiệm cho các tổ chức phi nhà nước cung cấp cho xã hội để phục vụ nhu cầu tối cần thiết của người dân.
Nhưng thực tế, đối với trách nhiệm này, trong một thời gian dài chưa được Nhà nước quan tâm đúng mức, chưa cung cấp đầy đủ hàng hóa và dịch vụ công hay tạo lập thị trường điều tiết, kiểm soát việc cung ứng các dịch vụ này để đáp ứng nhu cầu tối cần thiết của người dân và của cộng đồng. Từ đó đã dẫn đến tình trạng lộn xộn, mất trật tự trong lĩnh vực này, một số nơi việc chôn cất người chết diễn ra tự phát, không theo quy hoạch sử dụng đất và không thể kiểm soát được, cá biệt ở những thành phố lớn do cung không đủ cầu về đất nghĩa trang, nghĩa địa nên diễn ra tình trạng mua bán đất nghĩa trang, nghĩa địa, đẩy giá đất nghĩa trang lên gần tương đương giá đất ở, làm cho các hộ cùng kiệt khó lòng tiếp cận loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu này, gây mất công bằng, ổn định xã hội trong việc thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ công do Nhà nước cung cấp.
Từ những nguyên nhân nêu trên, quản lý đất chôn người chết đặt trong mối quan hệ cung ứng dịch vụ công của nhà nước đối với việc an táng công dân của mình khi chết đi rõ ràng là cần thiết, và cần có chính sách để điều chỉnh. Do đó nhóm chọn đề tài “Đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa” để nghiên cứu, đánh giá một lĩnh vực pháp luật chuyên biệt, cụ thể, qua đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật.
Bố cục của đề tài gồm các phần sau:
- Tổng quan
- Thực trạng pháp luật
- Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực nghiên cứu
- Kết luận, kiến nghị.
II. Thực trạng pháp luật về lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa:
Mặc dù là một dịch vụ không thể thiếu của người dân, nhưng trong thời gian dài nhà nước hoàn toàn không có quy định nào để điều chỉnh hay không có chính sách nào được ban hành nhằm thực thi tốt chức năng của nhà nước. Các quy định của pháp luật về lĩnh vực này trong một thời gian rất dài hầu như còn bỏ ngõ.
Đất nghĩa trang, nghĩa địa đã có trên thực tế từ rất lâu, nhưng chính thức thể hiện trong quy định pháp luật thành văn từ khi nào thì nhóm chưa có thông tin chính xác. Nếu tính từ sau khi đất nước thống nhất (1975), loại đất nghĩa địa đã được thể hiện trong bản đồ địa chính lập theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của chính phủ, nhưng chỉ đến Luật Đất đai năm 1987 tại Điều 36 và 43 mới có sử dụng thuật ngữ đất nghĩa địa, tuy nhiên chỉ xác định là một trong những loại đất chuyên dùng chứ không có thêm quy định cụ thể nào.
Luật Đất đai 1993 và các lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1998 và năm 2001 vẫn chỉ có quy định chung về loại đất và nguyên tắc quy hoạch đất nghĩa địa (phải được quy hoạch thành khu tập trung, xa dân cư, thuận tiện cho việc chôn cất, thăm viếng, hợp vệ sinh và tiết kiệm đất) mà vẫn không có định thêm được nội dung gì mới.
Từ năm 1987 đến năm 2003 các cơ quan trung ương không có hướng dẫn nào điều chỉnh việc sử dụng đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, ngoại trừ một số hướng dẫn của Tổng cục Địa chính về các kỹ thuật đo đạc, lập bản đồ địa chính, hướng dẫn ghi ký hiệu loại đất trên bản đồ đối với các trường hợp có nghĩa trang, nghĩa địa trên thực tế khi đo vẽ.
Cho đến Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực ngày 01/7/2003 mới quy định thêm một số nội dung cơ bản nhằm xác định chế độ sử dụng loại đất này như:
- Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa là loại đất phi nông nghiệp, thời hạn sử dụng ổn định, lâu dài (nghĩa là không thuộc loại đất được giao có thời hạn);
- Là loại đất được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất;
- Khi thu hồi đất nghĩa trang, nghĩa địa nhà nước không bồi thường về đất.
- Về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung, trong đó có đất làm nghĩa trang, nghĩa địa nói riêng được Luật Đất đai năm 2003 quy định cứ 5 năm 1 lần, các địa phương lập và trình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trình lên cấp trên để phê duyệt nhằm làm căn cứ thực hiện việc quản lý đất đai. Có 3 cấp phê duyệt theo trình tự như sau: huyện phê duyệt cho xã, tỉnh phê duyệt cho huyện, chính phủ phê duyệt cho tỉnh. Tuy nhiên hiệu lực của quy hoạch không cao, trên thực tế rất nhiều địa phương không đạt được các chỉ tiêu hay vượt quá các chỉ tiêu đã lập tức trình cấp trên phê duyệt điều chỉnh, và điều này diễn ra khá dễ dàng. Từ đó làm cho tính kỷ luật trong thực hiện quy hoạch về đất nghĩa trang, nghĩa địa là kém.
Theo số liệu thống kê, kiểm kê đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của cả nước, quỹ đất dành cho phát triển nghĩa trang, nghĩa địa của các vùng cụ thể như sau: (nguồn: Vũ Văn Kiên - Vụ Đăng ký và Thống kê đất đai - Bộ TN-MT)
Tên vùng Diện tích (ha) Cơ cấu trong đất chuyên dùng (%) Bình quân trên đầu người (m2)
1. Vùng Trung du MNBB 15.422 3,72 10,62
2. Vùng Đồng bằng Bắc Bộ 12.043 4,99 7,58
3. Vùng Bắc Trung Bộ 28.916 9,01 27,07
4. Vùng Duyên hải NTB 20.940 6,12 23,26
5. Vùng Tây Nguyên 4.791 1,99 8,49
6. Vùng Đông Nam Bộ 3.773 1,26 2,97
7. Vùng Đồng bằng SCL 6.402 2,21 3,56
Cả nước 92.287 4,30 10,68
Tuy nhiên hiện chưa có số liệu chính thức về việc có bao nhiên diện tích trong quy hoạch nêu trên được sử dụng.
Đến ngày 23/5/2008, Chính phủ mới có Nghị định số 35/2008/NĐ-CP quy định về các hoạt động xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang trên lãnh thổ Việt Nam (nghĩa trang liệt sỹ và nghĩa trang quốc gia không phải là đối tượng điều chỉnh). Đây là văn bản đầu tiên có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa. Nghị định này, do đó, có nhiều quy định mới và cụ thể về dịch vụ an táng làm rõ hơn công tác quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa. Ngoài việc quy định về trách nhiệm, thẩm quyền của các cấp chính quyền trực tiếp thực hiện cung ứng hàng hóa dịch vụ công đất nghĩa trang, nghĩa địa cho người dân, Chính phủ còn quy định việc xây dựng và khai thác nghĩa trang chính thức là một ngành kinh doanh dịch vụ, được khuyến khích tham gia, xã hội hóa từ các cá nhân và doanh nghiệp nhân tham gia đầu tư xây dựng nghĩa trang và khai thác kinh doanh dịch vụ và nhiều ưu đãi đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, còn có các quy định về tiêu chuẩn xây dựng và quản lý môi trường đối với nghĩa trang, nghĩa địa:
- Bộ Xây dựng ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4449:1987 Quy hoạch xây dựng, tiêu chuẩn thiết kế nghĩa trang. Đến năm 2008 thay thế bằng Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7956: 2008 - Nghĩa trang đô thị, Tiêu chuẩn thiết kế.
Theo đó khoảng cách thích hợp khi lựa chọn nghĩa trang đô thị:
Như vậy ở đây có khiếm khuyết trong việc triển khai thực thi đến các địa phương. Quy định tại Nghị định 35 năm 2008 không mang lại được sự thống nhất về khung ban hành của các địa phương, không quy định trách nhiệm thực thi trong hạn định về thời gian nhằm đảm báo chính sách được triển khai đều khắp trên phạm vi cả nước. Cũng do thiết chế thực thi là chưa bảo đảm nên kể từ sau khi có Nghị định 35 đến nay vẫn còn hiện tượng mua bán đất nền mộ tại các đô thị lớn, và rất nhiều địa phương chưa ban hành quy chế của mình.
9. Hình thức thể hiện và ngôn ngữ:
Nghị định 35 cơ bản đảm bảo hình thức thể hiện và ngôn ngữ diễn đạt. Tuy nhiên ở phạm vi điều chỉnh có vấn đề là Nghị định không điều chỉnh nghĩa trang liệt sĩ và nghĩa trang quốc gia, nhưng vẫn đưa 02 nội dung này vào định nghĩa và phần quản lý nhà nước là chưa hợp lý. Ngoài ra, như đề cập ở trên, nội dung cấm mua bán nền đất mộ thể hiện không rõ ràng.
III. Kết luận, kiến nghị:
Từ những quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa, sau khi sử dụng các tiêu chí tại phần II để phân tích rõ những hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực, nhóm nghiên cứu đi đến kết luận rằng:
Nghị định 35 năm 2008 ban hành đã ghi nhận và giải quyết được cơ bản vấn đề trách nhiệm cung cấp dịch vụ công thiết yếu của người dân, đó là dịch vụ an táng, trong đó có quản lý đất đai dùng cho việc an táng. Cùng với các quy định pháp luật liên quan như Luật Đất đai năm 2003, các quy định của Bộ Xây dựng, Nghị định 53 là thiết lập khung pháp lý khá tốt cho việc cung ứng dịch vụ an táng và quản lý nhà nước đối với đất nghĩa trang, nghĩa địa, góp phần sửa chữa các thất bại thị trường và đảm bảo dịch vụ công cho người dân.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần đánh giá, do thiết chế thực thi chưa tốt cùng với một số quy định còn chưa rõ có thể gây tăng chi phí giao dịch cho các bên, và ảnh hưởng đến quỹ đất, được xem là tài nguyên thiết yếu của quốc gia, nhóm đề xuất một số nội dung sau nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này:
1. Hình thức hoàn thiện pháp luật:
Nhóm đề xuất cần ban hành một Nghị định nhằm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 35 năm 2008 của chính phủ. Đồng thời ban hành một Nghị định riêng quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nghĩa trang, nghĩa địa.
2. Các nội dung cần hoàn thiện:
- Ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nghĩa trang, nghĩa địa.
- Xây dựng quy chế mẫu về xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang với khung nhất định về nội dung buộc Ủy ban nhân dân các cấp khi ban hành quy chế trên địa bàn phải đảm bảo khung nội dung cơ bản này. Điều này nhằm đảm bảo tính thống nhất đối với những vấn đề cơ bản, triển khai đồng bộ.
- Bổ sung quy định cấm việc chuyển mục đích sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa đã được nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất cho các tổ chức tư nhân xây dựng nghĩa trang, ngoại trừ trường hợp nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các mục đích an ninh quốc phòng, công cộng theo quy định pháp luật.
- Bổ sung điều khoản nêu rõ: cấm việc mua bán, chuyển nhượng nền đất mộ trong nghĩa trang, nghĩa địa.
- Bỏ quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy chế hoạt động và phương án kinh doanh đối với các nghĩa trang tư nhân, chỉ nên quy định các doanh nghiệp trước khi hoạt động phải gửi quy chế hoạt động và phương án kinh doanh đã được doanh nghiệp phê duyệt cho cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn là đủ. Và các cơ quan chức năng cần phát huy công tác hậu kiểm để xử phạt theo quy định pháp luật./.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Mục lục
I. Tổng quan: 3
II. Thực trạng pháp luật về lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa: 5
III. Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành: 8
1. Cần thiết phải có sự can thiệp cần thiết của chính quyền không: 8
2. Chính sách có cần thiết phải thể hiện bằng luật không: 8
3. Có cơ sở pháp luật và thực tiễn chắc chắn không: 9
4. Giảm thiểu tác động lệch lạc tới thị trường: 9
5. Khuyến khích cạnh tranh: 10
6. Mang lại lợi ích nhiều hơn chi phí: 11
7. Có được xây dựng theo quy trình minh bạch, đảm bảo cơ hội bày tỏ quan điểm của các bên liên quan không: 12
8. Cân nhắc thiết chế thực thi: 12
9. Hình thức thể hiện và ngôn ngữ: 14
III. Kết luận, kiến nghị: 15
I. Tổng quan:
Ngày nay, với sự tiến bộ không ngừng của khoa học, kỹ thuật, đời sống kinh tế - xã hội phát triển với một tốc độ chóng mặt, đòi hỏi các Nhà nước luôn luôn vận động với tốc độ cao nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của xã hội cũng như thực hiện tốt các chức năng của mình. Theo xu thế chung, hầu hết các quốc gia trên thế giới đang hướng đến xây dựng chế độ nhà nước pháp quyền thượng tôn pháp luật, xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu quả, giảm dần chức năng quản lý nhà nước có tính chất cai trị sang chức năng quản lý nhà nước có tính chất phục vụ để cung ứng dịch vụ công cho xã hội, cho các tổ chức và công dân, vừa đảm bảo quyền lợi của các đối tượng trong xã hội, vừa không kìm hãm sự phát triển của họ, đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân được thực thi đầy đủ và đúng luật. Việt Nam cũng đang trong quá trình này.
Tuy nhiên, trong quá trình vừa mở rộng phạm vi chức năng vừa tăng cường hiệu quả quản lý đối với từng chức năng, Việt Nam hiện đang vấp phải những trục trặc làm giảm sức mạnh của nhà nước trong các chức năng thiết yếu và do đó làm suy giảm hiệu quả quản lý của nhà nước. Và cùng với quá trình chuyển đổi, những vấn đề mới phát sinh và sự điều chỉnh lại cơ cấu, thể chế đã đặt ra thách thức cho Việt Nam rằng nên chăng phải quản lý tất cả các lĩnh vực, các vấn đề phát sinh; hay là giảm phạm vi và tăng cường sức mạnh ở những chức năng thiết yếu, cơ bản.
Theo chúng tôi, Việt Nam trước hết nên tập trung thực hiện thật tốt những chức năng thiết yếu của một nhà nước, và một khi đã có một thể chế mạnh, phản ứng tức thì và hiệu quả đối với chức năng cơ bản thì sẽ tính đến việc mở rộng phạm vi chức năng. Chính vì lẽ đó, cung cấp và bảo đảm phúc lợi cho người dân, trong đó có cung cấp nơi chôn cất người chết là một trong những mãng thiết yếu mà nhà nước cần quan tâm thực hiện.
Bất kỳ người nào, đã là con người thì không ai tránh khỏi quy luật sinh tử, theo suy nghĩ của người dân Việt Nam, sống thì muốn có nơi ăn chốn ở, chết thì muốn có nơi chôn cất. Nhu cầu được an táng là một nhu cầu tất yếu của mỗi người dân và do vậy vấn đề xác định đất để làm nơi chôn cất (còn gọi là nghĩa trang, nghĩa địa) có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống của người dân Việt Nam.
Có thể thấy rằng đất làm nơi chôn cất là loại đất đặc biệt, có lẽ đã xuất hiện từ rất lâu và việc quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa cũng rất đặc biệt, gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng dân tộc và dòng họ.
Theo quy định của pháp luật đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý nên việc xác định đất để xây dựng nghĩa trang, nghĩa địa là trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Hơn nữa, đất nghĩa trang, nghĩa địa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân, nó là một loại hàng hóa đặc biệt phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân theo phong tục tập quán, truyền thống sinh hoạt cộng đồng xã hội trong việc an táng cho người chết. Do vậy, đất nghĩa trang, nghĩa địa là một hàng hóa, dịch vụ công mà Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp hay ủy nhiệm cho các tổ chức phi nhà nước cung cấp cho xã hội để phục vụ nhu cầu tối cần thiết của người dân.
Nhưng thực tế, đối với trách nhiệm này, trong một thời gian dài chưa được Nhà nước quan tâm đúng mức, chưa cung cấp đầy đủ hàng hóa và dịch vụ công hay tạo lập thị trường điều tiết, kiểm soát việc cung ứng các dịch vụ này để đáp ứng nhu cầu tối cần thiết của người dân và của cộng đồng. Từ đó đã dẫn đến tình trạng lộn xộn, mất trật tự trong lĩnh vực này, một số nơi việc chôn cất người chết diễn ra tự phát, không theo quy hoạch sử dụng đất và không thể kiểm soát được, cá biệt ở những thành phố lớn do cung không đủ cầu về đất nghĩa trang, nghĩa địa nên diễn ra tình trạng mua bán đất nghĩa trang, nghĩa địa, đẩy giá đất nghĩa trang lên gần tương đương giá đất ở, làm cho các hộ cùng kiệt khó lòng tiếp cận loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu này, gây mất công bằng, ổn định xã hội trong việc thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ công do Nhà nước cung cấp.
Từ những nguyên nhân nêu trên, quản lý đất chôn người chết đặt trong mối quan hệ cung ứng dịch vụ công của nhà nước đối với việc an táng công dân của mình khi chết đi rõ ràng là cần thiết, và cần có chính sách để điều chỉnh. Do đó nhóm chọn đề tài “Đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa” để nghiên cứu, đánh giá một lĩnh vực pháp luật chuyên biệt, cụ thể, qua đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật.
Bố cục của đề tài gồm các phần sau:
- Tổng quan
- Thực trạng pháp luật
- Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực nghiên cứu
- Kết luận, kiến nghị.
II. Thực trạng pháp luật về lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa:
Mặc dù là một dịch vụ không thể thiếu của người dân, nhưng trong thời gian dài nhà nước hoàn toàn không có quy định nào để điều chỉnh hay không có chính sách nào được ban hành nhằm thực thi tốt chức năng của nhà nước. Các quy định của pháp luật về lĩnh vực này trong một thời gian rất dài hầu như còn bỏ ngõ.
Đất nghĩa trang, nghĩa địa đã có trên thực tế từ rất lâu, nhưng chính thức thể hiện trong quy định pháp luật thành văn từ khi nào thì nhóm chưa có thông tin chính xác. Nếu tính từ sau khi đất nước thống nhất (1975), loại đất nghĩa địa đã được thể hiện trong bản đồ địa chính lập theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của chính phủ, nhưng chỉ đến Luật Đất đai năm 1987 tại Điều 36 và 43 mới có sử dụng thuật ngữ đất nghĩa địa, tuy nhiên chỉ xác định là một trong những loại đất chuyên dùng chứ không có thêm quy định cụ thể nào.
Luật Đất đai 1993 và các lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1998 và năm 2001 vẫn chỉ có quy định chung về loại đất và nguyên tắc quy hoạch đất nghĩa địa (phải được quy hoạch thành khu tập trung, xa dân cư, thuận tiện cho việc chôn cất, thăm viếng, hợp vệ sinh và tiết kiệm đất) mà vẫn không có định thêm được nội dung gì mới.
Từ năm 1987 đến năm 2003 các cơ quan trung ương không có hướng dẫn nào điều chỉnh việc sử dụng đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, ngoại trừ một số hướng dẫn của Tổng cục Địa chính về các kỹ thuật đo đạc, lập bản đồ địa chính, hướng dẫn ghi ký hiệu loại đất trên bản đồ đối với các trường hợp có nghĩa trang, nghĩa địa trên thực tế khi đo vẽ.
Cho đến Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực ngày 01/7/2003 mới quy định thêm một số nội dung cơ bản nhằm xác định chế độ sử dụng loại đất này như:
- Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa là loại đất phi nông nghiệp, thời hạn sử dụng ổn định, lâu dài (nghĩa là không thuộc loại đất được giao có thời hạn);
- Là loại đất được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất;
- Khi thu hồi đất nghĩa trang, nghĩa địa nhà nước không bồi thường về đất.
- Về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung, trong đó có đất làm nghĩa trang, nghĩa địa nói riêng được Luật Đất đai năm 2003 quy định cứ 5 năm 1 lần, các địa phương lập và trình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trình lên cấp trên để phê duyệt nhằm làm căn cứ thực hiện việc quản lý đất đai. Có 3 cấp phê duyệt theo trình tự như sau: huyện phê duyệt cho xã, tỉnh phê duyệt cho huyện, chính phủ phê duyệt cho tỉnh. Tuy nhiên hiệu lực của quy hoạch không cao, trên thực tế rất nhiều địa phương không đạt được các chỉ tiêu hay vượt quá các chỉ tiêu đã lập tức trình cấp trên phê duyệt điều chỉnh, và điều này diễn ra khá dễ dàng. Từ đó làm cho tính kỷ luật trong thực hiện quy hoạch về đất nghĩa trang, nghĩa địa là kém.
Theo số liệu thống kê, kiểm kê đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của cả nước, quỹ đất dành cho phát triển nghĩa trang, nghĩa địa của các vùng cụ thể như sau: (nguồn: Vũ Văn Kiên - Vụ Đăng ký và Thống kê đất đai - Bộ TN-MT)
Tên vùng Diện tích (ha) Cơ cấu trong đất chuyên dùng (%) Bình quân trên đầu người (m2)
1. Vùng Trung du MNBB 15.422 3,72 10,62
2. Vùng Đồng bằng Bắc Bộ 12.043 4,99 7,58
3. Vùng Bắc Trung Bộ 28.916 9,01 27,07
4. Vùng Duyên hải NTB 20.940 6,12 23,26
5. Vùng Tây Nguyên 4.791 1,99 8,49
6. Vùng Đông Nam Bộ 3.773 1,26 2,97
7. Vùng Đồng bằng SCL 6.402 2,21 3,56
Cả nước 92.287 4,30 10,68
Tuy nhiên hiện chưa có số liệu chính thức về việc có bao nhiên diện tích trong quy hoạch nêu trên được sử dụng.
Đến ngày 23/5/2008, Chính phủ mới có Nghị định số 35/2008/NĐ-CP quy định về các hoạt động xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang trên lãnh thổ Việt Nam (nghĩa trang liệt sỹ và nghĩa trang quốc gia không phải là đối tượng điều chỉnh). Đây là văn bản đầu tiên có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa. Nghị định này, do đó, có nhiều quy định mới và cụ thể về dịch vụ an táng làm rõ hơn công tác quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa. Ngoài việc quy định về trách nhiệm, thẩm quyền của các cấp chính quyền trực tiếp thực hiện cung ứng hàng hóa dịch vụ công đất nghĩa trang, nghĩa địa cho người dân, Chính phủ còn quy định việc xây dựng và khai thác nghĩa trang chính thức là một ngành kinh doanh dịch vụ, được khuyến khích tham gia, xã hội hóa từ các cá nhân và doanh nghiệp nhân tham gia đầu tư xây dựng nghĩa trang và khai thác kinh doanh dịch vụ và nhiều ưu đãi đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, còn có các quy định về tiêu chuẩn xây dựng và quản lý môi trường đối với nghĩa trang, nghĩa địa:
- Bộ Xây dựng ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4449:1987 Quy hoạch xây dựng, tiêu chuẩn thiết kế nghĩa trang. Đến năm 2008 thay thế bằng Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7956: 2008 - Nghĩa trang đô thị, Tiêu chuẩn thiết kế.
Theo đó khoảng cách thích hợp khi lựa chọn nghĩa trang đô thị:
Như vậy ở đây có khiếm khuyết trong việc triển khai thực thi đến các địa phương. Quy định tại Nghị định 35 năm 2008 không mang lại được sự thống nhất về khung ban hành của các địa phương, không quy định trách nhiệm thực thi trong hạn định về thời gian nhằm đảm báo chính sách được triển khai đều khắp trên phạm vi cả nước. Cũng do thiết chế thực thi là chưa bảo đảm nên kể từ sau khi có Nghị định 35 đến nay vẫn còn hiện tượng mua bán đất nền mộ tại các đô thị lớn, và rất nhiều địa phương chưa ban hành quy chế của mình.
9. Hình thức thể hiện và ngôn ngữ:
Nghị định 35 cơ bản đảm bảo hình thức thể hiện và ngôn ngữ diễn đạt. Tuy nhiên ở phạm vi điều chỉnh có vấn đề là Nghị định không điều chỉnh nghĩa trang liệt sĩ và nghĩa trang quốc gia, nhưng vẫn đưa 02 nội dung này vào định nghĩa và phần quản lý nhà nước là chưa hợp lý. Ngoài ra, như đề cập ở trên, nội dung cấm mua bán nền đất mộ thể hiện không rõ ràng.
III. Kết luận, kiến nghị:
Từ những quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực dịch vụ an táng và quản lý đất nghĩa trang, nghĩa địa, sau khi sử dụng các tiêu chí tại phần II để phân tích rõ những hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực, nhóm nghiên cứu đi đến kết luận rằng:
Nghị định 35 năm 2008 ban hành đã ghi nhận và giải quyết được cơ bản vấn đề trách nhiệm cung cấp dịch vụ công thiết yếu của người dân, đó là dịch vụ an táng, trong đó có quản lý đất đai dùng cho việc an táng. Cùng với các quy định pháp luật liên quan như Luật Đất đai năm 2003, các quy định của Bộ Xây dựng, Nghị định 53 là thiết lập khung pháp lý khá tốt cho việc cung ứng dịch vụ an táng và quản lý nhà nước đối với đất nghĩa trang, nghĩa địa, góp phần sửa chữa các thất bại thị trường và đảm bảo dịch vụ công cho người dân.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần đánh giá, do thiết chế thực thi chưa tốt cùng với một số quy định còn chưa rõ có thể gây tăng chi phí giao dịch cho các bên, và ảnh hưởng đến quỹ đất, được xem là tài nguyên thiết yếu của quốc gia, nhóm đề xuất một số nội dung sau nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này:
1. Hình thức hoàn thiện pháp luật:
Nhóm đề xuất cần ban hành một Nghị định nhằm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 35 năm 2008 của chính phủ. Đồng thời ban hành một Nghị định riêng quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nghĩa trang, nghĩa địa.
2. Các nội dung cần hoàn thiện:
- Ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nghĩa trang, nghĩa địa.
- Xây dựng quy chế mẫu về xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang với khung nhất định về nội dung buộc Ủy ban nhân dân các cấp khi ban hành quy chế trên địa bàn phải đảm bảo khung nội dung cơ bản này. Điều này nhằm đảm bảo tính thống nhất đối với những vấn đề cơ bản, triển khai đồng bộ.
- Bổ sung quy định cấm việc chuyển mục đích sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa đã được nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất cho các tổ chức tư nhân xây dựng nghĩa trang, ngoại trừ trường hợp nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các mục đích an ninh quốc phòng, công cộng theo quy định pháp luật.
- Bổ sung điều khoản nêu rõ: cấm việc mua bán, chuyển nhượng nền đất mộ trong nghĩa trang, nghĩa địa.
- Bỏ quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy chế hoạt động và phương án kinh doanh đối với các nghĩa trang tư nhân, chỉ nên quy định các doanh nghiệp trước khi hoạt động phải gửi quy chế hoạt động và phương án kinh doanh đã được doanh nghiệp phê duyệt cho cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn là đủ. Và các cơ quan chức năng cần phát huy công tác hậu kiểm để xử phạt theo quy định pháp luật./.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: