cutie_fowl
New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
PHẦN MỞ ĐẦU
Người ta thường nói gia đình là nền tảng của một xã hội, một quốc gia, sự bền vững của gia đình làm lên sự lớn mạnh của một quốc gia, một dân tộc. Trong các mối quan hệ trong gia đình thì quan hệ vợ – chồng quyết định hạnh phúc của gia đình, bởi : “từ khi đã có nhân loại là đã có vợ, chồng. Có vợ, chồng thành ra có cha con và anh em ruột thịt. Tình cảm thậm chí trong gia đình chỉ có ở trong ba nơi ấy” – nghĩa là quan hệ vợ – chồng tự thân nó đã là quan hệ nền tảng trong gia đình, quyết định hạnh phúc trong gia đình. Tuy nhiên, tuỳ vào những hoàn cảnh lịch sử nhất định, tuỳ từng trường hợp vào nhân sinh quan và thế giới quan khác nhau mối quan hệ vợ – chồng được coi trọng ở những mức khác nhau, trong bài tiểu luận này chúng tui đi tìm hiểu quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng trong các thời điểm khác nhau, từ truyền thống tới hiện đại. Nhưng ở đây chúng tui không có tham vọng đi mô tả lại toàn bộ quan niệm và sự phát triển của quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng qua các thời kì lịch sử khác nhau, từ truyền thống tới hiện đại tự nó đã quy định những phương pháp luận tìm hiểu khác nhau, đối với quan niệm truyền thống do quan hệ vợ – chồng là những giá trị tinh thần đã qua, điều này không cho phép ngời viết có thể hình dung hết được những giá trị tinh thần đó, ở đây những quan niệm truyền thống đó chỉ có thể tìm hiểu qua ca dao, tục ngữ , thơ văn, còn với những quan niệm hiện đại có thể cho phép người viết hình dung khá đầy đủ những quan niệm về vợ chồng, những quan niệm về vai trò của ngời vợ trong xã hội hiện đại… qua những nguồn tài liệu thơ văn, báo chí, đặc biệt là qua những vấn đề đợc đặt ra của cuộc sống hiện tại…Cũng vì thế mà những vấn đề được đề cập tới trong phần quan niệm truyền thống sẽ không thể phong phú và đa dạng như trong phần hiện đại .
PHẦN NỘI DUNG.
Ranh giới tìm hiểu, phân chia truyền thống và hiện đại được chúng tui lấy mốc là : truyền thống là từ khi nước ta giành đợc độc lập, thoát khỏi sự đô hộ hàng nghìn năm Bắc thuộc, cho tới khi nớc ta tiếp xúc với văn minh phương Tây, những giá trị truyền thống – hệ tư tưởng Nho giáo bị phủ định ( ta có thể lấy cái mốc bãi bỏ thi hương và thi hội ), giai đoạn hiện đại là từ đó cho tới nay. Tìm hiểu quan niệm truyền thống về mối quan hệ vợ – chồng như ở trên đã nói chỉ có thể tìm hiểu qua ca dao, tục ngữ, thơ văn, ở đây đòi hỏi ta phải tìm hiểu qua hai bộ phận cấu thành nền văn học dân tộc đó là văn học dân gian và văn học bác học, bởi hai bộ phận văn học này có lí tởng thẩm mĩ khác nhau; nội dung, tư tưởng khác nhau; chủ thể sáng tạo khác nhau…nên cũng rất khác nhau trong các vấn đề của văn học nói chung, cũng nh khác nhau về sự thể quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng, thậm chí là trái ngược nhau hoàn toàn.
Quan niệm về mối quan hệ vợ chồng trong văn học dân gian
Tìm hiểu quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng trong văn học dân gian, ở đây chúng tui chỉ dừng lại sự thể hiện của quan niệm này trong ca dao, tục ngữ, đây là hai bộ phận trong văn học dân gian thể hiện rõ nhất và đầy đủ nhất quan niệm của nhân dân lao động về vấn đề này.
Nh chúng ta đã biết ca dao, tục ngữ là lời ca tiếng hát hàng ngày của nhân dân lao động , gắn với cuộc sống lao động, gắn với những cảm xúc thôn dã. Đề tài về tình cảm gia đình nói chung, tình yêu nam nữ và tình cảm vợ – chồng nói riêng chiếm một số lợng khá lớn trong kho tàng ca dao, tục ngữ nớc ta, và quan trong hơn nó đã thể hiện đợc nhng quan điểm tích cực của nhân dân lao động về vấn đề này, nó hoàn toàn đối lập lai với quan điểm chính thống. Dới chế độ phong kiến, với những lễ giáo phong kiến hà khắc – tưởng như bóp nghẹt những tình cảm tự nhiên của con ngời: “nam nữ thụ thụ bất thân” “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”…đã khiến cho quan hệ hôn nhân của những ngời thuộc tầng lớp trên – những ngời theo quan điểm chính thống – gò bó và có tính chất giả tạo. Nhưng đối với những người nông dân, đặc biệt là cư dân nông nghiệp lúa nước – giầu tình cảm, trọng tình thì quan hệ hôn nhân rất đợc coi trọng và đề cao. Sau đây chúng tui đi thông kê một số bài ca dao, tục ngữ để thấy rõ điều này.
Lấy chồng từ thuở mời lăm
Chồng chê tui bé chẳng nằm cùng tôi.
Đến năm mời tám, đôi mươi,
tui nằm dới đất, chông lôi lên giường.
Một rằng thơng hai rằng thương ,
Có bốn chân giờng gãy một còn ba.
Ai về nhắn nhủ mẹ cha
Chồng tui nay đã giao hoà với tôi.
Cái bống là cái bống bình,
Thổi cơm nấu nới một mình mồ hôi
Rạng ngày có khách đến chơi,
Cơm ăn rợu uống cho vui lòng chồng,
Rạng ngày ăn uống vừa xong,
Tay nhấc mâm đồng, tay trải chiếu hoa.
Nhịn miệng đãi khách đường xa,
Ấy là của gửi chồng ta ăn đường.
Quả cau nho nho, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Tiền gạo thi của mẹ cha,
Cái nghiên cái bút, thực là của em.
Lỗ mũi mời tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo: “râu rồng trời cho”
Đêm nằm thì gáy o o …
Chồng yêu chồng bảo : “ gáy cho vui nhà”
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo : “ về nhà đỡ cơm”
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo “ hoa thơm rắc đầu”….
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia lia quẹn chầu, vợ chồng quen hơi.
Chồng ta áo rách ta thơng
Chồng ngời áo gấm, xông hơng mặc ngời.
Không thiêng cũng thể bụt nhà
Dẫu khôn, dẫu dại cũng là chồng em.
Thơng ai bằng bằng nỗi thơng con
Nhớ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng.
Lấy chồng lãi được đứa con
Bằng không như đứng trên non một mình
Thơng nhau bất luận giầu cùng kiệt
Dù cho lên ải xuống đèo cũng cam.
Theo nhau cho trọn đạo đời
Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà năm
Lấy chồng cận núi kề sông
Nớc không lo cạn, củi không lo tìm.
Như vậy, qua một số bài ca dao, tục ngữ nói trên chúng ta thấy tình cảm vợ chồng trong quan niệm của dân gian rất đằm thắm, và đa dạng . Tình cảm vợ – chồng cũng gắn với những tệ nạn hôn nhân trong xã hội phong kiến : tảo hôn, với cuộc sống lam lũ, bần hàn của nhân dân lao động…nhưng dới con mắt của nhân dân lao động nó đợc thi vị hoá .
Quan niệm về mối quan hệ vợ chồng trong Nho giáo
Đối lập hoàn toàn với quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng của nhân dân lao động, những nhà nho chân chính có quan niêm về vợ chồng rất khắt khe. Trước khi đi tìm hiểu quan niệm của nhà nho về quan hệ vợ – chồng đợc thể hiện trong thơ văn thời kì phong kiến, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm của Nho giáo về ngời phụ nữ nói chung và quan hệ vợ chồng nói riêng. Trong quan điểm của Nho giáo thì quan hệ vợ chồng không đợc coi trọng, nói cho đùng hơn theo quan điểm Nho giáo thì ngời phụ nữ không đợc coi trọng, họ bị nhiều t tởng phong kiến lên án, miệt thị, còn những nhà nho chân chính cũng không coi trọng quan hệ vợ chồng nói riêng và ngời phụ nữ nói chung. Nh chúng ta đã biết, học thuyết Khổng- Mạnh đợc ra đời vào thời kì Xuân Thu Chiến Quốc – một thời kì đại loạn, thời kì này do sự xuất hiện của quan hệ t hữu làm đảo lộn xã hội nô lệ. Trớc tình cảnh đó Khổng Tử phủ định thời kì “ vua không ra vua, cha không ra cha, con không ra con”. Để lập lại trật tự xã hội cũ, trở về với xã hội thời kì vua Nghiêu - Thuấn, dân Nghiêu - Thuấn, Khổng Tử đã đề ra nhiều biện pháp “Khắc kỉ phục lễ”. Trong đó đối với kẻ sĩ phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, những nguyên tắc có tính cơng lĩnh này đớc đề ra trong “Đại học”. “Đại học” hết sức coi trọng tu thân, cho rằng tu dỡng cá nhân là tiền đề có tính căn bản để giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội : “con ngời muốn trị quốc, trớc hết phải tề gia, con ngời muốn tề gia trớc hết phải tu thân”. Tu thân theo sách Đại học đã nêu rõ là phải từ bỏ dục vọng gây nhiễu loạn đến chính tâm :“Trong người có điều cáu dận, sợ hãi, vui sướng, lo phiền đều không thể đạt đợc chính tâm”. “ Đại học” cũng cho rằng tề gia là tiền đề quan trọng của trị quốc, có nghĩa là muốn trị nước phải trị được nhà : “Nhà mình còn không dạy được thì không thể dậy được ngời khác…”. Như vậy ta thấy Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức về phơng diện đạo đức “ Nho giáo có thể tự hào rằng nó vẫn là học thuyết đầy đủ nhất và có sức bền bỉ theo thời gian, chịu được những thử thách đàng kinh ngạc”, nhưng đồng thời cũng là một học thuyết chính trị, tu luyện đạo đức cũng nhằm mục đích chính trị. Nhưng do quá nhấn mạnh về vấn đề tu dưỡng đạo đức làm chính trị, nên con người Nho giáo không phải là con người tự nhiên với tất cả các lạc thù cá nhân, không coi trọng tư tưởng, tình cảm riêng tư - tình cảm vợ chồng. Con người Nho giáo- với những nhà nho chân chính không coi trọng những lạc thú cá nhân- vợ chồng, coi nhiệm vụ hàng đầu là phải tu thân, vì thế họ không coi trọng ngời phụ nữ nói chung và tình cảm vợ chồng nói riêng. Không những thế , trong xã hội chuyên chế phơng Đông tầng lớp thống trị ( đặc biệt là vua chúa ), luôn sứ dụng những ngừơi phụ nữ có nhan sắc làm công cụ phục vụ cho ham muốn nhục dục và tham vọng của giai cấp thống trị, vì vây nhà nho luôn coi phụ nữ là nguyên nhân gây ra tai hoạ mất nơc . Thực tế lịch sử Trung Quốc và Việt Nam có vô số câu chuyện về những mĩ nhân là công cụ cho các thủ đoạn chính trị, đối tượng của sự tranh đoạt của các thế lực, họ là nguyên nhân gây ra chiến tranh. Vì vây nhà nho luôn coi sắc đẹp của những mĩ nhân là nguy hiểm với sự tồn vong của triều đại, câu thành ngữ “nghiêng nước khuynh thành” là một cách diễn đạt về sự nguy hiểm của ngời phụ nữ dưới con mắt nhà nho.
Như vậy nhà nho chân chính coi phụ nữ là tai hoạ cho quốc gia và gia đình. Tuy quan niệm nh thế nhưng không có nghĩa là nhà nho chân chính không có những phút giây cho thấy cái đa tình của mình và biểu hiện những tình cảm vợ chồng. Sau đây chúng tui thông qua lấy dẫn chứng thơ văn để làm nổi bật cái “đa tình” của nhà nho chân chính với người phụ nữ và thể hiện tình cảm vợ chồng.
Sự đa tình của nhà nho thường đợc thể hiện trong giai đoạn còn trẻ, ở nớc ta hầu hết các nhà nho thời trẻ đều có sự đa tình. Ở đây chúng tui chỉ thông qua tìm hiểu ở hai nhà thơ lớn Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến để có thể thấy được sự đa tình của những nhà nho tài tử. Nguyễn Du thời trẻ học thông minh, có vẻ tài tử tinh nghịch theo kiểu anh đồ xứ nghệ. Lúc trẻ Nguyễn Du duyên dáng, đa tình nhưng muốn kết hôn với ai thì phải theo phép nhà, môn đăng hậu đối, rồi quan niệm chính danh luôn đòi hỏi nhà nho phải cẩn thận trong mọi việc làm, hành động. Nhưng Nguyễn Du cũng cho thấy sự đa tình của mình, ngày còn đi học Nguyến Du theo học một thày đồ bên kia sông, ngày ngày phải đi qua đò sang bên kia sông, nên cậu đã vương mối tình đầu với cô lái đò. Một hôm đi trễ phải chờ lâu cậu bèn làm một bài thơ, nhờ ngời bạn học đa cho cô lái đò:
Ai ơi chèo chống tui sang
Kẻo trời ma trật lỡ làng tui ra
Cơn nhiều qua lại lại mau
Giúp cho nhau nữa để mà…
Từ đó cô lái đò càng tỏ vẻ thân mật hơn, Nguyền Du viết thêm :
Quen nhau nay đã nên thương
Cùng nhau xé mối tơ vơng trữ tình
Cảnh xinh xinh ngời xinh xinh
Trên trời dưới nước giữa mình với ta
Vài năm sau trở lại bến đò xa tìm hỏi, thì đợc biết cô gái đã đi lấy chồng ở nơi xa, Nguyễn Du đã viết bốn câu thơ để kỉ niệm mối tình thơ mộng ấy:
Yêu nhau những muốn gần nhau
Bể sâu trăm trợng tình sâu gấp mời
Vì đâu xa cách đôi nơi
` Bến này còn đó nào ngời năm xa…
Trên đây chỉ là một trong rất nhiều những mối tình thời trẻ của Nguyễn Du. Ta có thể thấy rõ hơn sự đa tinh của Nguyễn Du trong bài thơ ;
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đây gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết cơn mảy chut sơng siu ấy
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
PHẦN MỞ ĐẦU
Người ta thường nói gia đình là nền tảng của một xã hội, một quốc gia, sự bền vững của gia đình làm lên sự lớn mạnh của một quốc gia, một dân tộc. Trong các mối quan hệ trong gia đình thì quan hệ vợ – chồng quyết định hạnh phúc của gia đình, bởi : “từ khi đã có nhân loại là đã có vợ, chồng. Có vợ, chồng thành ra có cha con và anh em ruột thịt. Tình cảm thậm chí trong gia đình chỉ có ở trong ba nơi ấy” – nghĩa là quan hệ vợ – chồng tự thân nó đã là quan hệ nền tảng trong gia đình, quyết định hạnh phúc trong gia đình. Tuy nhiên, tuỳ vào những hoàn cảnh lịch sử nhất định, tuỳ từng trường hợp vào nhân sinh quan và thế giới quan khác nhau mối quan hệ vợ – chồng được coi trọng ở những mức khác nhau, trong bài tiểu luận này chúng tui đi tìm hiểu quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng trong các thời điểm khác nhau, từ truyền thống tới hiện đại. Nhưng ở đây chúng tui không có tham vọng đi mô tả lại toàn bộ quan niệm và sự phát triển của quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng qua các thời kì lịch sử khác nhau, từ truyền thống tới hiện đại tự nó đã quy định những phương pháp luận tìm hiểu khác nhau, đối với quan niệm truyền thống do quan hệ vợ – chồng là những giá trị tinh thần đã qua, điều này không cho phép ngời viết có thể hình dung hết được những giá trị tinh thần đó, ở đây những quan niệm truyền thống đó chỉ có thể tìm hiểu qua ca dao, tục ngữ , thơ văn, còn với những quan niệm hiện đại có thể cho phép người viết hình dung khá đầy đủ những quan niệm về vợ chồng, những quan niệm về vai trò của ngời vợ trong xã hội hiện đại… qua những nguồn tài liệu thơ văn, báo chí, đặc biệt là qua những vấn đề đợc đặt ra của cuộc sống hiện tại…Cũng vì thế mà những vấn đề được đề cập tới trong phần quan niệm truyền thống sẽ không thể phong phú và đa dạng như trong phần hiện đại .
PHẦN NỘI DUNG.
Ranh giới tìm hiểu, phân chia truyền thống và hiện đại được chúng tui lấy mốc là : truyền thống là từ khi nước ta giành đợc độc lập, thoát khỏi sự đô hộ hàng nghìn năm Bắc thuộc, cho tới khi nớc ta tiếp xúc với văn minh phương Tây, những giá trị truyền thống – hệ tư tưởng Nho giáo bị phủ định ( ta có thể lấy cái mốc bãi bỏ thi hương và thi hội ), giai đoạn hiện đại là từ đó cho tới nay. Tìm hiểu quan niệm truyền thống về mối quan hệ vợ – chồng như ở trên đã nói chỉ có thể tìm hiểu qua ca dao, tục ngữ, thơ văn, ở đây đòi hỏi ta phải tìm hiểu qua hai bộ phận cấu thành nền văn học dân tộc đó là văn học dân gian và văn học bác học, bởi hai bộ phận văn học này có lí tởng thẩm mĩ khác nhau; nội dung, tư tưởng khác nhau; chủ thể sáng tạo khác nhau…nên cũng rất khác nhau trong các vấn đề của văn học nói chung, cũng nh khác nhau về sự thể quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng, thậm chí là trái ngược nhau hoàn toàn.
Quan niệm về mối quan hệ vợ chồng trong văn học dân gian
Tìm hiểu quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng trong văn học dân gian, ở đây chúng tui chỉ dừng lại sự thể hiện của quan niệm này trong ca dao, tục ngữ, đây là hai bộ phận trong văn học dân gian thể hiện rõ nhất và đầy đủ nhất quan niệm của nhân dân lao động về vấn đề này.
Nh chúng ta đã biết ca dao, tục ngữ là lời ca tiếng hát hàng ngày của nhân dân lao động , gắn với cuộc sống lao động, gắn với những cảm xúc thôn dã. Đề tài về tình cảm gia đình nói chung, tình yêu nam nữ và tình cảm vợ – chồng nói riêng chiếm một số lợng khá lớn trong kho tàng ca dao, tục ngữ nớc ta, và quan trong hơn nó đã thể hiện đợc nhng quan điểm tích cực của nhân dân lao động về vấn đề này, nó hoàn toàn đối lập lai với quan điểm chính thống. Dới chế độ phong kiến, với những lễ giáo phong kiến hà khắc – tưởng như bóp nghẹt những tình cảm tự nhiên của con ngời: “nam nữ thụ thụ bất thân” “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”…đã khiến cho quan hệ hôn nhân của những ngời thuộc tầng lớp trên – những ngời theo quan điểm chính thống – gò bó và có tính chất giả tạo. Nhưng đối với những người nông dân, đặc biệt là cư dân nông nghiệp lúa nước – giầu tình cảm, trọng tình thì quan hệ hôn nhân rất đợc coi trọng và đề cao. Sau đây chúng tui đi thông kê một số bài ca dao, tục ngữ để thấy rõ điều này.
Lấy chồng từ thuở mời lăm
Chồng chê tui bé chẳng nằm cùng tôi.
Đến năm mời tám, đôi mươi,
tui nằm dới đất, chông lôi lên giường.
Một rằng thơng hai rằng thương ,
Có bốn chân giờng gãy một còn ba.
Ai về nhắn nhủ mẹ cha
Chồng tui nay đã giao hoà với tôi.
Cái bống là cái bống bình,
Thổi cơm nấu nới một mình mồ hôi
Rạng ngày có khách đến chơi,
Cơm ăn rợu uống cho vui lòng chồng,
Rạng ngày ăn uống vừa xong,
Tay nhấc mâm đồng, tay trải chiếu hoa.
Nhịn miệng đãi khách đường xa,
Ấy là của gửi chồng ta ăn đường.
Quả cau nho nho, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Tiền gạo thi của mẹ cha,
Cái nghiên cái bút, thực là của em.
Lỗ mũi mời tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo: “râu rồng trời cho”
Đêm nằm thì gáy o o …
Chồng yêu chồng bảo : “ gáy cho vui nhà”
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo : “ về nhà đỡ cơm”
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo “ hoa thơm rắc đầu”….
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia lia quẹn chầu, vợ chồng quen hơi.
Chồng ta áo rách ta thơng
Chồng ngời áo gấm, xông hơng mặc ngời.
Không thiêng cũng thể bụt nhà
Dẫu khôn, dẫu dại cũng là chồng em.
Thơng ai bằng bằng nỗi thơng con
Nhớ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng.
Lấy chồng lãi được đứa con
Bằng không như đứng trên non một mình
Thơng nhau bất luận giầu cùng kiệt
Dù cho lên ải xuống đèo cũng cam.
Theo nhau cho trọn đạo đời
Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà năm
Lấy chồng cận núi kề sông
Nớc không lo cạn, củi không lo tìm.
Như vậy, qua một số bài ca dao, tục ngữ nói trên chúng ta thấy tình cảm vợ chồng trong quan niệm của dân gian rất đằm thắm, và đa dạng . Tình cảm vợ – chồng cũng gắn với những tệ nạn hôn nhân trong xã hội phong kiến : tảo hôn, với cuộc sống lam lũ, bần hàn của nhân dân lao động…nhưng dới con mắt của nhân dân lao động nó đợc thi vị hoá .
Quan niệm về mối quan hệ vợ chồng trong Nho giáo
Đối lập hoàn toàn với quan niệm về mối quan hệ vợ – chồng của nhân dân lao động, những nhà nho chân chính có quan niêm về vợ chồng rất khắt khe. Trước khi đi tìm hiểu quan niệm của nhà nho về quan hệ vợ – chồng đợc thể hiện trong thơ văn thời kì phong kiến, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm của Nho giáo về ngời phụ nữ nói chung và quan hệ vợ chồng nói riêng. Trong quan điểm của Nho giáo thì quan hệ vợ chồng không đợc coi trọng, nói cho đùng hơn theo quan điểm Nho giáo thì ngời phụ nữ không đợc coi trọng, họ bị nhiều t tởng phong kiến lên án, miệt thị, còn những nhà nho chân chính cũng không coi trọng quan hệ vợ chồng nói riêng và ngời phụ nữ nói chung. Nh chúng ta đã biết, học thuyết Khổng- Mạnh đợc ra đời vào thời kì Xuân Thu Chiến Quốc – một thời kì đại loạn, thời kì này do sự xuất hiện của quan hệ t hữu làm đảo lộn xã hội nô lệ. Trớc tình cảnh đó Khổng Tử phủ định thời kì “ vua không ra vua, cha không ra cha, con không ra con”. Để lập lại trật tự xã hội cũ, trở về với xã hội thời kì vua Nghiêu - Thuấn, dân Nghiêu - Thuấn, Khổng Tử đã đề ra nhiều biện pháp “Khắc kỉ phục lễ”. Trong đó đối với kẻ sĩ phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, những nguyên tắc có tính cơng lĩnh này đớc đề ra trong “Đại học”. “Đại học” hết sức coi trọng tu thân, cho rằng tu dỡng cá nhân là tiền đề có tính căn bản để giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội : “con ngời muốn trị quốc, trớc hết phải tề gia, con ngời muốn tề gia trớc hết phải tu thân”. Tu thân theo sách Đại học đã nêu rõ là phải từ bỏ dục vọng gây nhiễu loạn đến chính tâm :“Trong người có điều cáu dận, sợ hãi, vui sướng, lo phiền đều không thể đạt đợc chính tâm”. “ Đại học” cũng cho rằng tề gia là tiền đề quan trọng của trị quốc, có nghĩa là muốn trị nước phải trị được nhà : “Nhà mình còn không dạy được thì không thể dậy được ngời khác…”. Như vậy ta thấy Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức về phơng diện đạo đức “ Nho giáo có thể tự hào rằng nó vẫn là học thuyết đầy đủ nhất và có sức bền bỉ theo thời gian, chịu được những thử thách đàng kinh ngạc”, nhưng đồng thời cũng là một học thuyết chính trị, tu luyện đạo đức cũng nhằm mục đích chính trị. Nhưng do quá nhấn mạnh về vấn đề tu dưỡng đạo đức làm chính trị, nên con người Nho giáo không phải là con người tự nhiên với tất cả các lạc thù cá nhân, không coi trọng tư tưởng, tình cảm riêng tư - tình cảm vợ chồng. Con người Nho giáo- với những nhà nho chân chính không coi trọng những lạc thú cá nhân- vợ chồng, coi nhiệm vụ hàng đầu là phải tu thân, vì thế họ không coi trọng ngời phụ nữ nói chung và tình cảm vợ chồng nói riêng. Không những thế , trong xã hội chuyên chế phơng Đông tầng lớp thống trị ( đặc biệt là vua chúa ), luôn sứ dụng những ngừơi phụ nữ có nhan sắc làm công cụ phục vụ cho ham muốn nhục dục và tham vọng của giai cấp thống trị, vì vây nhà nho luôn coi phụ nữ là nguyên nhân gây ra tai hoạ mất nơc . Thực tế lịch sử Trung Quốc và Việt Nam có vô số câu chuyện về những mĩ nhân là công cụ cho các thủ đoạn chính trị, đối tượng của sự tranh đoạt của các thế lực, họ là nguyên nhân gây ra chiến tranh. Vì vây nhà nho luôn coi sắc đẹp của những mĩ nhân là nguy hiểm với sự tồn vong của triều đại, câu thành ngữ “nghiêng nước khuynh thành” là một cách diễn đạt về sự nguy hiểm của ngời phụ nữ dưới con mắt nhà nho.
Như vậy nhà nho chân chính coi phụ nữ là tai hoạ cho quốc gia và gia đình. Tuy quan niệm nh thế nhưng không có nghĩa là nhà nho chân chính không có những phút giây cho thấy cái đa tình của mình và biểu hiện những tình cảm vợ chồng. Sau đây chúng tui thông qua lấy dẫn chứng thơ văn để làm nổi bật cái “đa tình” của nhà nho chân chính với người phụ nữ và thể hiện tình cảm vợ chồng.
Sự đa tình của nhà nho thường đợc thể hiện trong giai đoạn còn trẻ, ở nớc ta hầu hết các nhà nho thời trẻ đều có sự đa tình. Ở đây chúng tui chỉ thông qua tìm hiểu ở hai nhà thơ lớn Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến để có thể thấy được sự đa tình của những nhà nho tài tử. Nguyễn Du thời trẻ học thông minh, có vẻ tài tử tinh nghịch theo kiểu anh đồ xứ nghệ. Lúc trẻ Nguyễn Du duyên dáng, đa tình nhưng muốn kết hôn với ai thì phải theo phép nhà, môn đăng hậu đối, rồi quan niệm chính danh luôn đòi hỏi nhà nho phải cẩn thận trong mọi việc làm, hành động. Nhưng Nguyễn Du cũng cho thấy sự đa tình của mình, ngày còn đi học Nguyến Du theo học một thày đồ bên kia sông, ngày ngày phải đi qua đò sang bên kia sông, nên cậu đã vương mối tình đầu với cô lái đò. Một hôm đi trễ phải chờ lâu cậu bèn làm một bài thơ, nhờ ngời bạn học đa cho cô lái đò:
Ai ơi chèo chống tui sang
Kẻo trời ma trật lỡ làng tui ra
Cơn nhiều qua lại lại mau
Giúp cho nhau nữa để mà…
Từ đó cô lái đò càng tỏ vẻ thân mật hơn, Nguyền Du viết thêm :
Quen nhau nay đã nên thương
Cùng nhau xé mối tơ vơng trữ tình
Cảnh xinh xinh ngời xinh xinh
Trên trời dưới nước giữa mình với ta
Vài năm sau trở lại bến đò xa tìm hỏi, thì đợc biết cô gái đã đi lấy chồng ở nơi xa, Nguyễn Du đã viết bốn câu thơ để kỉ niệm mối tình thơ mộng ấy:
Yêu nhau những muốn gần nhau
Bể sâu trăm trợng tình sâu gấp mời
Vì đâu xa cách đôi nơi
` Bến này còn đó nào ngời năm xa…
Trên đây chỉ là một trong rất nhiều những mối tình thời trẻ của Nguyễn Du. Ta có thể thấy rõ hơn sự đa tinh của Nguyễn Du trong bài thơ ;
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đây gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết cơn mảy chut sơng siu ấy

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: