kelangbat2002
New Member
Download miễn phí Đề tài Khủng hoảng tài chính trong khu vực và tác động của nó trước Việt Nam
IMF chịu trách nhiệm bảo vệ sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Vì vậy, vai trò trung tâm của IMF trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là rất rõ ràng và đã được tái khẳng định bởi cộng đồng quốc tế trên nhiều diễn đàn đa phương. Ưu tiên của IMF cũng rất rõ ràng: Khôi phục lòng tin vào các nền kinh tế bị khủng hoảng tác động.
Phản ứng tức thì của IMF với cuộc khủng hoảng nhằm khôi phục lòng tin vào các quốc gia bị ảnh hưởng gồm các hoạt động cụ thể như sau:
Áp dụng cách tỷ giá hối đoái linh hoạt ở những nơi chưa sử dụng cách này:
- Tạm thời thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế áp lực đối với cán cân thanh toán.
- Hành động tức thì để khắc phục những đặc điểm dễ thấy trong hệ thống tài chính, đã cấu thành những yếu tố chính gây nên khủng hoảng.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2013-11-25-de_tai_khung_hoang_tai_chinh_trong_khu_vuc_va_tac.dzLgQaQRtA.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-47112/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
các hoạt động rủi ro hơn để nhằm kiếm được những khoản lợi nhuận khá hơn.* Nhóm nguyên nhân thứ ba: Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực.
- Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á, đặc biệt là Mỹ.
- Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi phồng các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ cũng đưa lượng cung bản tệ lên quá cao.Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng truởng GDP.
- Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất khẩu của các nước Đông nam Á. Điều đó làm cho hàng hoá của những nước này mất đi lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, xuất khẩu đình trệ.
- Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm trên thị trường thế giới mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước Châu Á chưa thể thích ứng kịp trong ngày một ngày hai.
Tóm lại ,xét cho cùng thì những nguyên nhân từ phía bản thân các nước đang chịu khủng hoảng nặng nề mới là lýdo chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này.
2. Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng:
Không cần nói nhiều thì chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà cuộc khủng hoảng đã để lại cho các nước Châu Á. Tuỳ theo tình hình thực tế ở mỗi nước, mỗi khu vực khác nhau mà hậu quả để lại cũng khác nhau. Song nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã tác động đến các nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế theo hai hướng khác nhau: các tác động tích cực và các tác động tiêu cực.
2.1. Các tác động tiêu cực:
Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nẳm trong khu vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng tiền và của các thị trường tiền tệ ở mỗi nước và khu vực: là sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ vào mỗi nước và toàn khu vực, là sự giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả những điều đó đã làm cho giảm sút tốc độ tăng trưởng của các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng lai. Sự gắng gỏi giữ giá bản tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ ngoại tệ của nhà nước, đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình trạng thất nghiệp tăng nhanh, lạm phát cao.
Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoan tăng trưởng kinh tế nhanh, kéo dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước đang phát triển khu vực, để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với nhịp độ tăng trưởng ôn hoà hơn.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế giới khoảng 500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được nhưng tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính toán khoảng 150 tỷ USD đã bị rút khỏi Đông nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoai giảm niềm tin. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và tiếp tục giảm ở mức thấp trong những năm tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra.
Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên vai các công ty - con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của chúng, nhất là đối với các Công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Ở Inđônêxia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài /GDP đã nhảy từ 35% lên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản. Tình hình “bong bóng bất động sản” vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi hay giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó bán.
Khủng hoảng cũng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các nước trong khu vực(gấp đôi trong năm 1998 so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc và Inđônxia …) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do đó thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng hoảng.
2. 2. Các tác động tích cực:
Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt các tác động xấu vô cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó,nó cũng mang lại những tác động tích cực. Đó là đem toàn bộ nền kinh tế châu á nói chung và Đông Nam Á, Đông Bắc Á nói riêng sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng nóng trước đó.
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Thứ hai, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục vụ cho mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá hơn nền tài chính quốc gia. Có thể nói cuộc khủng hoảng sẽ như một cú “động” mạnh để xốc lại nền kinh tế cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả. Toàn bộ nền kinh tế sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của khủng hoảng sẽ có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện hơn, do đó hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần và là dịp để chính phủ và nhân dân mỗi nước thuộc khu vực cũng như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế bổ khuyết những thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về những yếu tố thuộc con người… từ đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế.
Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng cũng chuyển dịch vị thế về kinh tế chính trị truyền thống của các cường quốc tại khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Asean vầ Mỹ, châu Âu.
3. Diễn biến ở một số nước
3.1. Thái Lan – Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng:
Trước cuộc khủng hoảng Thái Lan có một nền kinh tế dường như rất mạnh, với tốc độ tăng trưởng ổn định và được coi là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan được xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của Châu Á, lạm phát thấp ngân sách chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt, tình trạng thất nghiệp hầu như không có.
Thực tế của hình ảnh mạnh mẽ này lại che giấu nhiều vấn đề nghiêm trọng bên trong. Do nhận thức muộn mằn, thiếu một sự quản lý tốt kể cả sự quản lý ở cấp chính phủ lẫn cấp công ty, việc tự do hoá về tài chính các thị trường vốn trở nên dễ bị tác động bởi các cuộc tấn công của ho...