Link tải miễn phí luận văn
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định thành phần loài vi nấm nhiễm trên cá lóc giai
đoạn giống và xác định nồng độ diệt nấm của một số hóa chất phổ biến để ứng dụng
trong phòng trị bệnh nấm. Tổng số mẫu cá lóc giống được thu là 78 mẫu, trong đó 68
mẫu cá bệnh với dấu hiệu lở loét và có những đám màu trắng như bông gòn xuất hiện
trên thân cá và 10 mẫu cá khỏe tại tỉnh Đồng Tháp từ tháng 1-8/2011. Tất cả cá bệnh đều
được quan sát tiêu bản tươi và phân lập nấm tại Bộ môn Sinh học và Bệnh Thủy sản,
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Nấm được nuôi cấy trên môi trường GYA, ủ ở
28o
C trong thời gian 4 ngày. Các chủng nấm thuần được định danh dựa trên đặc điểm
hình thái trong môi trường GY lỏng, quá trình sinh sản vô tính của nấm và bằng phương
pháp sinh học phân tử (giải trình tự đoạn gen đặc trưng 28S và tra cứu Blast). Kết quả đã
định danh được nấm thủy mi Achlya bisexualis nhiễm trên các lóc giai đoạn giống. Bên
cạnh đó, đã xác định được nồng độ ức chế tối thiểu của formol và antizol đối với sự phát
triển của nấm lần lượt là 600 và 40 pPhần mềm và khả năng diệt nấm của formol và antizol lần
lượt là 800 pPhần mềm ngâm sau 24 giờ và 30 pPhần mềm ngâm sau 1 giờ.
Từ khóa: Achlya bisexualis, bronopol, cá lóc, formol
1 GIỚI THIỆU
Cá lóc (Channa striata) là đối tượng được nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu
Long với những ưu điểm như dễ nuôi, mau lớn, thịt thơm ngon và là nguồn dinh dưỡng tốt cho con người. Hiện nay, cá lóc được nuôi rất phổ biến với nhiều hình
thức khác nhau như nuôi trên bạt, trong ao đất, vèo lưới và bể xi măng (Lê Xuân
Sinh và Đỗ Minh Chung, 2009; Nguyễn Thị Diệp Thuý, 2010). Nuôi thâm canh cá
lóc phát triển mạnh đã dẫn đến nhiều khó khăn trong nghề nuôi cá lóc, các tiêu chí
về dinh dưỡng, chất lượng nước và vấn đề về dịch bệnh cần được quan tâm nhiều
hơn, trong đó vấn đề về dịch bệnh đóng vai trò quan trọng. Một số mầm bệnh được
ghi nhận xuất hiện trên cá lóc nuôi như vi khuẩn, ký sinh trùng và vi nấm (Lư Trí
Tài, 2010). Qua ghi nhận của Nguyễn Thị Diệp Thuý (2010) cho thấy bệnh do vi
nấm nhiễm trên cá lóc với tần suất 6,2% và ít được quan tâm nghiên cứu. Hơn nữa,
kết quả bước đầu nghiên cứu cho thấy nấm thủy mi thuộc giống Achlya phổ biến
nhiễm trên cá lóc giai đoạn giống (Phạm Minh Đức và Nguyễn Thị Thúy Hằng,
2011). Tuy nhiên, việc định danh nấm thủy mi đến loài và nghiên cứu giải pháp
phòng và trị bệnh nấm thủy mi này vẫn chưa được nghiên cứu. Chính vì thế,
nghiên cứu này được thực hiện nhằm định danh nấm thủy mi ký sinh trên cá lóc
giai đoạn giống và khảo sát tác động của một số hóa chất đến vi nấm trong điều
kiện thí nghiệm để tìm giải pháp phòng và trị bệnh nấm thủy mi trên cá lóc giống
trong điều kiện thực tế.
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2011 tại Bộ môn Sinh
học và Bệnh Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
2.2 Vật Liệu
2.2.1 Hóa chất
Hai loại hóa chất được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm formol thương mại
(38%- HCHO)(Công ty Hóa chất Việt Nam) và Antizol (50% bronopol-
C3H6BrNO4) của công ty Virbac, Việt Nam).
2.2.2 Mẫu cá và mẫu vi nấm
Mẫu cá lóc giai đoạn giống (10-25 g/con) có dấu hiệu nhiễm vi nấm được thu trực
tiếp từ ao ương nuôi ở Huyện Tam Nông, Tỉnh Đồng Tháp từ tháng 1 đến tháng 8
năm 2011. Cá có dấu hiệu bệnh lý lở loét phần đuôi hay có những búi màu trắng
trên thân cá trông giống như bông gòn. Tổng số mẫu cá bệnh thu là 68 và cá khỏe
(không có dấu hiệu bệnh) là 10. Ngoài ra, chủng nấm thủy mi Achlya sp. VN1101
được phân lập từ cá lóc (Channa striata) giai đoạn giống bị nhiễm vi nấm (Phạm
Minh Đức và Nguyễn Thị Thúy Hằng, 2011) và được nuôi cấy trong thời gian 1
tuần trên môi trường thạch GYA (1% Glucose, 0,25% Yeast-extract và 1,5% Agar), ủ ở
28o
C. Chủng nấm này được dùng cho thí nghiệm tiếp theo.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Định danh vi nấm
Dựa vào đặc điểm khuẩn lạc trên môi trường GYA, đặc điểm hình thái trong môi
trường GY lỏng và căn cứ vào quá trình sinh sản vô tính. Nấm được định danh
theo khóa phân loại của Coker (1923). Thêm vào đó, vi nấm được giải trình tự gen
và tra cứu trên BLAST để so sánh tính tương đồng của đoạn gen đặc trưng với
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định thành phần loài vi nấm nhiễm trên cá lóc giai
đoạn giống và xác định nồng độ diệt nấm của một số hóa chất phổ biến để ứng dụng
trong phòng trị bệnh nấm. Tổng số mẫu cá lóc giống được thu là 78 mẫu, trong đó 68
mẫu cá bệnh với dấu hiệu lở loét và có những đám màu trắng như bông gòn xuất hiện
trên thân cá và 10 mẫu cá khỏe tại tỉnh Đồng Tháp từ tháng 1-8/2011. Tất cả cá bệnh đều
được quan sát tiêu bản tươi và phân lập nấm tại Bộ môn Sinh học và Bệnh Thủy sản,
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Nấm được nuôi cấy trên môi trường GYA, ủ ở
28o
C trong thời gian 4 ngày. Các chủng nấm thuần được định danh dựa trên đặc điểm
hình thái trong môi trường GY lỏng, quá trình sinh sản vô tính của nấm và bằng phương
pháp sinh học phân tử (giải trình tự đoạn gen đặc trưng 28S và tra cứu Blast). Kết quả đã
định danh được nấm thủy mi Achlya bisexualis nhiễm trên các lóc giai đoạn giống. Bên
cạnh đó, đã xác định được nồng độ ức chế tối thiểu của formol và antizol đối với sự phát
triển của nấm lần lượt là 600 và 40 pPhần mềm và khả năng diệt nấm của formol và antizol lần
lượt là 800 pPhần mềm ngâm sau 24 giờ và 30 pPhần mềm ngâm sau 1 giờ.
Từ khóa: Achlya bisexualis, bronopol, cá lóc, formol
1 GIỚI THIỆU
Cá lóc (Channa striata) là đối tượng được nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu
Long với những ưu điểm như dễ nuôi, mau lớn, thịt thơm ngon và là nguồn dinh dưỡng tốt cho con người. Hiện nay, cá lóc được nuôi rất phổ biến với nhiều hình
thức khác nhau như nuôi trên bạt, trong ao đất, vèo lưới và bể xi măng (Lê Xuân
Sinh và Đỗ Minh Chung, 2009; Nguyễn Thị Diệp Thuý, 2010). Nuôi thâm canh cá
lóc phát triển mạnh đã dẫn đến nhiều khó khăn trong nghề nuôi cá lóc, các tiêu chí
về dinh dưỡng, chất lượng nước và vấn đề về dịch bệnh cần được quan tâm nhiều
hơn, trong đó vấn đề về dịch bệnh đóng vai trò quan trọng. Một số mầm bệnh được
ghi nhận xuất hiện trên cá lóc nuôi như vi khuẩn, ký sinh trùng và vi nấm (Lư Trí
Tài, 2010). Qua ghi nhận của Nguyễn Thị Diệp Thuý (2010) cho thấy bệnh do vi
nấm nhiễm trên cá lóc với tần suất 6,2% và ít được quan tâm nghiên cứu. Hơn nữa,
kết quả bước đầu nghiên cứu cho thấy nấm thủy mi thuộc giống Achlya phổ biến
nhiễm trên cá lóc giai đoạn giống (Phạm Minh Đức và Nguyễn Thị Thúy Hằng,
2011). Tuy nhiên, việc định danh nấm thủy mi đến loài và nghiên cứu giải pháp
phòng và trị bệnh nấm thủy mi này vẫn chưa được nghiên cứu. Chính vì thế,
nghiên cứu này được thực hiện nhằm định danh nấm thủy mi ký sinh trên cá lóc
giai đoạn giống và khảo sát tác động của một số hóa chất đến vi nấm trong điều
kiện thí nghiệm để tìm giải pháp phòng và trị bệnh nấm thủy mi trên cá lóc giống
trong điều kiện thực tế.
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2011 tại Bộ môn Sinh
học và Bệnh Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
2.2 Vật Liệu
2.2.1 Hóa chất
Hai loại hóa chất được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm formol thương mại
(38%- HCHO)(Công ty Hóa chất Việt Nam) và Antizol (50% bronopol-
C3H6BrNO4) của công ty Virbac, Việt Nam).
2.2.2 Mẫu cá và mẫu vi nấm
Mẫu cá lóc giai đoạn giống (10-25 g/con) có dấu hiệu nhiễm vi nấm được thu trực
tiếp từ ao ương nuôi ở Huyện Tam Nông, Tỉnh Đồng Tháp từ tháng 1 đến tháng 8
năm 2011. Cá có dấu hiệu bệnh lý lở loét phần đuôi hay có những búi màu trắng
trên thân cá trông giống như bông gòn. Tổng số mẫu cá bệnh thu là 68 và cá khỏe
(không có dấu hiệu bệnh) là 10. Ngoài ra, chủng nấm thủy mi Achlya sp. VN1101
được phân lập từ cá lóc (Channa striata) giai đoạn giống bị nhiễm vi nấm (Phạm
Minh Đức và Nguyễn Thị Thúy Hằng, 2011) và được nuôi cấy trong thời gian 1
tuần trên môi trường thạch GYA (1% Glucose, 0,25% Yeast-extract và 1,5% Agar), ủ ở
28o
C. Chủng nấm này được dùng cho thí nghiệm tiếp theo.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Định danh vi nấm
Dựa vào đặc điểm khuẩn lạc trên môi trường GYA, đặc điểm hình thái trong môi
trường GY lỏng và căn cứ vào quá trình sinh sản vô tính. Nấm được định danh
theo khóa phân loại của Coker (1923). Thêm vào đó, vi nấm được giải trình tự gen
và tra cứu trên BLAST để so sánh tính tương đồng của đoạn gen đặc trưng với
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links