hanhthien2
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
LỜI NÓI ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU 2
I. NÊN HIỂU NHO GIÁO NHƯ THẾ NÀO?
II. NGUỒN GỐC CỦA NHO GIÁO 2
III. SƠ LƯỢC VỀ HỌC THUYẾT CỦA NHO GIÁO
CHƯƠNG 2: HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2
I. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHỤ - TỬ 2
II. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHU – THÊ 15
1. Vai trò gia đình 17
2. Vai trò xã hội 19
III. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ HUYNH – ĐỆ 21
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội càng phát triển, càng hiện đại, cuộc sống vật chất của con người càng được cải thiện. Với sự trợ giúp của rất nhiều loại phương tiện máy móc hiện đại, con người càng gần tới được ngưỡng cửa của sự sung sướng, ấm no. Trước đây trong xã hội Việt Nam, mọi người chỉ lo sao có đủ cơm ăn, áo mặc thì ngày nay mọi người lại phải nghĩ đến chuyện ăn sao cho ngon, cho có văn hóa, mặc sao cho đẹp, cho hợp thời trang. Cuộc sống vật chất sung sướng là vậy nhưng cũng chính vì phải chạy theo các lợi ích kinh tế, con người ngày càng ít thời gian quan tâm đến những chuẩn mực đạo đức, lề lối gia phong, tình làng nghĩa xóm. Kết quả tất yếu là cơ cấu gia đình trong xã hội lỏng lẻo hơn, mối quan hệ trong gia đình và xã hội của các thành viên từ đó cũng mất đi sự bền chặt vốn có của nó. Thậm chí trong nhiều trường hợp sự ích kỷ cá nhân, tranh giành vật chất còn mang lại sự bất hòa không đáng có giữa những người cùng chung huyết thống, cùng gánh chịu hoạn nạn. Đạo đức gia đình, nề nếp tổ tiên bị lu mờ trước sự cám dỗ của vật chất. Trước thực trạng đó, vấn đề cấp thiết phải đặt ra là làm sao dung hòa được lợi ích vật chất với những vẻ đẹp văn hóa, thuần phong mỹ tục và đặc biệt là chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội. Bài tiểu luận với chủ đề Học thuyết Nho giáo trong văn hóa gia đình Việt Nam được thực hiện với mong muốn làm cho người đọc hiểu được khái quát vẻ đẹp đạo đức truyền thống trong các mối quan hệ gia đình người Việt. Từ đó người đọc tự biết chắt lọc những đạo đức tốt đẹp xưa kết hợp với tư tưởng xã hội tiến bộ, áp dụng vào trong gia đình và cuộc sống hàng ngày của họ. Không tham vọng là tài liệu tham khảo toàn diện về tư tưởng Nho giáo trong quan hệ gia đình, bài viết chỉ hướng tới mục tiêu cung cấp cho người đọc những kiến thức nền tảng về Nho giáo, sự hình thành cũng như quan điểm đạo đức giữa các thành viên trong một gia đinh Nho giáo chuẩn mực.
Do quy mô của bài tiểu luận nên những hạn chế vẫn còn tồn tại là điều không tránh khỏi. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến.
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
I. NÊN HIỂU NHO GIÁO NHƯ THẾ NÀO?
Trên thực tế, có rất nhiều cách hiểu về Nho giáo. Tùy vào cấp độ nhận thức của con người, góc độ khoa học cụ thể mà có những cách hiểu khác nhau nhưng có đặc điểm chung là đều nhấn mạnh vào tính nhân đạo trong tư tưởng Nho giáo. Vậy Nho giáo có thể được hiểu khái quát như sau.
Theo nghĩa Hán tự thì chữ “Nho” (儒) trong Nho giáo được ghép từ hai chữ Nhân (người) và Nhu (cần dùng). Chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi và bất kỳ khi nào xã hội cần đến thì đem tài sức ra giúp đời. Như vậy, “Nho” là những người học thông thạo đạo lý của Thánh hiền, biết được lẽ Trời Đất và người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với đạo Trời, hợp với lòng người. Trong sách Pháp ngôn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho”, nghĩa là người hiểu rõ Thiên văn, am tường Địa lý mới gọi là Nho. Bởi vậy từ xưa đến nay những Nho sĩ sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân. Đức Khổng Tử là một tấm gương tiêu biểu, cả cuộc đời không màng vinh hoa phú quý, ông đi khắp nơi nhằm mở trường dạy học. Với tư tưởng nhân đạo, ông cho rằng phải giáo dục dân thì đất nước mới phồn thịnh.
“Giáo” (教) được hiểu là tôn giáo, mối đạo. Vì vậy, Nho giáo có thể hiểu là một học thuyết có hệ thống, có phương pháp, dạy về nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và xã hội. Cũng chính vì vậy mà Nho giáo là từ viết tắt của “Dĩ Nho học để giáo dân”, tức là lấy Nho học để giáo dân. Theo Đức Mạnh Tử thì bản tính của con người là do Trời phú nên là tính thiện “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Vì thế cần được giáo dưỡng thường xuyên thì mới có thể trở thành người có ích cho xã hội. Đức Khổng Tử lại cho rằng “Tính tương cận, tập tương viễn”, có nghĩa là con người khi sinh ra thì bản tính gần giống nhau nhưng do thói quen trong cuộc sống, do tồn tâm dưỡng tính của mỗi người khác nhau nên tính của mỗi người khác nhau. Khi dân đông thì điều quan trọng cần giáo dục họ.
Trong thời gian rất dài, hệ thống tư tưởng của Nho giáo chính là chuẩn mực đạo đức của xã hội một số nước Phương Đông. Nho giáo được đưa vào trường học và được coi là yếu tố bắt buộc để rèn Đức cho con người. Không những vậy có thể thấy Nho giáo hiện diện trong mọi mặt của đời sống xã hội và trở thành kim chỉ nam điều chỉnh hành vi của con người. Ở phương Đông nói chung chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc một cách sâu sắc, nhất là Việt Nam. Trung Quốc đô hộ Việt Nam hơn một nghìn năm nên đã đưa văn hóa, phong tục tập quán của mình vào nhằm biến Việt Nam thành một vùng đất cai quản. Trong sự du nhập văn hóa thì Nho giáo có vị trí khá cao trong xã hội Việt Nam và đặc biệt Nho giáo ảnh hưởng tới mô hình gia đình một cách sâu sắc.
II. NGUỒN GỐC CỦA NHO GIÁO
Sự phát kiến ra văn minh Trung Hoa là công của thế kỷ 18, “thế kỷ ánh sáng”. Diderot, một triết gia Pháp ở thế kỷ 13 đã nhận xét về người Trung Hoa như sau: “Mọi người đều công nhận rằng dân tộc ấy văn minh hơn hết thảy các dân tộc khác ở Châu Á: lịch sử họ cổ hơn, tinh thần, nghệ thuật tiến bộ hơn, họ minh triết hơn, thích triết lí, chính trị của họ hoàn hảo hơn; và vài tác giả còn bảo rằng về tất cả các phương diện ấy họ không kém các xứ văn minh nhất Châu Âu”. Trong một cuốn sách của Keyserling, ông kết luận rằng “Chính ở Trung Quốc thời thượng cổ người ta đã tạo ra được cái mẫu mực nhân loại thông thường hoàn toàn nhất…Trung Quốc đã tạo ra một nền văn hóa cao nhất từ trước đến nay…tui càng ngày càng ngạc nhiên, cảm kích về sự cao quý của Trung Quốc…Những danh nhân xứ đó có giáo dục hơn các danh nhân chúng ta rất nhiều…Những ông quan đó có tư cách thật cao, khiến chúng ta phải phục…Giới trí thức Trung Hoa thật là cực kỳ nhã nhặn, lễ độ!...Không còn nghi ngờ gì nữa, người Trung Hoa có lẽ là người thâm trầm nhất.”. Để có được những cái tinh hoa như vậy thì Trung Quốc đã phải trải qua những biến động to lớn. Nhưng cũng chính nhờ những biến động trong xã hội thời bấy giờ mà con người mong muốn tìm được giải pháp để bình ổn xã hội, và đã có nhiều tư tưởng đã ra đời tạo nên sự khởi sắc của các học thuyết chính trị trong lẽ sống làm người của họ, đặc biệt là hệ thống triết học.
Theo nhiều tư liệu khác nhau, người ta vẫn khẳng định rằng triết học Trung Quốc xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Trong lịch sử, thời kỳ này được gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc (chiến tranh loạn lạc), thời kỳ xã hội Trung Quốc diễn ra nhiều biến động to lớn, thời kỳ giải thể chế độ chiếm hữu nô lệ chuyển sang chế độ phong kiến. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là kinh tế. Thời kỳ này, lực lượng sản xuất phát triển, sử dụng và chế tạo công cụ bằng sắt, sử dụng các con vật vào trong quá trình sản xuất đem lại năng suất lao động cao. Chính sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp dẫn đến sự phát triển trong sản xuất công nghiệp, các đô thị lớn, trung tâm kinh tế lớn, và trung tâm giao lưu kinh tế và văn hóa ra đời ảnh hưởng và tác động đến chế độ sở hữu và làm xuất hiện giai cấp mới và những mâu thuẫn giai cấp. Các giai cấp này đấu tranh với nhau tạo nên cục diện gọi là Xuân thu chiến quốc. Cục diện này làm rối loạn từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Thực tế, các vua chư hầu có thực quyền vượt qua thiên tử. Rồi tình trạng bề tui giết vua, vua giết bề tui liên tục xảy ra. Trong gia đình thì cha không ra cha, vợ không ra vợ…Vấn đề chính trị thực tiễn đặt ra là phải làm gì và bằng cách gì để khắc phục tình trạng rối loạn, khôi phục lại xã hội như thời vua Nghiêu, vua Thuấn và đặc biệt là phải đưa xã hội Trung Hoa phát triển đi lên. Chính vì để giải đáp những thực tiễn ấy làm xuất hiện cảnh giới Bách gia tranh minh, Bách gia tri tử.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
LỜI NÓI ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU 2
I. NÊN HIỂU NHO GIÁO NHƯ THẾ NÀO?
II. NGUỒN GỐC CỦA NHO GIÁO 2
III. SƠ LƯỢC VỀ HỌC THUYẾT CỦA NHO GIÁO
CHƯƠNG 2: HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2
I. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHỤ - TỬ 2
II. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHU – THÊ 15
1. Vai trò gia đình 17
2. Vai trò xã hội 19
III. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ HUYNH – ĐỆ 21
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội càng phát triển, càng hiện đại, cuộc sống vật chất của con người càng được cải thiện. Với sự trợ giúp của rất nhiều loại phương tiện máy móc hiện đại, con người càng gần tới được ngưỡng cửa của sự sung sướng, ấm no. Trước đây trong xã hội Việt Nam, mọi người chỉ lo sao có đủ cơm ăn, áo mặc thì ngày nay mọi người lại phải nghĩ đến chuyện ăn sao cho ngon, cho có văn hóa, mặc sao cho đẹp, cho hợp thời trang. Cuộc sống vật chất sung sướng là vậy nhưng cũng chính vì phải chạy theo các lợi ích kinh tế, con người ngày càng ít thời gian quan tâm đến những chuẩn mực đạo đức, lề lối gia phong, tình làng nghĩa xóm. Kết quả tất yếu là cơ cấu gia đình trong xã hội lỏng lẻo hơn, mối quan hệ trong gia đình và xã hội của các thành viên từ đó cũng mất đi sự bền chặt vốn có của nó. Thậm chí trong nhiều trường hợp sự ích kỷ cá nhân, tranh giành vật chất còn mang lại sự bất hòa không đáng có giữa những người cùng chung huyết thống, cùng gánh chịu hoạn nạn. Đạo đức gia đình, nề nếp tổ tiên bị lu mờ trước sự cám dỗ của vật chất. Trước thực trạng đó, vấn đề cấp thiết phải đặt ra là làm sao dung hòa được lợi ích vật chất với những vẻ đẹp văn hóa, thuần phong mỹ tục và đặc biệt là chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội. Bài tiểu luận với chủ đề Học thuyết Nho giáo trong văn hóa gia đình Việt Nam được thực hiện với mong muốn làm cho người đọc hiểu được khái quát vẻ đẹp đạo đức truyền thống trong các mối quan hệ gia đình người Việt. Từ đó người đọc tự biết chắt lọc những đạo đức tốt đẹp xưa kết hợp với tư tưởng xã hội tiến bộ, áp dụng vào trong gia đình và cuộc sống hàng ngày của họ. Không tham vọng là tài liệu tham khảo toàn diện về tư tưởng Nho giáo trong quan hệ gia đình, bài viết chỉ hướng tới mục tiêu cung cấp cho người đọc những kiến thức nền tảng về Nho giáo, sự hình thành cũng như quan điểm đạo đức giữa các thành viên trong một gia đinh Nho giáo chuẩn mực.
Do quy mô của bài tiểu luận nên những hạn chế vẫn còn tồn tại là điều không tránh khỏi. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến.
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
I. NÊN HIỂU NHO GIÁO NHƯ THẾ NÀO?
Trên thực tế, có rất nhiều cách hiểu về Nho giáo. Tùy vào cấp độ nhận thức của con người, góc độ khoa học cụ thể mà có những cách hiểu khác nhau nhưng có đặc điểm chung là đều nhấn mạnh vào tính nhân đạo trong tư tưởng Nho giáo. Vậy Nho giáo có thể được hiểu khái quát như sau.
Theo nghĩa Hán tự thì chữ “Nho” (儒) trong Nho giáo được ghép từ hai chữ Nhân (người) và Nhu (cần dùng). Chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi và bất kỳ khi nào xã hội cần đến thì đem tài sức ra giúp đời. Như vậy, “Nho” là những người học thông thạo đạo lý của Thánh hiền, biết được lẽ Trời Đất và người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với đạo Trời, hợp với lòng người. Trong sách Pháp ngôn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho”, nghĩa là người hiểu rõ Thiên văn, am tường Địa lý mới gọi là Nho. Bởi vậy từ xưa đến nay những Nho sĩ sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân. Đức Khổng Tử là một tấm gương tiêu biểu, cả cuộc đời không màng vinh hoa phú quý, ông đi khắp nơi nhằm mở trường dạy học. Với tư tưởng nhân đạo, ông cho rằng phải giáo dục dân thì đất nước mới phồn thịnh.
“Giáo” (教) được hiểu là tôn giáo, mối đạo. Vì vậy, Nho giáo có thể hiểu là một học thuyết có hệ thống, có phương pháp, dạy về nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và xã hội. Cũng chính vì vậy mà Nho giáo là từ viết tắt của “Dĩ Nho học để giáo dân”, tức là lấy Nho học để giáo dân. Theo Đức Mạnh Tử thì bản tính của con người là do Trời phú nên là tính thiện “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Vì thế cần được giáo dưỡng thường xuyên thì mới có thể trở thành người có ích cho xã hội. Đức Khổng Tử lại cho rằng “Tính tương cận, tập tương viễn”, có nghĩa là con người khi sinh ra thì bản tính gần giống nhau nhưng do thói quen trong cuộc sống, do tồn tâm dưỡng tính của mỗi người khác nhau nên tính của mỗi người khác nhau. Khi dân đông thì điều quan trọng cần giáo dục họ.
Trong thời gian rất dài, hệ thống tư tưởng của Nho giáo chính là chuẩn mực đạo đức của xã hội một số nước Phương Đông. Nho giáo được đưa vào trường học và được coi là yếu tố bắt buộc để rèn Đức cho con người. Không những vậy có thể thấy Nho giáo hiện diện trong mọi mặt của đời sống xã hội và trở thành kim chỉ nam điều chỉnh hành vi của con người. Ở phương Đông nói chung chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc một cách sâu sắc, nhất là Việt Nam. Trung Quốc đô hộ Việt Nam hơn một nghìn năm nên đã đưa văn hóa, phong tục tập quán của mình vào nhằm biến Việt Nam thành một vùng đất cai quản. Trong sự du nhập văn hóa thì Nho giáo có vị trí khá cao trong xã hội Việt Nam và đặc biệt Nho giáo ảnh hưởng tới mô hình gia đình một cách sâu sắc.
II. NGUỒN GỐC CỦA NHO GIÁO
Sự phát kiến ra văn minh Trung Hoa là công của thế kỷ 18, “thế kỷ ánh sáng”. Diderot, một triết gia Pháp ở thế kỷ 13 đã nhận xét về người Trung Hoa như sau: “Mọi người đều công nhận rằng dân tộc ấy văn minh hơn hết thảy các dân tộc khác ở Châu Á: lịch sử họ cổ hơn, tinh thần, nghệ thuật tiến bộ hơn, họ minh triết hơn, thích triết lí, chính trị của họ hoàn hảo hơn; và vài tác giả còn bảo rằng về tất cả các phương diện ấy họ không kém các xứ văn minh nhất Châu Âu”. Trong một cuốn sách của Keyserling, ông kết luận rằng “Chính ở Trung Quốc thời thượng cổ người ta đã tạo ra được cái mẫu mực nhân loại thông thường hoàn toàn nhất…Trung Quốc đã tạo ra một nền văn hóa cao nhất từ trước đến nay…tui càng ngày càng ngạc nhiên, cảm kích về sự cao quý của Trung Quốc…Những danh nhân xứ đó có giáo dục hơn các danh nhân chúng ta rất nhiều…Những ông quan đó có tư cách thật cao, khiến chúng ta phải phục…Giới trí thức Trung Hoa thật là cực kỳ nhã nhặn, lễ độ!...Không còn nghi ngờ gì nữa, người Trung Hoa có lẽ là người thâm trầm nhất.”. Để có được những cái tinh hoa như vậy thì Trung Quốc đã phải trải qua những biến động to lớn. Nhưng cũng chính nhờ những biến động trong xã hội thời bấy giờ mà con người mong muốn tìm được giải pháp để bình ổn xã hội, và đã có nhiều tư tưởng đã ra đời tạo nên sự khởi sắc của các học thuyết chính trị trong lẽ sống làm người của họ, đặc biệt là hệ thống triết học.
Theo nhiều tư liệu khác nhau, người ta vẫn khẳng định rằng triết học Trung Quốc xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Trong lịch sử, thời kỳ này được gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc (chiến tranh loạn lạc), thời kỳ xã hội Trung Quốc diễn ra nhiều biến động to lớn, thời kỳ giải thể chế độ chiếm hữu nô lệ chuyển sang chế độ phong kiến. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là kinh tế. Thời kỳ này, lực lượng sản xuất phát triển, sử dụng và chế tạo công cụ bằng sắt, sử dụng các con vật vào trong quá trình sản xuất đem lại năng suất lao động cao. Chính sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp dẫn đến sự phát triển trong sản xuất công nghiệp, các đô thị lớn, trung tâm kinh tế lớn, và trung tâm giao lưu kinh tế và văn hóa ra đời ảnh hưởng và tác động đến chế độ sở hữu và làm xuất hiện giai cấp mới và những mâu thuẫn giai cấp. Các giai cấp này đấu tranh với nhau tạo nên cục diện gọi là Xuân thu chiến quốc. Cục diện này làm rối loạn từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Thực tế, các vua chư hầu có thực quyền vượt qua thiên tử. Rồi tình trạng bề tui giết vua, vua giết bề tui liên tục xảy ra. Trong gia đình thì cha không ra cha, vợ không ra vợ…Vấn đề chính trị thực tiễn đặt ra là phải làm gì và bằng cách gì để khắc phục tình trạng rối loạn, khôi phục lại xã hội như thời vua Nghiêu, vua Thuấn và đặc biệt là phải đưa xã hội Trung Hoa phát triển đi lên. Chính vì để giải đáp những thực tiễn ấy làm xuất hiện cảnh giới Bách gia tranh minh, Bách gia tri tử.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links