Forster

New Member
Download Tiểu luận Địa vị pháp lý của nguời bào chữa và hướng nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa

Mục lục
I. Lời mở đầu 1
II. Nội dung chính 1
1. Khái niệm người bào chữa 1
2. Phân loại 2
3. Trường hợp không được bào chữa 3
4. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa 4
5. Thời điểm tham gia của người bào chữa 5
6. Địa vị pháp lý của người bào chữa 6
a. Quyền của người bào chữa. 6
b. Nghĩa vụ của người bào chữa 9
7. Hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về chế định người bào chữa. 10
Thứ nhất: Quy định về người bào chữa là bào chữa viên nhân dân theo Điều 58 BLTTHS 2003. 10
Thứ hai: Về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. 11
Thứ ba: Về sự lựa chọn và thay đổi người bào chữa 12
Thứ tư: Về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa 13
III. Thay lời kết 16


I. Lời mở đầu
Chế định người bào chữa cùng với vai trò mang ý nghĩa lớn của mình đã sớm được quan tâm tại Việt Nam. Thể hiện qua những bộ Luật tố tụng hình sự từ trước đến nay, đặc biệt và rõ nét là qua BLTTHS 2003 với giá trị pháp lý đang tồn tại. Qua đó ta thấy một quá trình hoàn thiện dần về lý luận và thực tiễn của Luật tố tụng nói chung và chế định người bào chữa nói riêng. Bên cạnh đó còn một số điểm hạn chế nhất định cần đưa ra hướng giải quyết về chế định người bào chữa để phù hợp với sự phát triển của kinh tế và xã hội hiện nay, đặc biệt là trong việc bảo vệ pháp chế XHCN. Bài viết dưới đây sẽ phân tích về địa vị pháp lý của nguời bào chữa cùng với đóng góp nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa.
II. Nội dung chính
1. Khái niệm người bào chữa
Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ những người này về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
2. Phân loại
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hay người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hay người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần.
- Bào chữa viên nhân dân
Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, luật sư, thay mặt hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa.
Bên cạnh đó người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có quyền tự mình bào chữa theo Điều 48, 49 và 50 BLTTHS 2003 nếu họ có khả năng làm việc đó như có kiến thức, có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, biết sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để bác bỏ sự buộc tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bản thân.
3. Trường hợp không được bào chữa
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định trường hợp những người không được bào chữa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS 2003, những người sau đây không được bào chữa:
- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hay đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Người bào chữa tham gia tố tụng để gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người này. Người đã tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong cùng một vụ án và họ không thể đồng thời thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa.
Người thân thích của những người đã hay đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ án có thể sẽ gây ảnh hưởng đến sự khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích của họ.
- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
Những người này phải thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực, không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Trong thời hạn 3 ngày , kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan tiến hành điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối phải nên rõ lý do.
Đối với trường hợp tạm giữ người trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan tiến hành điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
4. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa
Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người thay mặt hợp pháp của họ lựa chọn. Nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất tâm thần thì họ và thay mặt hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu bị can, bị cáo đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất và tâm thần thì chỉ có họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu người thân thích hay người khác lựa chọn người bào chữa cho họ thì Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa đó nếu đã có sự ủy quyền của bị can, bị cáo hay nếu không có sự ủy quyền thì phải được sự đồng ý của bị can, bị cáo đối với người bào chữa đã được lựa chọn.
Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hay người thay mặt hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoăc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
- Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS.
- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hay thể chất.
Trong các trường hợp này, phải thông báo ngay cho bị can, bị cáo và người thay mặt hợp pháp của họ biết, những người này vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hay từ chối người bào chữa nhưng phải nêu rõ lý do.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc VN, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã; bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn, không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai.
5. Thời điểm tham gia của người bào chữa
Trước hết, Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can là phù hợp với điều kiện và tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của nước ta hiện nay.
Sau một thời gian thực hiện chính sách đổi mới, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; thực tế đã đặt ra nhu cầu hội nhập với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Trong bối cảnh đó vấn đề thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa đã có them những thay đổi mới hoàn thiện hơn.
BLTTHS 2003 đã quy định cho người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người thực hiện hành vi phạm tội bị tạm giữ sau khi bị bắt quả tang, bị bắt khẩn cấp, bị bắt theo quyết định truy nã hay khi họ ra đầu thú hay tự thú trước cơ quan chức năng.
Trong trường hợp một người bị bắt quả tang hay bắt khẩn cấp và sau đó họ bị áp dụng biện pháp tạm giữ cũng có nghĩa là người đó đang bị cơ quan chức năng buộc tội về hành vi mà họ bị tạm giữ. Hơn nữa khi một người bị bắt và bị tạm giữ thì họ đã bị hạn chế quyền tự do về thân thể nên lúc này họ rất cần sự giúp đỡ về mặt pháp lý.
Để người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi một người bị bắt giữ là hoàn toàn hợp lý. Đây là một quy định mới rất đúng đắn về mặt lý luận và phù hợp với điều kiện khách quan hiện nay. Trong những trường hợp khác người bào chữa được tham gia khi có quyết định khởi tố bị can như trước đây đã từng quy định.
6. Địa vị pháp lý của người bào chữa.
Địa vị pháp lý của người bào chữa là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người bào chữa trong quá trình tham gia tố tụng hình sự.
a. Quyền của người bào chữa.
Người bào chữa có quyền:
- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ, điều đó có ý nghĩa lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi Điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem xét các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm tiến hành hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
- Để nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS.
Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc những người này tiến hành hay tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hay từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
- Đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu:
Pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể về quyền của người bào chữa giúp cho giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đặc biệt giúp điều tra vụ án được khách quan, đúng sự thật đảm bảo pháp chế XHCN. Bên cạnh đó pháp luật nên quy định rõ ràng quyền của người bào chữa tránh những bất lợi có thể xảy ra khi người bào chữa thực hiện quyền của mình.
- Thứ nhất là nên bổ sung vào điểm a Điều 58 BLTTHS quy định “Đối với những người bào chữa tham gia theo quy định của điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật này thì có quyền có mặt trong tất cả các buổi hỏi cung bị can”. Vì sự tham gia của người bào chữa trong các buổi hỏi cung những bị can này là rất cần thiết và hợp lý.
- Thứ hai là tại điểm e của Điều 58 BLTTHS có quy định quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam của người bào chữa thì ở đây cần quy định rõ là được gặp riêng và không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp.
Pháp luật tố tụng cũng quy định về nghĩa vụ của người bào chữa khá hoàn chỉnh, nhưng để them phần chặt chẽ có nên bổ sung vào điểm đ của Điều 58 cụm từ “nếu tiết lộ bí mật điều tra và” vào sau cụm từ người bào chữa nhằm đảm bảo cho việc giữ bí mật điều tra mà người bào chữa biết được khi tham gia tố tụng. Điều này dẫn tới tính khả thi của sự cho phép người bào chữa tham gia sớm hơn trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Nếu chúng ta cứ quy định chung chung là không được tiết lộ bí mật điều tra mà không kèm theo quy định khả năng áp dụng chế tài nếu có sự vi phạm thì làm cho quy định đó thiếu tính khả thi.
III. Thay lời kết
Với việc phân tích địa vị pháp lý của người bào chữa cùng hướng hoàn thiện chế định này ta càng thấy rõ vai trò pháp lỳ quan trọng của nó. Sự tham gia của người bào chữa trong quá trình tiến hành tố tụng không những giúp bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà hơn hết người bào chữa đã trở thành một mắt xích quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế XHCN ở nước ta, có vai trò giám sát hoạt động của cơ quan và người tiến hành tố tụng.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

huetagv12345

New Member
Download Tiểu luận Địa vị pháp lý của nguời bào chữa và hướng nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa

Download miễn phí Tiểu luận Địa vị pháp lý của nguời bào chữa và hướng nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa





Mục lục
I. Lời mở đầu 1
II. Nội dung chính 1
1. Khái niệm người bào chữa 1
2. Phân loại 2
3. Trường hợp không được bào chữa 3
4. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa 4
5. Thời điểm tham gia của người bào chữa 5
6. Địa vị pháp lý của người bào chữa 6
a. Quyền của người bào chữa. 6
b. Nghĩa vụ của người bào chữa 9
7. Hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về chế định người bào chữa. 10
Thứ nhất: Quy định về người bào chữa là bào chữa viên nhân dân theo Điều 58 BLTTHS 2003. 10
Thứ hai: Về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. 11
Thứ ba: Về sự lựa chọn và thay đổi người bào chữa 12
Thứ tư: Về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa 13
III. Thay lời kết 16
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ những người này về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
2. Phân loại
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hay người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hay người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần.
- Bào chữa viên nhân dân
Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, luật sư, thay mặt hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa.
Bên cạnh đó người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có quyền tự mình bào chữa theo Điều 48, 49 và 50 BLTTHS 2003 nếu họ có khả năng làm việc đó như có kiến thức, có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, biết sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để bác bỏ sự buộc tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bản thân.
3. Trường hợp không được bào chữa
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định trường hợp những người không được bào chữa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS 2003, những người sau đây không được bào chữa:
- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hay đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Người bào chữa tham gia tố tụng để gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người này. Người đã tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong cùng một vụ án và họ không thể đồng thời thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa.
Người thân thích của những người đã hay đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ án có thể sẽ gây ảnh hưởng đến sự khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích của họ.
- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
Những người này phải thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực, không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Trong thời hạn 3 ngày , kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan tiến hành điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối phải nên rõ lý do.
Đối với trường hợp tạm giữ người trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan tiến hành điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
4. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa
Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người thay mặt hợp pháp của họ lựa chọn. Nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất tâm thần thì họ và thay mặt hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu bị can, bị cáo đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất và tâm thần thì chỉ có họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu người thân thích hay người khác lựa chọn người bào chữa cho họ thì Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa đó nếu đã có sự ủy quyền của bị can, bị cáo hay nếu không có sự ủy quyền thì phải được sự đồng ý của bị can, bị cáo đối với người bào chữa đã được lựa chọn.
Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hay người thay mặt hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoăc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
- Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS.
- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hay thể chất.
Trong các trường hợp này, phải thông báo ngay cho bị can, bị cáo và người thay mặt hợp pháp của họ biết, những người này vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hay từ chối người bào chữa nhưng phải nêu rõ lý do.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc VN, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã; bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn, không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai.
5. Thời điểm tham gia của người bào chữa
Trước hết, Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can là phù hợp với điều kiện và tình hình kinh tế, chính trị và xã hội c
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D địa vị pháp lý của công ty hợp danh Luận văn Luật 1
T Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Luận văn Luật 0
C Địa vị pháp lý và hoạt động của đoàn đại biểu quốc hội - qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang1 Luận văn Luật 0
N Địa vị pháp lý của Chính phủ theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) - xu hướng phát triển và hoàn thiện Luận văn Luật 0
P Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và hướng hoàn thiện Luận văn Luật 0
N Địa vị pháp lý của người nước ngoài ở Việt Nam trong tư pháp quốc tế giai đoạn hiện nay Luận văn Luật 2
T Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp và khu chế xuất Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật quốc gia Luận văn Luật 0
B Địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài : Luận văn ThS. Luật: 60 38 60 Luận văn Luật 0
E Thực trạng và hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam Luận văn Luật 0
G Địa vị pháp lý của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam: Luận văn ThS. Luật: 60 38 50 Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top