ngoisaobang_khanhly
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lời mở đầu
Từ hơn một thập kỷ nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá trở thành một xu thế khách quan và diễn ra nhanh chóng, vừa tạo cơ hội cho các nền kinh tế vừa tăng sức ép cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường, là công cụ để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Vì thế doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt may là ngành có tốc độ phát triển nhanh chóng sản phẩm dệt may luôn chiếm tỷ trọng lớn và đứng vị trí thứ hai sau dầu thô của nước ta, có khả năng thâm nhập không chỉ những thị trường quy định hạn ngạch mà cả những thị trường không có hạn ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30% so với năm 2002 là một mốc son mới của ngành dệt may, trong vòng 3 năm kim ngạch xuất khẩu tăng gần hai lần.
Do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành hầu hết các nước đang phát triển tham gia nên mức độ cạnh tranh càng cao.
Từ năm 1995 đến nay, với những lợi thế so sánh về lao động, chi phí, hàng dệt may Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh được thị trường quốc tế, trong đó có ba thị trường lớn: thị trường EU, thị trường Nhật Bản và thị ttrường Mỹ. Nhưng chỉ còn chưa đầy chín tháng nữa Hiệp định hàng dệt may trong khuôn khổ WTO sẽ được thực hiện hoàn toàn. Thương mại thế giới bước vào giai đoạn mới - giai đoạn tự do hoá thương mại hàng dệt may. Khi hàng dệt may thế giới( ATC) chấm dứt, chuyển từ chế độ bảo hộ bằng hạn ngạch sang cạnh tranh thực sự giữa các nước xuất khẩu dệt may trong tổ chức thương mại thế giới thì cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng gay gắt. Hơn thế nữa sức cạnh tranh của phần lớn sản phẩm dệt may của Việt Nam còn yếu cả về chất lượng và giá cả. Cánh cửa duy nhất đảm bảo thành công là nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may vì đó là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục tiêu hàng dệt may Việt Nam giành thắng lợi trong cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế, cần nâng cao khả năng cạnh tranh và đưa ra các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng dệt may Việt Nam .
Đó cũng là lý do mà em chọn đề tài: “ Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành dệt may ”.
Nội dung của đề án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, đề án gồm những phần chính sau đây:
Chương I: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh.
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may .
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may .
Do trình độ còn hạn hẹp và thời gian hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Mong được sự góp ý, điều chỉnh, bổ sung của thầy cô để bàu viết của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin Thank thầy giáo Nguyễn Xuân Điền đã hướng dẫn cho em hoàn thành bài viết này..
CHương I
Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh
I - Khái niệm
1. Cạnh tranh là gì?
Ngày nay, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận trong mọi hoạt động kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường, động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Một trong những khó khăn là không có một sự đồng nhất trong quan niệm về cạnh tranh. Lý do là thuật ngữ này được sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và cả khu vực liên quốc gia.
Khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay của một ngành công nghiệp chỉ cần xét đến tiềm năng sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp.
Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia như sau:
“Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng , có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế , đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”.
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là:
“Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống nghĩa là đạt được các tỉ lệ tăng trưởng kinh tế kinh tế cao được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội(GDP) trên đầu người theo thời gian”.
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các doanh nghiệp , ngành và quốc gia như sau :
“ Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Định nghĩa trên phù hợp vì nó phản ánh khả năng cạnh tranh quốc gia nằm trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế .
2. Khả năng cạnh tranh là gì ?
Thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh… Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh tranh ở cả cấp quốc gia lẫn cấp ngành, công ty, xí nghiệp. Lý do cơ bản là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh.
Đối với một số người, khả năng cạnh tranh chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thể hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thương mại.Trong khi đó, đối với những người khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế và yêu cầu bảo đảm mức sống cao cho các công dân trong nước .
Trong cuốn sách nổi tiếng “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”của M.Porter đã cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghĩa khi nói về khả năng cạnh tranh quốc gia.
Còn Krugman(1994) thì lại cho rằng : Khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ phù hợp với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả năng bù đắp chi phí của mình, thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hay phá sản.
II .Phân loại khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gồm khái niệm cạnh tranh quốc gia, khái niệm cạnh tranh doanh nghiệp và khái niệm cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ.Trong đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
1 . Khả năng cạnh tranh quốc gia
Đây là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Khả năng cạnh tranh được định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân .
2 . Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Thứ tư, nguồn nhân lực của ngành may mặc nước ta còn thiếu và yếu. Thiếu những nhà thiết kế mẫu có tính chuyên nghiệp và trình độ cao, cho nên khả năng tạo ra những kiểu mốt phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng đổi mới mặt hàng, tạo ra những mặt hàng mới còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân may Việt Nam chỉ đạt hiệu suất 70%, trong khi đó ở các nước khu vực là trên 90%. Năng suất lao động của công nhân thấp, ảnh hưởng đến chất lượng, chi phí và thời gian giao hàng của hàng may mặc xuất khẩu nước ta. Ngoài ra, vấn đề quản lý sản xuất, kinh doanh, khả năng nghiên cứu , tiếp cận , mở rộng thị trường của các doanh nghiệp may xuất khẩu nước ta cũng còn nhiều bất cập, còn phải xuất khẩu thông qua các trung gian là các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông…
Chương III
Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nước ta còn yếu trong khu vực và thế giới là do những nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng sản phẩm dệt may của Việt Nam còn thấp, giá thành cao, chưa chủ động về thị trường, tính cạnh tranh của sản phẩm không cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Như vậy, làm thế nào để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường quốc tế được đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao? Sau đây là những giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
I - Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Thứ nhất, các doanh nghiệp nên đầu tư xây dựng thiết bị nhà xưởng hiện đại, trang bị những thiết bị may hiện đại theo hướng tiếp cận với công nghệ cao trong thiết kế mẫu, trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và hạ giá thành.
Thứ hai, ngành dệt nên đầu tư trọng điểm để có những dây chuyền thiết bị với công nghệ sản xuất hiện đại, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, có chất lượng tốt, giá thành hạ, đủ khả năng cạnh tranh cung cấp cho ngành may mặc và phấn đấu đến năm 2010 có thể cung cấp 60-70% nguyên phụ liệu cho ngành may xuất khẩu, tạo điều kiện cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu. Trong khi còn phải nhập khẩu nguyên liệu, để chủ động cần thành lập các kho ngoại quan để các nhà cung cấp nguyên liệu nước ngoài dự trữ hàng có thể cung cấp kịp thời cho các doanh nghiệp khi ký kết được hợp đồng xuất khẩu có thể nhập ngay được nguyên liệu phục vụ sản xuất, đảm bảo được tiến độ giao hàng.
Thứ ba, các doanh nghiệp may phải vừa duy trì hoạt động gia công quốc tế, vừa phải đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp. Hoạt động gia công chủ yếu ở các doanh nghiệp có qui mô nhỏ ở các tỉnh, các doanh nghiệp có qui mô lớn ở TP.HCM và Hà Nội mà trước mắt là các công ty thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trực tiếp, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và đa dạng hoá thị trường, có chính sách để phát triển sản phẩm mới, thị trường mới.
Thứ tư, các doanh nghiệp trước khi nhận công nhân, cán bộ quản lý, kĩ sư thực hành, nhà thiết kế thời tranh, thiết kế mẫu mã…cần có biện pháp kiểm tra trình độ tay nghề, kĩ thuật, trình độ quản lý, thiết kế mẫu mã. Đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước và gửi đi đào tạo ở nước ngoài để có các nhà thiết kế chuyên nghiệp, có trình độ nắm bắt kịp thời với xu thế lớn trong ngành thời trang. Đặc biệt là mẫu mã, mốt thời trang quốc tế.
Thứ năm, các doanh nghiệp dệt may phải tự mình nâng cao tính cạnh tranh về thương hiệu sản phẩm, nâng cao uy tín nhãn hiệu sản phẩm để đưa dần sản phẩm dệt may lên đẳng cấp chất lượng cao. Trước tiên, mỗi doanh nghiệp cần xác định sản phẩm mũi nhọn và thị trường khách hàng mục tiêu để có chiến lược đầu tư và chính sách Marketing thích hợp . Tăng cường hoạt động tiếp thị một cách chủ động đồng thời kết hợp với chương trình xúc tiến thương mại của nhà nước để quảng bá thương hiệu , tuyên truyền, xúc tiến bán hàng và bán hàng trực tiếp cho các khách hàng ở các thị trường nhập khẩu lớn và tiềm năng.
Ngoài ra, khi xoá bỏ hạn ngàch hàng dệt may, có thể các nước phát triển sẽ có các quy định về môi trường, về lao động …Do đó, các doanh nghiệp không nhừng cần áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9000, mà còn phải áp dụng hệ thống quản lý môi trương ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000…để sản phẩm may mặc nước ta có khả năng cạnh tranh, đủ tiêu chuẩn đứng vững và phát triển trên thị trường quốc tế trong thời gian tới.
II- Kiến nghị với nhà nước và hiệp hội dệt may Việt Nam
1. Kiến nghị với nhà nước
Thứ nhất, nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt về lãi suất vay ưu đãi, thuế, thị trường…Để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhanh chóng mở rộng đầu tư nhằm tăng cường năng lực sản xuất của ngành dệt may bằng các biện pháp tài chính để giải quyết vốn đầu tư cho ngành dệt may trong tình hình hiện nay.Bên cạnh việc huy động tối đa nguồn lực của các doanh nghiệp thì nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn ngoài xã hội.
Thứ hai, nhà nước cần có các chính sách, biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp tháo gỡ được phần nào những khó khăn về nguyên phụ liệu đầu vào. Đặc biệt, nhà nước cần có những biện pháp để tạo điều kiện phát triển một số vùng trồng bông trọng điểm vì đây là nguồn nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt may, giúp cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất, nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, đảm bảo đúng tiến độ giao hàng.
Thứ ba, nhà nước cần đẩy mạnh xúc tiến thị trường thông qua việc khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở văn phòng thay mặt , chi nhánh, của hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hoá thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để các doanh nghiệp chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường ,xác lập hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm tại các thị trường lớn ,dặc biệt là thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản.
Thứ tư, nhà nước cần mở các trường đại học để mở lớp đào tạo dài hạn chuyên ngành quản lý có kiểm tra chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn và cấp bằng tốt nghiệp sau mỗi khoá học dùng làm cơ sở để tiêu chuẩn hoá cán bộ của ngành .Đồng thời, cấp kinh phí đào tạo cho các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc tại các doanh nghiệp. Dĩ nhiên, với nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của ngành, yêu cầu đòi hỏi của xu thế mới.
Thứ năm, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp dệt may nhanh chóng xác lập vầ đăng ký tiêu chuẩn quản lí chất lượng quốc tế(ISO 9000, ISO 14000, SA 8000…), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhãn, mã số, mã vạch theo qui chế và sớm đăng kí nhãn hiệu tại thị trường quốc tế.
2. Kiến nghị với Hiệp hội dệt may Việt Nam
Trong thời gian qua, Hiệp hội dệt may Việt Nam đã làm được một số việc như:đã kiến nghị với Chính phủ để giải quyết việc mở cửa thị trường dệt may với Mỹ, đã tham gia đàm phán với EU để tăng quota dệt may cho Việt Nam, mở của thị trường để việt Nam bình đẳng với các nước khác, quan hệ với các tổ chức nước ngoài quan tâm tới Việt Nam, tổ chức thông tin thị trường và cung cấp cho các doanh nghiệp, xúc tiến thương mại đã tập trung vào một số thị trường:Mỹ, EU, Nhật Bản…
Trong thời gian tới, Hiệp hội cần thu thập tình hình cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp để doanh nghiệp hoạch định chiến lược phát triển của mình. Hiệp hội cần thay mặt cho doanh nghiệp tác động đến Chính phủ, các ban ngành nhằm đưa ra đối sách, cơ chế thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và thay mặt cho doanh nghiệp tham gia với các tổ chức nước ngoài, với Hiệp hội dệt may thế giới, các tổ chức có vai trò tác động đến chính sách quốc tế với Việt Nam để tạo môi trường thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam phát triển. Hiệp hội nên có các hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách xây dựng, giới thiệu hình ảnh dệt may Việt nam trên thị trường quốc tế, xúc tiến cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo nên sức cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Do đó, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu là chiến lược lâu dài và hết sức khó khăn. Nhưng thực sự đó là hướng phát triển tích cực và đúng đắn trong bối cảnh cạnh tranh trong vô cùng khốc liệt trên thị trường quốc tế. Những việc mà chúng ta dã và dang tiến hành chỉ là “ Bước đi đầu tiên trên con đường đầy gian khó ấy”.
Đề án đã hoàn thành những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá các lí luận cơ bản về khả năng cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành và cuả doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
- Phân tích thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế: đưa ra tốc độ xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam, tình hình xuất khẩu và phân tích ma trận SWOT và khả năng cạnh tranh của hàng may Việt Nam.
- Phân tích những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó .
- Đề xuất một số giải pháp từ phía doanh nghiệp , Nhà nước và hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho DN dệt may Việt Nam .
Việc đưa ra các giải pháp là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển của DN dệt may việt nam đến năm 2010.
Em xin chân thành Thank sự hướng dẫn và góp ý tận tình của Thầy Nguyễn Xuân Điền đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Lời mở đầu 1
ChươngI: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh 3
I - Khái niệm 3
1. Cạnh tranh là gì? 3
2. Khả năng cạnh tranh là gì? 4
II - Phân loại khả năng cạnh tranh: 4
1. Khả năng cạnh tranh quốc gia 5
2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 5
3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm 5
III - Các nhân tố ảnh hưởng dến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may 6
1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 6
1.1. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn 6
1.2. Nhà cung ứng 7
1.3. Khách hàng 8
2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may 8
2.1. Marketing 8
2.2. Nguồn nhân lực 9
2.3. Tài chính 9
2.4. Cơ sở hạ tầng 9
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của DN dệt may Việt Nam 11
I-Tình hình xuất khẩu DN dệt may Việt Nam trong những năm qua 11
1. Tình hình xuất khẩu doanh nghiệp dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ 12
1.1. Kim ngạch xuất khẩu 12
1.2. Chủng loại hàng 13
2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 13
2.1. Kim ngạch xuất khẩu 13
2.2. Chủng loại hàng
Tình hình xuất khẩu doanh nghiệp dệt may 14
2.3. Kim ngạch xuất khẩu 14
2.4. Chủng loại hàng 14
III -Ma trận SWOT và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 16
IV - Hạn chế và nguyên nhân trong cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 19
1. Hạn chế: 19
1.1. Về chất lượng sản phẩm 19
1.2. Về giá 19
1.3. Về cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng 19
1.4. Về tiến độ giao hàng và hậu mãi 20
2. Nguyên nhân : 20
ChươngIII. Giải pháp cần tiến hành để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 22
I - Giải pháp từ phía doanh nghiệp 22
II – Kiến nghị với Nhà nước và Hiệp hội dệt may Việt Nam 23
1. Kiến nghị với Nhà nước 23
2. Kiến nghị với hiệp hội dệt may Việt Nam 25
Kết luận 26
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Lời mở đầu
Từ hơn một thập kỷ nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá trở thành một xu thế khách quan và diễn ra nhanh chóng, vừa tạo cơ hội cho các nền kinh tế vừa tăng sức ép cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường, là công cụ để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Vì thế doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt may là ngành có tốc độ phát triển nhanh chóng sản phẩm dệt may luôn chiếm tỷ trọng lớn và đứng vị trí thứ hai sau dầu thô của nước ta, có khả năng thâm nhập không chỉ những thị trường quy định hạn ngạch mà cả những thị trường không có hạn ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30% so với năm 2002 là một mốc son mới của ngành dệt may, trong vòng 3 năm kim ngạch xuất khẩu tăng gần hai lần.
Do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành hầu hết các nước đang phát triển tham gia nên mức độ cạnh tranh càng cao.
Từ năm 1995 đến nay, với những lợi thế so sánh về lao động, chi phí, hàng dệt may Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh được thị trường quốc tế, trong đó có ba thị trường lớn: thị trường EU, thị trường Nhật Bản và thị ttrường Mỹ. Nhưng chỉ còn chưa đầy chín tháng nữa Hiệp định hàng dệt may trong khuôn khổ WTO sẽ được thực hiện hoàn toàn. Thương mại thế giới bước vào giai đoạn mới - giai đoạn tự do hoá thương mại hàng dệt may. Khi hàng dệt may thế giới( ATC) chấm dứt, chuyển từ chế độ bảo hộ bằng hạn ngạch sang cạnh tranh thực sự giữa các nước xuất khẩu dệt may trong tổ chức thương mại thế giới thì cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng gay gắt. Hơn thế nữa sức cạnh tranh của phần lớn sản phẩm dệt may của Việt Nam còn yếu cả về chất lượng và giá cả. Cánh cửa duy nhất đảm bảo thành công là nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may vì đó là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục tiêu hàng dệt may Việt Nam giành thắng lợi trong cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế, cần nâng cao khả năng cạnh tranh và đưa ra các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng dệt may Việt Nam .
Đó cũng là lý do mà em chọn đề tài: “ Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành dệt may ”.
Nội dung của đề án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, đề án gồm những phần chính sau đây:
Chương I: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh.
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may .
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may .
Do trình độ còn hạn hẹp và thời gian hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Mong được sự góp ý, điều chỉnh, bổ sung của thầy cô để bàu viết của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin Thank thầy giáo Nguyễn Xuân Điền đã hướng dẫn cho em hoàn thành bài viết này..
CHương I
Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh
I - Khái niệm
1. Cạnh tranh là gì?
Ngày nay, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận trong mọi hoạt động kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường, động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Một trong những khó khăn là không có một sự đồng nhất trong quan niệm về cạnh tranh. Lý do là thuật ngữ này được sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và cả khu vực liên quốc gia.
Khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay của một ngành công nghiệp chỉ cần xét đến tiềm năng sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp.
Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia như sau:
“Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng , có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế , đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”.
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là:
“Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống nghĩa là đạt được các tỉ lệ tăng trưởng kinh tế kinh tế cao được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội(GDP) trên đầu người theo thời gian”.
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các doanh nghiệp , ngành và quốc gia như sau :
“ Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Định nghĩa trên phù hợp vì nó phản ánh khả năng cạnh tranh quốc gia nằm trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế .
2. Khả năng cạnh tranh là gì ?
Thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh… Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh tranh ở cả cấp quốc gia lẫn cấp ngành, công ty, xí nghiệp. Lý do cơ bản là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh.
Đối với một số người, khả năng cạnh tranh chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thể hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thương mại.Trong khi đó, đối với những người khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế và yêu cầu bảo đảm mức sống cao cho các công dân trong nước .
Trong cuốn sách nổi tiếng “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”của M.Porter đã cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghĩa khi nói về khả năng cạnh tranh quốc gia.
Còn Krugman(1994) thì lại cho rằng : Khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ phù hợp với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả năng bù đắp chi phí của mình, thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hay phá sản.
II .Phân loại khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gồm khái niệm cạnh tranh quốc gia, khái niệm cạnh tranh doanh nghiệp và khái niệm cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ.Trong đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
1 . Khả năng cạnh tranh quốc gia
Đây là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Khả năng cạnh tranh được định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân .
2 . Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Thứ tư, nguồn nhân lực của ngành may mặc nước ta còn thiếu và yếu. Thiếu những nhà thiết kế mẫu có tính chuyên nghiệp và trình độ cao, cho nên khả năng tạo ra những kiểu mốt phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng đổi mới mặt hàng, tạo ra những mặt hàng mới còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân may Việt Nam chỉ đạt hiệu suất 70%, trong khi đó ở các nước khu vực là trên 90%. Năng suất lao động của công nhân thấp, ảnh hưởng đến chất lượng, chi phí và thời gian giao hàng của hàng may mặc xuất khẩu nước ta. Ngoài ra, vấn đề quản lý sản xuất, kinh doanh, khả năng nghiên cứu , tiếp cận , mở rộng thị trường của các doanh nghiệp may xuất khẩu nước ta cũng còn nhiều bất cập, còn phải xuất khẩu thông qua các trung gian là các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông…
Chương III
Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nước ta còn yếu trong khu vực và thế giới là do những nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng sản phẩm dệt may của Việt Nam còn thấp, giá thành cao, chưa chủ động về thị trường, tính cạnh tranh của sản phẩm không cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Như vậy, làm thế nào để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường quốc tế được đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao? Sau đây là những giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
I - Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Thứ nhất, các doanh nghiệp nên đầu tư xây dựng thiết bị nhà xưởng hiện đại, trang bị những thiết bị may hiện đại theo hướng tiếp cận với công nghệ cao trong thiết kế mẫu, trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và hạ giá thành.
Thứ hai, ngành dệt nên đầu tư trọng điểm để có những dây chuyền thiết bị với công nghệ sản xuất hiện đại, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, có chất lượng tốt, giá thành hạ, đủ khả năng cạnh tranh cung cấp cho ngành may mặc và phấn đấu đến năm 2010 có thể cung cấp 60-70% nguyên phụ liệu cho ngành may xuất khẩu, tạo điều kiện cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu. Trong khi còn phải nhập khẩu nguyên liệu, để chủ động cần thành lập các kho ngoại quan để các nhà cung cấp nguyên liệu nước ngoài dự trữ hàng có thể cung cấp kịp thời cho các doanh nghiệp khi ký kết được hợp đồng xuất khẩu có thể nhập ngay được nguyên liệu phục vụ sản xuất, đảm bảo được tiến độ giao hàng.
Thứ ba, các doanh nghiệp may phải vừa duy trì hoạt động gia công quốc tế, vừa phải đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp. Hoạt động gia công chủ yếu ở các doanh nghiệp có qui mô nhỏ ở các tỉnh, các doanh nghiệp có qui mô lớn ở TP.HCM và Hà Nội mà trước mắt là các công ty thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trực tiếp, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và đa dạng hoá thị trường, có chính sách để phát triển sản phẩm mới, thị trường mới.
Thứ tư, các doanh nghiệp trước khi nhận công nhân, cán bộ quản lý, kĩ sư thực hành, nhà thiết kế thời tranh, thiết kế mẫu mã…cần có biện pháp kiểm tra trình độ tay nghề, kĩ thuật, trình độ quản lý, thiết kế mẫu mã. Đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước và gửi đi đào tạo ở nước ngoài để có các nhà thiết kế chuyên nghiệp, có trình độ nắm bắt kịp thời với xu thế lớn trong ngành thời trang. Đặc biệt là mẫu mã, mốt thời trang quốc tế.
Thứ năm, các doanh nghiệp dệt may phải tự mình nâng cao tính cạnh tranh về thương hiệu sản phẩm, nâng cao uy tín nhãn hiệu sản phẩm để đưa dần sản phẩm dệt may lên đẳng cấp chất lượng cao. Trước tiên, mỗi doanh nghiệp cần xác định sản phẩm mũi nhọn và thị trường khách hàng mục tiêu để có chiến lược đầu tư và chính sách Marketing thích hợp . Tăng cường hoạt động tiếp thị một cách chủ động đồng thời kết hợp với chương trình xúc tiến thương mại của nhà nước để quảng bá thương hiệu , tuyên truyền, xúc tiến bán hàng và bán hàng trực tiếp cho các khách hàng ở các thị trường nhập khẩu lớn và tiềm năng.
Ngoài ra, khi xoá bỏ hạn ngàch hàng dệt may, có thể các nước phát triển sẽ có các quy định về môi trường, về lao động …Do đó, các doanh nghiệp không nhừng cần áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9000, mà còn phải áp dụng hệ thống quản lý môi trương ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000…để sản phẩm may mặc nước ta có khả năng cạnh tranh, đủ tiêu chuẩn đứng vững và phát triển trên thị trường quốc tế trong thời gian tới.
II- Kiến nghị với nhà nước và hiệp hội dệt may Việt Nam
1. Kiến nghị với nhà nước
Thứ nhất, nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt về lãi suất vay ưu đãi, thuế, thị trường…Để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhanh chóng mở rộng đầu tư nhằm tăng cường năng lực sản xuất của ngành dệt may bằng các biện pháp tài chính để giải quyết vốn đầu tư cho ngành dệt may trong tình hình hiện nay.Bên cạnh việc huy động tối đa nguồn lực của các doanh nghiệp thì nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn ngoài xã hội.
Thứ hai, nhà nước cần có các chính sách, biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp tháo gỡ được phần nào những khó khăn về nguyên phụ liệu đầu vào. Đặc biệt, nhà nước cần có những biện pháp để tạo điều kiện phát triển một số vùng trồng bông trọng điểm vì đây là nguồn nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt may, giúp cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất, nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, đảm bảo đúng tiến độ giao hàng.
Thứ ba, nhà nước cần đẩy mạnh xúc tiến thị trường thông qua việc khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở văn phòng thay mặt , chi nhánh, của hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hoá thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để các doanh nghiệp chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường ,xác lập hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm tại các thị trường lớn ,dặc biệt là thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản.
Thứ tư, nhà nước cần mở các trường đại học để mở lớp đào tạo dài hạn chuyên ngành quản lý có kiểm tra chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn và cấp bằng tốt nghiệp sau mỗi khoá học dùng làm cơ sở để tiêu chuẩn hoá cán bộ của ngành .Đồng thời, cấp kinh phí đào tạo cho các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc tại các doanh nghiệp. Dĩ nhiên, với nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của ngành, yêu cầu đòi hỏi của xu thế mới.
Thứ năm, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp dệt may nhanh chóng xác lập vầ đăng ký tiêu chuẩn quản lí chất lượng quốc tế(ISO 9000, ISO 14000, SA 8000…), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhãn, mã số, mã vạch theo qui chế và sớm đăng kí nhãn hiệu tại thị trường quốc tế.
2. Kiến nghị với Hiệp hội dệt may Việt Nam
Trong thời gian qua, Hiệp hội dệt may Việt Nam đã làm được một số việc như:đã kiến nghị với Chính phủ để giải quyết việc mở cửa thị trường dệt may với Mỹ, đã tham gia đàm phán với EU để tăng quota dệt may cho Việt Nam, mở của thị trường để việt Nam bình đẳng với các nước khác, quan hệ với các tổ chức nước ngoài quan tâm tới Việt Nam, tổ chức thông tin thị trường và cung cấp cho các doanh nghiệp, xúc tiến thương mại đã tập trung vào một số thị trường:Mỹ, EU, Nhật Bản…
Trong thời gian tới, Hiệp hội cần thu thập tình hình cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp để doanh nghiệp hoạch định chiến lược phát triển của mình. Hiệp hội cần thay mặt cho doanh nghiệp tác động đến Chính phủ, các ban ngành nhằm đưa ra đối sách, cơ chế thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và thay mặt cho doanh nghiệp tham gia với các tổ chức nước ngoài, với Hiệp hội dệt may thế giới, các tổ chức có vai trò tác động đến chính sách quốc tế với Việt Nam để tạo môi trường thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam phát triển. Hiệp hội nên có các hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách xây dựng, giới thiệu hình ảnh dệt may Việt nam trên thị trường quốc tế, xúc tiến cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo nên sức cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Do đó, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu là chiến lược lâu dài và hết sức khó khăn. Nhưng thực sự đó là hướng phát triển tích cực và đúng đắn trong bối cảnh cạnh tranh trong vô cùng khốc liệt trên thị trường quốc tế. Những việc mà chúng ta dã và dang tiến hành chỉ là “ Bước đi đầu tiên trên con đường đầy gian khó ấy”.
Đề án đã hoàn thành những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá các lí luận cơ bản về khả năng cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành và cuả doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
- Phân tích thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế: đưa ra tốc độ xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam, tình hình xuất khẩu và phân tích ma trận SWOT và khả năng cạnh tranh của hàng may Việt Nam.
- Phân tích những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó .
- Đề xuất một số giải pháp từ phía doanh nghiệp , Nhà nước và hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho DN dệt may Việt Nam .
Việc đưa ra các giải pháp là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển của DN dệt may việt nam đến năm 2010.
Em xin chân thành Thank sự hướng dẫn và góp ý tận tình của Thầy Nguyễn Xuân Điền đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Lời mở đầu 1
ChươngI: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh 3
I - Khái niệm 3
1. Cạnh tranh là gì? 3
2. Khả năng cạnh tranh là gì? 4
II - Phân loại khả năng cạnh tranh: 4
1. Khả năng cạnh tranh quốc gia 5
2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 5
3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm 5
III - Các nhân tố ảnh hưởng dến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may 6
1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 6
1.1. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn 6
1.2. Nhà cung ứng 7
1.3. Khách hàng 8
2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may 8
2.1. Marketing 8
2.2. Nguồn nhân lực 9
2.3. Tài chính 9
2.4. Cơ sở hạ tầng 9
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của DN dệt may Việt Nam 11
I-Tình hình xuất khẩu DN dệt may Việt Nam trong những năm qua 11
1. Tình hình xuất khẩu doanh nghiệp dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ 12
1.1. Kim ngạch xuất khẩu 12
1.2. Chủng loại hàng 13
2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 13
2.1. Kim ngạch xuất khẩu 13
2.2. Chủng loại hàng
Tình hình xuất khẩu doanh nghiệp dệt may 14
2.3. Kim ngạch xuất khẩu 14
2.4. Chủng loại hàng 14
III -Ma trận SWOT và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 16
IV - Hạn chế và nguyên nhân trong cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 19
1. Hạn chế: 19
1.1. Về chất lượng sản phẩm 19
1.2. Về giá 19
1.3. Về cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng 19
1.4. Về tiến độ giao hàng và hậu mãi 20
2. Nguyên nhân : 20
ChươngIII. Giải pháp cần tiến hành để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 22
I - Giải pháp từ phía doanh nghiệp 22
II – Kiến nghị với Nhà nước và Hiệp hội dệt may Việt Nam 23
1. Kiến nghị với Nhà nước 23
2. Kiến nghị với hiệp hội dệt may Việt Nam 25
Kết luận 26
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: