LamHong_River
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC:
ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………………………2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………………………….4
1. Một số vấn đề lý luận………………………………………………………….4
1.1. Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền)…………………………………...........4
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp……………………….5
1.3. Kiện yêu câud bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền)………………………..6
2. Thực trạng……………………………………………………………………..7
3. Đánh giá việc bảo vệ quyền sở hữu bằng cách dân sự - một số giải pháp……………………………………………………………………………..15
3.1. Nhận xét……………………………………………………………………15
3.2. Giải pháp…………………………………………………………………...17
KẾT LUẬN……………………………………………………………………..20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….21
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, quyền sở hữu luôn được ghi nhận là quyền dân sự cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan hệ kinh tế, chi phối chế độ kinh tế trong xã hội quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ bằng nhiều cách khác nhau. Việc áp dụng cách bảo vệ nào tùy thuộc hậu quả của việc xâm hại, tính chất, mức độ của hành vi xâm hại (nghiêm trọng hay không nghiêm trọng, ngay tình hay không ngay tình), yêu cầu của người bị xâm hại. Ở Việt Nam, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua các chế tài hành chính, hình sự và các biện pháp dân sự. Tuy nhiên, mỗi ngành luật bảo vệ quyền sở hữu theo những phương pháp, cách thức phù hợp với chức năng vốn có của nó.
Luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những thể lệ nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân. Trong một số trường hợp Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân hay tổ chức nhất định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định để bảo vê quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác; hay nguời đó phải phục tùng những hạn chế nhất định đối với tài sản của mình hay tự do thân thể nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khác. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ này chính là các cơ quan Nhà nước và trong một số trường hợp nhất định thì Toà án cũng là chủ thể sử dụng các biện pháp hành chính nhằm bảo vệ quyền sở hữu.
Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt tương đương. Việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp hình sự mang tính chất trừng trị và răn đe. Người nào có hành vi xâm phạm đến sở hữu XHCN hay xâm phạm sở hữu của công dân (Điều 133 đến Điều 145 BLHS Việt Nam 1999) thì phải chịu trách nhiệm pháp lý tùy theo mức độ phạm tội. Ví dụ: Phạm tội theo khoản 2 Điều 144 BLHS có thể bị phạt bảy năm tù giam; tội trộm cắp tài sản theo khoản 4 Điều 138 có thể bị tù chung thân…Ngoài ra, người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu còn có thể bị chịu một trong các hình phạt bổ sung như phạt tiền, tịch thu tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hay làm công việc nhất định, quản chế hay cấm cư trú.
Luật dân sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những cách kiện dân sự trước tòa án để chủ sở hữu có thể thông qua đó có thể đòi lại tài sản của mình đang bị người khác chiếm giữ bất hơp pháp; yêu cầu người khác chấm dứt hành vi cản trở hay có quyền yêu cầu ngăn chặn khi chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối vói tài sản; hay chủ sở hữu có thể đòi người khác phải bồi thường thiệt hại về tài sản nếu người đó có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình. Điều 255 BLDS quy định “…Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng các quy định của pháp luật”.
Có thể thấy rằng, mỗi ngành luật đều có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu, nhưng các ngành luật không phải độc lập với nhau mà có sự bổ sung, phối hợp lẫn nhau. Trong thực tế, nhiều khi phải áp dụng cùng lúc những quy phạm của hai hay nhiều ngành luật để điều chỉnh và bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp khi bị xâm phạm.
Tuy nhiên, trong những cách nêu trên, cách dân sự có vai trò quan trọng và mang những đặc điểm riêng. cách này mang ý nghĩa thực tế nhất bởi nó khôi phục lại tình trạng trước khi bị vi phạm về mặt vật chất cho chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Một số vấn đề lý luận.
Quyền sở hữu là vấn đề xương sống của luật dân sự, là tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự về tài sản. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự của các quốc gia trên thế giới đều coi đây là chế định cơ bản cần tập trung quy định, làm cơ sở cho việc quy định các chế định khác như hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế… Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS) đã dành Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về ‘‘Tài sản và quyền sở hữu’’.
Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.
Điều 164 BLDS đã xác nhận:
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
BLDS ghi nhận và phân biệt nhiều cách kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho ta thấy rằng, sự xâm phạm đến quyền sở hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy vấn đề đặt ra là là phải chọn cách nào cho phù hợp với mức độ và các tình tiết của vụ việc.
1.1 . Kiện đòi tài sản (kiện vật quyền).
Kiện đòi tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 BLDS: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy đối với những tài sản được chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì không áp dụng việc đòi lại tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS hay các trường hợp theo quy định tại Điều 257, 258 thì không đòi lại tài sản). ). Tuy nhiên, điều kiện chung cho cách kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 khi chủ sở hữu có đủ các yếu tố sau:
- Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hay theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng, cho, thừa kế theo di chúc…
- Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp.
- Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp.
- Vật là bất động sản hay động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định.
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với viêc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Đây là cách cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 165, BLDS quy định: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hay làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện các quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu của tài sản cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản nếu như có thỏa thuận với chủ sở hữu hay theo quy định của pháp luật (Điều 194 BLDS).
Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này BLDS đã cho phép chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngoại ra, Điều 259 BLDS còn quy định:“Quyền yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó phải chấm dứt hành vi”.
Mục đích chính của cách này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
1.3. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền).
Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều 260 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”. Đây được gọi là cách kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hay bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hay tài sản bị tiêu huỷ… Lúc này chủ sở hữu không lấy lại được tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn cách kiện đòi bồi thường thiệt hại. hay người chiếm hữu hợp pháp bán tài sản cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường giá trị của tài sản, ví dụ như: T mượn xe đạp của H rồi mang đi bán cho một người thứ ba ngay tình, H có quyền kiện T để đòi bồi thường thiệt hại…
“Nếu hành vi gây thiệt hại cho tài sản nằm trong khuôn khổ việc không thực hiện hay thực hiện không đúng một nghĩa vụ trong hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện vi phạm hợp đồng. Nếu hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại cho tài sản người khác cấu thành tội phạm hình sự, chủ sở hữu cũng có thể yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự (bồi thường thiệt hại) trong phiên toà hình sự hay tách ra thành vụ kiện dân sự để giải quyết trong phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng” ( Bảo vệ quyền sở hữu thông qua cách kiện dân sự những ưu điểm và hạn chế so với các cách khác – Th.s NGUYỄN THỊ TUYẾT – Khoa Luật dân sự – Trường Đại học Luật Hà Nội).
2. Thực trạng.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ đi vào xem xét một số vụ án trong thực tiễn, cách giải quyết của tòa án, cũng như những nhận xét của các nhà làm luật.
2.1. Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố H.
Nội dung:
Năm 1944, cụ Vũ Tá M và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971, 1990, 2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông Đào Văn T chiếm giữ. Tháng 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Đ đòi nhà. Gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm 1991 ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27m2 của anh Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T đang sử dụng là 60m2.
Tòa án cấp sơ thẩm xác minh:
+ Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có, nên chưa làm được thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua 60m2 đất ao của cụ Vũ Tá M, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua bán).
+ Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS (Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44 có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá M và vợ là cụ Hoàng Thị N.
Quyết định của tòa án:
- Bản án dân sự sơ thẩm số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ M và cụ N. Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất của ông Vũ ngọc L. Buộc gia đình ông T trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là 60m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25m2) cho ông L. Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T.
- Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án quận Đ Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L.
Nhận xét:
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; phần nhà đất của ông T có hai thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có nhà chưa có căn cứ.
Nhận định của tòa án phúc thẩm có phần khiên cưỡng và không toàn diện. Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hay chưa chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175 cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ M và cụ N. Nội dung công văn của cơ quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T đang sử dụng) là 1 phần của thửa số 42 mang tên cụ M và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175. Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số 18 có diện tích 60,8m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của cấp phúc thẩm không có căn cứ.
Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình tiết về nhà, cần xác minh việc cụ M và cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua (năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá M.
Áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ liên quan đến đất thì áp dụng Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết là không đúng.
Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu cầu của ông L.
2.2. Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” tại Toà án tỉnh Bến Tre.
Nội dung:
Ông Nguyễn Văn Lãnh là chủ sở hữu hai chiếc tàu TG 1986 và BĐ 2539. Ông thuê hai tài công sử dụng tàu đánh bắt tài sản. Khi tàu hoạt động có mua một số nguyên vật liệu của ông Trần Văn Tuấn và Trần Văn Bé. Ông Lãnh cho rằng khoản tiền mua nguyên liệu là do các tài công phải trả vì có thoả thuận miệng giữa ông với tài công về hưởng lợi nhuận và chịu chi phí, nhưng điều này không được các tài công thừa nhận, trong khi ông Lãnh lại ký xác nhận nợ với ông Tuấn và ông Bé. Do việc ông Lãnh không trả nợ cho ông Tuấn, ông Bé nên ngày 8/3/2000 các bên yêu cầu Công an huyện giải quyết và lập biên bản hoà giải với nội dung: Ông Lãnh đưa tàu BĐ 2539 về sửa chữa, để lại tàu TG 1986 cùng nhau thuê tài công tại địa phương để làm ăn khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, hai bên đã không thực hiện thoả thuận này và ngày 18/11/2000 khi ông Lãnh định đưa tàu TG 1986 về thì bị ông Tuấn, ông Bé giữ tàu yêu cầu ông Lãnh thanh toán nợ mới được đưa tàu đi. Sự việc đã không được giải quyết dứt điểm đẫn dến tàu chìm thiệt hại 100%.
Ngày 4/9/2002, ông Lãnh khởi kiện yêu cầu Toà án huyện Ba Tri buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới bồi thường 70% giá trị còn lại của tàu (432.253.000đ x 70% = 302.773.000đ) và tiền mất thu nhập bình quân mỗi tháng 3.000.000đ tính từ tháng 11/2000.
Quyết định của tòa án:
- Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2006/DS-ST ngày 7/8/2006 của Toà án huyện Ba Tri quyết định: Bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Văn Lãnh đối với ông Trần Văn Tuấn, ông Trần Văn Bé. Buộc ông Lãnh phải trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền là 33.790.000đ (Vốn 15.000.000, lãi 20.790.000đ)
- Bản án dân sự phúc thẩm số 21 ngày 18/10/2006 của Tòa án tỉnh Bến Tre quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lãnh, sửa án sơ thẩm, xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lãnh về việc bồi thường số tiền 495.000.000đ trong đó tiền thiệt hại tàu là 375.000.000đ và tiền mất thu nhập là 120.000.000đ (48 tháng x 3.000.000đ). Buộc ông Lãnh trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền 35.790.000đ trong đó tiền vốn là 15.000.000đ, lãi là 20.000.000đ
- Ngày 11/7/2007, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 69/QĐ-KNGĐT-V5 kháng nghị bản án phúc thẩm trên.
- Quyết định giám đốc thẩm số 232/2007/DS-GĐT ngày 24/8/2007 của Toà dân sự Toà án tối cao quyết định: Chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC, huỷ án sơ thẩm, án phúc thẩm, xét xử sơ thẩm lại.
Nhận xét:
Quy định pháp luật: Điều 609 Bộ luật dân sự năm 1995 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” tuy tên điều luật có sửa đổi nhưng nội dung đều thể hiện: Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có lỗi khi thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại đến nhân thân, tài sản của người khác mà gây thiệt hại.. Bản án sơ thẩm quyết định bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Lãnh không xem xét đến trách nhiệm của ông Tuấn, ông Bé đã chiếm giữ tàu không có căn cứ pháp luật. Bản án phúc thẩm buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo lời khai của ông Lãnh mà không xem xét đến lỗi của các bên đối với thiệt hại xẩy ra. Tại biên bản giải quyết ngày 8/3/2000 các bên không thoả thuận về trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tàu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng, định đoạt tài sản đáp ứng nhu cầu của mình nhưng đồng thời có nghĩa vụ tự bảo quản, giữ gìn tài sản của mình. Vấn đề này đã không được Toà án đề cập khi xem xét trách nhiệm của ông Lãnh để xẩy ra thiệt hại. Nguyên tắc chung trong việc xác định trách nhiệm bồi thường được quy định trong Bộ luật dân sự và trong Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại không được hai cấp Tòa án áp dụng khi giải quyết tranh chấp.
Thực tiễn: Ông Lãnh yêu cầu ông Tuấn, ông Bé bồi thường thu nhập bị mất do tàu bị chiếm giữ, không khai thác đánh bắt hải sản như trong điều kiện bình thường. Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Lãnh mà không đề căn cứ xác định thiệt hại đối với thu nhập bị mất được quy định trong Bộ luật dân sự. Hướng dẫn trong Nghị quyết số 01 nói trên chỉ đề cập thu nhập từ lao động trực tiếp của người lao động, mà chưa có hướng dẫn trong trường hợp thu nhập có được từ lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Đó là một số ưu điểm của cách kiện dân sự so với các cách bảo vệ quyền sở hữu khác. Tuy nhiên, cách kiện dân sự cũng mang những hạn chế nhất định, ví dụ trong nhiều trường hợp hiệu quả của các cách dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế rất thấp. Trong các cách dân sự, tự bảo vệ là biện pháp được các chủ thể áp dụng phổ biến nhất nhưng do thiếu tính cưỡng chế và quyền lực nhà nước nên trên thực tế khi có hành vi xâm phạm các chủ thể vẫn phải áp dụng đồng thời các biện pháp khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Ngoài ra hiệu quả của việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự gắn liền với việc thi hành án dân sự nên trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi công tác thi hành án dân sự cũng là một hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu hợp pháp, người chiếm hữu hợp pháp trên thực tế.
3.2. Giải pháp:
3.2.1. Nên cụ thể hoá quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu:
Việc coi chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu kéo theo sự đồng nhất giữa bảo vệ quyền sở hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu trong BLDS hiện hành của chúng ta trong thời gian qua đã có những biểu hiện bất cập. Chế định pháp luật này vô hình trung đã đặt lên vai người đi kiện (nguyên đơn) nghĩa vụ rất nặng nề là họ phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản tranh chấp, trong điều kiện nước ta hiện nay việc này không hề đơn giản, nhất là đối với bất động sản (nhà, đất) không có giấy tờ chứng nhận, mà trong đa số trường hợp, lỗi không phải do người dân mà do chính cơ quan hành chính Nhà nước triển khai chậm. Chính vì tình trạng cung cấp, xác minh, đánh giá chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn mà thời hạn tố tụng bị kéo dài, dẫn đến số lượng án tồn đọng ngày càng tăng, nhiều bản án thiếu khách quan vì không phản ánh đúng bản chất của vụ việc, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo đảm.
Bộ luật dân sự cần có những quy định riêng về bảo vệ quyền chiếm hữu. Sự chiếm hữu cần được suy đoán là chiếm hữu của chủ sở hữu, đó là một nguyên tắc rất quan trọng trong pháp luật của các nước, thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với công dân trong việc thực hiện quyền của mình.
Một vấn đề đặt ra, vậy người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hay không có được pháp luật bảo vệ không? Theo các quy định Bộ luật dân sự hiện hành của Việt Nam thì họ không được bảo vệ. Cách phân loại chiếm hữu có hay không có căn cứ pháp luật là cách phân loại rất riêng của Việt Nam, còn luật dân sự của các nước hầu như không có sự phân biệt như vậy. Pháp luật các nước trên thế giới từ lâu đã thừa nhận nguyên tắc: sự ngay tình bao giờ cũng được suy đoán; người nào viện dẫn sự không ngay tình thì phải có nghĩa vụ chứng minh. Bất luận trong trường hợp nào, người chiếm hữu vẫn có quyền kiện bảo vệ sự chiếm hữu tài sản của mình. Như vậy, kể cả trong trường hợp chiếm hữu không có căn cứ pháp luật (theo cách phân loại riêng của luật dân sự Việt Nam), thì pháp luật vẫn cần bảo vệ quyền lợi của họ. Ví dụ:
A là chủ sở hữu chiếc xe máy, B ăn trộm chiếc xe và bán cho C (C biết rõ chiếc xe là của ăn cắp nhưng vẫn mua). C dùng chiếc xe máy này để đi, rồi lại bị D ăn cắp.
Trong ví dụ trên, C vẫn có quyền kiện D phải trả lại xe cho mình (tất nhiên là C phải có đầy đủ chứng cứ). Tóm lại là pháp luật cần công nhận tình trạng chiếm hữu trước đã, còn việc xác định ai là chủ sở hữu đích thực thì giải quyết trong một vụ kiện khác nếu các bên có yêu cầu. Quy định này rất có tác dụng trong việc bảo vệ sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự trong điều kiện kinh tế thị trường. Đây cũng là cách xử lý trong Bộ luật dân sự của nhiều nước trên thế giới.
3.2.2. Cần có biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh mẽ hơn.
Cho rằng một mặt, vẫn phải bảo vệ chủ sở hữu, nhưng mặt khác cũng phải bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhằm đảm bảo sự ổn định của các quan hệ dân sự tránh gây nhiều xáo trộn, đồng thời nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, nên chăng cần tham khảo quy định của pháp luật các nước điển hình trên thế giới: trong trường hợp tài sản bị chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh mất hay bị lấy cắp, thì có quyền đòi lại vật từ người chiếm hữu ngay tình trong một thời hạn nhất định (có thể cân nhắc quy định từ 2-3 năm kể từ ngày mất), nhưng người này có quyền kiện lại người đã chuyển giao vật cho mình bồi thường thiệt hại.
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật và thiết chế đăng ký tài sản:
Việc đăng ký tài sản rất quan trọng, một mặt là cơ sở để chủ sở hữu bảo vệ quyền lợi của mình và đối kháng với người thứ ba khi có tranh chấp phát sinh; mặt khác tạo điều kiện rất thuận lợi cho Toà án trong việc xác định chứng cứ để xét xử các tranh chấp. Bộ luật dân sự cần đưa ra những nguyên tắc chung về đăng kỳ tài sản, giá trị pháp lý của việc đăng ký… Sau đó, cần ban hành Luật về đăng ký tài sản (hay nếu chưa có điều kiện thì trước mắt cần ban hành Luật về đăng ký bất động sản) như kinh nghiệm của Nhật Bản và nhiều nước trên thế giới, nhằm pháp điển hoá các quy định về đăng ký tài sản còn đang nằm rải rác ở các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hệ thống cơ quan đăng ký tài sản cũng phải được tổ chức và hoạt động có hiệu quả, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính và làm sao phải tạo thuận lợi nhất cho người dân.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn:
Xuất phát từ đặc trưng của bản thân quan hệ pháp luật dân sự, mà mỗi công dân, pháp nhân cần tự mình có những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu sao cho có hiệu quả nhất và tất nhiên là phải trong khuôn khổ của pháp luật. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, thì các bên cần tận dụng tối đa cơ chế hoà giải, dàn xếp với nhau vì cơ chế này có những lợi ích nhất định, đặc biệt trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay
Cần tăng cường công tác phổ biến giáo dục các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu đến người dân, đồng thời hoàn thiện và tăng cường năng lực hoạt động của các thiết chế (Toà án, trọng tài, thi hành án, luật sư, công chứng…) nhằm bảo đảm cho các quy định về bảo vệ quyền sở hữu thực sự đi vào cuộc sống.
Đây là những vấn đề rất lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu và đặc biệt là phải có sự quan tâm của Nhà nước theo lộ trình cụ thể để làm sao thực sự nâng cao được hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn.
KẾT LUẬN:
Pháp luật cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp luật định. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp còn được quyền yêu cầu Toà án, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Quan hệ sở hữu là loại quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ đặc thù, trong đó thể hiện quyền tự định đoạt cao độ của chủ thể. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản là vấn đề tất yếu nhằm bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản một cách có hiệu quả và trọn vẹn nhất
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC:
ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………………………2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………………………….4
1. Một số vấn đề lý luận………………………………………………………….4
1.1. Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền)…………………………………...........4
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp……………………….5
1.3. Kiện yêu câud bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền)………………………..6
2. Thực trạng……………………………………………………………………..7
3. Đánh giá việc bảo vệ quyền sở hữu bằng cách dân sự - một số giải pháp……………………………………………………………………………..15
3.1. Nhận xét……………………………………………………………………15
3.2. Giải pháp…………………………………………………………………...17
KẾT LUẬN……………………………………………………………………..20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….21
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, quyền sở hữu luôn được ghi nhận là quyền dân sự cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan hệ kinh tế, chi phối chế độ kinh tế trong xã hội quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ bằng nhiều cách khác nhau. Việc áp dụng cách bảo vệ nào tùy thuộc hậu quả của việc xâm hại, tính chất, mức độ của hành vi xâm hại (nghiêm trọng hay không nghiêm trọng, ngay tình hay không ngay tình), yêu cầu của người bị xâm hại. Ở Việt Nam, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua các chế tài hành chính, hình sự và các biện pháp dân sự. Tuy nhiên, mỗi ngành luật bảo vệ quyền sở hữu theo những phương pháp, cách thức phù hợp với chức năng vốn có của nó.
Luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những thể lệ nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân. Trong một số trường hợp Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân hay tổ chức nhất định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định để bảo vê quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác; hay nguời đó phải phục tùng những hạn chế nhất định đối với tài sản của mình hay tự do thân thể nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khác. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ này chính là các cơ quan Nhà nước và trong một số trường hợp nhất định thì Toà án cũng là chủ thể sử dụng các biện pháp hành chính nhằm bảo vệ quyền sở hữu.
Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt tương đương. Việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp hình sự mang tính chất trừng trị và răn đe. Người nào có hành vi xâm phạm đến sở hữu XHCN hay xâm phạm sở hữu của công dân (Điều 133 đến Điều 145 BLHS Việt Nam 1999) thì phải chịu trách nhiệm pháp lý tùy theo mức độ phạm tội. Ví dụ: Phạm tội theo khoản 2 Điều 144 BLHS có thể bị phạt bảy năm tù giam; tội trộm cắp tài sản theo khoản 4 Điều 138 có thể bị tù chung thân…Ngoài ra, người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu còn có thể bị chịu một trong các hình phạt bổ sung như phạt tiền, tịch thu tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hay làm công việc nhất định, quản chế hay cấm cư trú.
Luật dân sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những cách kiện dân sự trước tòa án để chủ sở hữu có thể thông qua đó có thể đòi lại tài sản của mình đang bị người khác chiếm giữ bất hơp pháp; yêu cầu người khác chấm dứt hành vi cản trở hay có quyền yêu cầu ngăn chặn khi chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối vói tài sản; hay chủ sở hữu có thể đòi người khác phải bồi thường thiệt hại về tài sản nếu người đó có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình. Điều 255 BLDS quy định “…Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng các quy định của pháp luật”.
Có thể thấy rằng, mỗi ngành luật đều có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu, nhưng các ngành luật không phải độc lập với nhau mà có sự bổ sung, phối hợp lẫn nhau. Trong thực tế, nhiều khi phải áp dụng cùng lúc những quy phạm của hai hay nhiều ngành luật để điều chỉnh và bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp khi bị xâm phạm.
Tuy nhiên, trong những cách nêu trên, cách dân sự có vai trò quan trọng và mang những đặc điểm riêng. cách này mang ý nghĩa thực tế nhất bởi nó khôi phục lại tình trạng trước khi bị vi phạm về mặt vật chất cho chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Một số vấn đề lý luận.
Quyền sở hữu là vấn đề xương sống của luật dân sự, là tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự về tài sản. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự của các quốc gia trên thế giới đều coi đây là chế định cơ bản cần tập trung quy định, làm cơ sở cho việc quy định các chế định khác như hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế… Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS) đã dành Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về ‘‘Tài sản và quyền sở hữu’’.
Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.
Điều 164 BLDS đã xác nhận:
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
BLDS ghi nhận và phân biệt nhiều cách kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho ta thấy rằng, sự xâm phạm đến quyền sở hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy vấn đề đặt ra là là phải chọn cách nào cho phù hợp với mức độ và các tình tiết của vụ việc.
1.1 . Kiện đòi tài sản (kiện vật quyền).
Kiện đòi tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 BLDS: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy đối với những tài sản được chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì không áp dụng việc đòi lại tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS hay các trường hợp theo quy định tại Điều 257, 258 thì không đòi lại tài sản). ). Tuy nhiên, điều kiện chung cho cách kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 khi chủ sở hữu có đủ các yếu tố sau:
- Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hay theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng, cho, thừa kế theo di chúc…
- Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp.
- Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp.
- Vật là bất động sản hay động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định.
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với viêc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Đây là cách cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 165, BLDS quy định: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hay làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện các quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu của tài sản cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản nếu như có thỏa thuận với chủ sở hữu hay theo quy định của pháp luật (Điều 194 BLDS).
Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này BLDS đã cho phép chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngoại ra, Điều 259 BLDS còn quy định:“Quyền yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó phải chấm dứt hành vi”.
Mục đích chính của cách này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
1.3. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền).
Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều 260 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”. Đây được gọi là cách kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hay bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hay tài sản bị tiêu huỷ… Lúc này chủ sở hữu không lấy lại được tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn cách kiện đòi bồi thường thiệt hại. hay người chiếm hữu hợp pháp bán tài sản cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường giá trị của tài sản, ví dụ như: T mượn xe đạp của H rồi mang đi bán cho một người thứ ba ngay tình, H có quyền kiện T để đòi bồi thường thiệt hại…
“Nếu hành vi gây thiệt hại cho tài sản nằm trong khuôn khổ việc không thực hiện hay thực hiện không đúng một nghĩa vụ trong hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện vi phạm hợp đồng. Nếu hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại cho tài sản người khác cấu thành tội phạm hình sự, chủ sở hữu cũng có thể yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự (bồi thường thiệt hại) trong phiên toà hình sự hay tách ra thành vụ kiện dân sự để giải quyết trong phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng” ( Bảo vệ quyền sở hữu thông qua cách kiện dân sự những ưu điểm và hạn chế so với các cách khác – Th.s NGUYỄN THỊ TUYẾT – Khoa Luật dân sự – Trường Đại học Luật Hà Nội).
2. Thực trạng.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ đi vào xem xét một số vụ án trong thực tiễn, cách giải quyết của tòa án, cũng như những nhận xét của các nhà làm luật.
2.1. Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố H.
Nội dung:
Năm 1944, cụ Vũ Tá M và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971, 1990, 2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông Đào Văn T chiếm giữ. Tháng 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Đ đòi nhà. Gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm 1991 ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27m2 của anh Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T đang sử dụng là 60m2.
Tòa án cấp sơ thẩm xác minh:
+ Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có, nên chưa làm được thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua 60m2 đất ao của cụ Vũ Tá M, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua bán).
+ Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS (Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44 có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá M và vợ là cụ Hoàng Thị N.
Quyết định của tòa án:
- Bản án dân sự sơ thẩm số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ M và cụ N. Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất của ông Vũ ngọc L. Buộc gia đình ông T trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là 60m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25m2) cho ông L. Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T.
- Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án quận Đ Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L.
Nhận xét:
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; phần nhà đất của ông T có hai thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có nhà chưa có căn cứ.
Nhận định của tòa án phúc thẩm có phần khiên cưỡng và không toàn diện. Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hay chưa chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175 cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ M và cụ N. Nội dung công văn của cơ quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T đang sử dụng) là 1 phần của thửa số 42 mang tên cụ M và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175. Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số 18 có diện tích 60,8m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của cấp phúc thẩm không có căn cứ.
Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình tiết về nhà, cần xác minh việc cụ M và cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua (năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá M.
Áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ liên quan đến đất thì áp dụng Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết là không đúng.
Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu cầu của ông L.
2.2. Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” tại Toà án tỉnh Bến Tre.
Nội dung:
Ông Nguyễn Văn Lãnh là chủ sở hữu hai chiếc tàu TG 1986 và BĐ 2539. Ông thuê hai tài công sử dụng tàu đánh bắt tài sản. Khi tàu hoạt động có mua một số nguyên vật liệu của ông Trần Văn Tuấn và Trần Văn Bé. Ông Lãnh cho rằng khoản tiền mua nguyên liệu là do các tài công phải trả vì có thoả thuận miệng giữa ông với tài công về hưởng lợi nhuận và chịu chi phí, nhưng điều này không được các tài công thừa nhận, trong khi ông Lãnh lại ký xác nhận nợ với ông Tuấn và ông Bé. Do việc ông Lãnh không trả nợ cho ông Tuấn, ông Bé nên ngày 8/3/2000 các bên yêu cầu Công an huyện giải quyết và lập biên bản hoà giải với nội dung: Ông Lãnh đưa tàu BĐ 2539 về sửa chữa, để lại tàu TG 1986 cùng nhau thuê tài công tại địa phương để làm ăn khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, hai bên đã không thực hiện thoả thuận này và ngày 18/11/2000 khi ông Lãnh định đưa tàu TG 1986 về thì bị ông Tuấn, ông Bé giữ tàu yêu cầu ông Lãnh thanh toán nợ mới được đưa tàu đi. Sự việc đã không được giải quyết dứt điểm đẫn dến tàu chìm thiệt hại 100%.
Ngày 4/9/2002, ông Lãnh khởi kiện yêu cầu Toà án huyện Ba Tri buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới bồi thường 70% giá trị còn lại của tàu (432.253.000đ x 70% = 302.773.000đ) và tiền mất thu nhập bình quân mỗi tháng 3.000.000đ tính từ tháng 11/2000.
Quyết định của tòa án:
- Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2006/DS-ST ngày 7/8/2006 của Toà án huyện Ba Tri quyết định: Bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Văn Lãnh đối với ông Trần Văn Tuấn, ông Trần Văn Bé. Buộc ông Lãnh phải trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền là 33.790.000đ (Vốn 15.000.000, lãi 20.790.000đ)
- Bản án dân sự phúc thẩm số 21 ngày 18/10/2006 của Tòa án tỉnh Bến Tre quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lãnh, sửa án sơ thẩm, xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lãnh về việc bồi thường số tiền 495.000.000đ trong đó tiền thiệt hại tàu là 375.000.000đ và tiền mất thu nhập là 120.000.000đ (48 tháng x 3.000.000đ). Buộc ông Lãnh trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền 35.790.000đ trong đó tiền vốn là 15.000.000đ, lãi là 20.000.000đ
- Ngày 11/7/2007, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 69/QĐ-KNGĐT-V5 kháng nghị bản án phúc thẩm trên.
- Quyết định giám đốc thẩm số 232/2007/DS-GĐT ngày 24/8/2007 của Toà dân sự Toà án tối cao quyết định: Chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC, huỷ án sơ thẩm, án phúc thẩm, xét xử sơ thẩm lại.
Nhận xét:
Quy định pháp luật: Điều 609 Bộ luật dân sự năm 1995 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” tuy tên điều luật có sửa đổi nhưng nội dung đều thể hiện: Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có lỗi khi thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại đến nhân thân, tài sản của người khác mà gây thiệt hại.. Bản án sơ thẩm quyết định bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Lãnh không xem xét đến trách nhiệm của ông Tuấn, ông Bé đã chiếm giữ tàu không có căn cứ pháp luật. Bản án phúc thẩm buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo lời khai của ông Lãnh mà không xem xét đến lỗi của các bên đối với thiệt hại xẩy ra. Tại biên bản giải quyết ngày 8/3/2000 các bên không thoả thuận về trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tàu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng, định đoạt tài sản đáp ứng nhu cầu của mình nhưng đồng thời có nghĩa vụ tự bảo quản, giữ gìn tài sản của mình. Vấn đề này đã không được Toà án đề cập khi xem xét trách nhiệm của ông Lãnh để xẩy ra thiệt hại. Nguyên tắc chung trong việc xác định trách nhiệm bồi thường được quy định trong Bộ luật dân sự và trong Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại không được hai cấp Tòa án áp dụng khi giải quyết tranh chấp.
Thực tiễn: Ông Lãnh yêu cầu ông Tuấn, ông Bé bồi thường thu nhập bị mất do tàu bị chiếm giữ, không khai thác đánh bắt hải sản như trong điều kiện bình thường. Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Lãnh mà không đề căn cứ xác định thiệt hại đối với thu nhập bị mất được quy định trong Bộ luật dân sự. Hướng dẫn trong Nghị quyết số 01 nói trên chỉ đề cập thu nhập từ lao động trực tiếp của người lao động, mà chưa có hướng dẫn trong trường hợp thu nhập có được từ lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Đó là một số ưu điểm của cách kiện dân sự so với các cách bảo vệ quyền sở hữu khác. Tuy nhiên, cách kiện dân sự cũng mang những hạn chế nhất định, ví dụ trong nhiều trường hợp hiệu quả của các cách dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế rất thấp. Trong các cách dân sự, tự bảo vệ là biện pháp được các chủ thể áp dụng phổ biến nhất nhưng do thiếu tính cưỡng chế và quyền lực nhà nước nên trên thực tế khi có hành vi xâm phạm các chủ thể vẫn phải áp dụng đồng thời các biện pháp khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Ngoài ra hiệu quả của việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự gắn liền với việc thi hành án dân sự nên trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi công tác thi hành án dân sự cũng là một hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu hợp pháp, người chiếm hữu hợp pháp trên thực tế.
3.2. Giải pháp:
3.2.1. Nên cụ thể hoá quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu:
Việc coi chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu kéo theo sự đồng nhất giữa bảo vệ quyền sở hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu trong BLDS hiện hành của chúng ta trong thời gian qua đã có những biểu hiện bất cập. Chế định pháp luật này vô hình trung đã đặt lên vai người đi kiện (nguyên đơn) nghĩa vụ rất nặng nề là họ phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản tranh chấp, trong điều kiện nước ta hiện nay việc này không hề đơn giản, nhất là đối với bất động sản (nhà, đất) không có giấy tờ chứng nhận, mà trong đa số trường hợp, lỗi không phải do người dân mà do chính cơ quan hành chính Nhà nước triển khai chậm. Chính vì tình trạng cung cấp, xác minh, đánh giá chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn mà thời hạn tố tụng bị kéo dài, dẫn đến số lượng án tồn đọng ngày càng tăng, nhiều bản án thiếu khách quan vì không phản ánh đúng bản chất của vụ việc, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo đảm.
Bộ luật dân sự cần có những quy định riêng về bảo vệ quyền chiếm hữu. Sự chiếm hữu cần được suy đoán là chiếm hữu của chủ sở hữu, đó là một nguyên tắc rất quan trọng trong pháp luật của các nước, thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với công dân trong việc thực hiện quyền của mình.
Một vấn đề đặt ra, vậy người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hay không có được pháp luật bảo vệ không? Theo các quy định Bộ luật dân sự hiện hành của Việt Nam thì họ không được bảo vệ. Cách phân loại chiếm hữu có hay không có căn cứ pháp luật là cách phân loại rất riêng của Việt Nam, còn luật dân sự của các nước hầu như không có sự phân biệt như vậy. Pháp luật các nước trên thế giới từ lâu đã thừa nhận nguyên tắc: sự ngay tình bao giờ cũng được suy đoán; người nào viện dẫn sự không ngay tình thì phải có nghĩa vụ chứng minh. Bất luận trong trường hợp nào, người chiếm hữu vẫn có quyền kiện bảo vệ sự chiếm hữu tài sản của mình. Như vậy, kể cả trong trường hợp chiếm hữu không có căn cứ pháp luật (theo cách phân loại riêng của luật dân sự Việt Nam), thì pháp luật vẫn cần bảo vệ quyền lợi của họ. Ví dụ:
A là chủ sở hữu chiếc xe máy, B ăn trộm chiếc xe và bán cho C (C biết rõ chiếc xe là của ăn cắp nhưng vẫn mua). C dùng chiếc xe máy này để đi, rồi lại bị D ăn cắp.
Trong ví dụ trên, C vẫn có quyền kiện D phải trả lại xe cho mình (tất nhiên là C phải có đầy đủ chứng cứ). Tóm lại là pháp luật cần công nhận tình trạng chiếm hữu trước đã, còn việc xác định ai là chủ sở hữu đích thực thì giải quyết trong một vụ kiện khác nếu các bên có yêu cầu. Quy định này rất có tác dụng trong việc bảo vệ sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự trong điều kiện kinh tế thị trường. Đây cũng là cách xử lý trong Bộ luật dân sự của nhiều nước trên thế giới.
3.2.2. Cần có biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh mẽ hơn.
Cho rằng một mặt, vẫn phải bảo vệ chủ sở hữu, nhưng mặt khác cũng phải bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhằm đảm bảo sự ổn định của các quan hệ dân sự tránh gây nhiều xáo trộn, đồng thời nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, nên chăng cần tham khảo quy định của pháp luật các nước điển hình trên thế giới: trong trường hợp tài sản bị chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh mất hay bị lấy cắp, thì có quyền đòi lại vật từ người chiếm hữu ngay tình trong một thời hạn nhất định (có thể cân nhắc quy định từ 2-3 năm kể từ ngày mất), nhưng người này có quyền kiện lại người đã chuyển giao vật cho mình bồi thường thiệt hại.
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật và thiết chế đăng ký tài sản:
Việc đăng ký tài sản rất quan trọng, một mặt là cơ sở để chủ sở hữu bảo vệ quyền lợi của mình và đối kháng với người thứ ba khi có tranh chấp phát sinh; mặt khác tạo điều kiện rất thuận lợi cho Toà án trong việc xác định chứng cứ để xét xử các tranh chấp. Bộ luật dân sự cần đưa ra những nguyên tắc chung về đăng kỳ tài sản, giá trị pháp lý của việc đăng ký… Sau đó, cần ban hành Luật về đăng ký tài sản (hay nếu chưa có điều kiện thì trước mắt cần ban hành Luật về đăng ký bất động sản) như kinh nghiệm của Nhật Bản và nhiều nước trên thế giới, nhằm pháp điển hoá các quy định về đăng ký tài sản còn đang nằm rải rác ở các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hệ thống cơ quan đăng ký tài sản cũng phải được tổ chức và hoạt động có hiệu quả, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính và làm sao phải tạo thuận lợi nhất cho người dân.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn:
Xuất phát từ đặc trưng của bản thân quan hệ pháp luật dân sự, mà mỗi công dân, pháp nhân cần tự mình có những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu sao cho có hiệu quả nhất và tất nhiên là phải trong khuôn khổ của pháp luật. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, thì các bên cần tận dụng tối đa cơ chế hoà giải, dàn xếp với nhau vì cơ chế này có những lợi ích nhất định, đặc biệt trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay
Cần tăng cường công tác phổ biến giáo dục các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu đến người dân, đồng thời hoàn thiện và tăng cường năng lực hoạt động của các thiết chế (Toà án, trọng tài, thi hành án, luật sư, công chứng…) nhằm bảo đảm cho các quy định về bảo vệ quyền sở hữu thực sự đi vào cuộc sống.
Đây là những vấn đề rất lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu và đặc biệt là phải có sự quan tâm của Nhà nước theo lộ trình cụ thể để làm sao thực sự nâng cao được hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn.
KẾT LUẬN:
Pháp luật cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp luật định. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp còn được quyền yêu cầu Toà án, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Quan hệ sở hữu là loại quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ đặc thù, trong đó thể hiện quyền tự định đoạt cao độ của chủ thể. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản là vấn đề tất yếu nhằm bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản một cách có hiệu quả và trọn vẹn nhất
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: