Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC MỸ TRƯỚC KHI GIÀNH ĐỘC LẬP 0
II. NỀN KINH TẾ NƯỚC MỸ THỜI KÌ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TRƯỚC ĐỘC QUYỀN (1776 – 1865) 3
1. Công cuộc di thực bành trướng đất đai, mở rộng thị trường 3
2. Cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển kinh tế nước Mỹ 4
III. KINH TẾ NƯỚC MỸ TRONG THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN (TỪ 1865 ĐẾN NAY) 8
1. Thời kỳ bủng nổ kinh tế Mỹ (1865-1913) 8
2. Kinh tế Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945 - 1973) 10
3. Kinh tế Mỹ từ 1974 đến nay. 12
MỤC LỤC 18
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC MỸ TRƯỚC KHI GIÀNH ĐỘC LẬP
Lịch sử nước Mỹ bắt đầu cách đây khoảng hơn 200 năm (kể từ năm 1776/khi đại hội lục địa Bắc Mỹ thông qua tuyên ngôn độc lập với việc thành lập hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Thực ra nền văn hoá Mỹ bắt đầu từ những cư dân bản địa, là người da đỏ (thường gọi là người Indian) căn cứ vào kết quả khảo cứu của các nhà nhân chủng học và khảo cổ học thì người da đỏ vốn từ châu Á thiên di sang cách đây khoảng 25.000 năm. Họ vượt qua eo biển Rering và Alaska rồi từ đó vào Bắc Mỹ, nhìn chung đời sống văn hoá của họ còn thấp kém, họ sống thành bộ lạc đất đai sở hữu chung. Với việc bầu cử dân chủ, công bằng đã chọn ra được những thủ lĩnh có tài, có khả năng đoàn kết bộ lạc, đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của ngoại xâm, lúc này nguồn sống chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm, trồng trọt chăn nuôi. Tình hình xã hội lúc này chưa có giai cấp, chưa có sự phân biệt giàu nghèo, chưa có sự tranh giành quyền lực.
Sau khi phát kiến địa lý vĩ đại của Critxtop côlông (Clrristopher Columbus) vào cuối thế kỷ XV (1492) người dân châu Âu lần lượt chen chân lên nước Mỹ mà trong lịch sử gọi đó là “khẩn thực”.
Người Tây Ban Nha là người đầu tiên mở đường cho công cuộc khẩn thực ở đây. Tiếp theo người Tây Ban Nha và người Hà Lan từ đầu thế kỷ XVII người Thuỵ Điển vào cuối những năm 30 của thế kỷ XVII. Tuy nhiên cuộc khẩn thực của người Anh là mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XVII (1607) và chiến thắng các quốc gia khác.
Đến năm 1752 nước Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa với khoảng 1,3 triệu người và tiếng Anh trở thành tiếng phổ biến rộng rãi ở Bắc Mỹ.
Sở dĩ nước Anh chiến thắng trong công cuộc xâm thực là do ưu thế của nước Anh về kinh tế và quân sự, mặt khác cuộc cách mạng ruộng đất ở nước Anh diễn ra một cách tàn bạo triệt để vào thế kỷ XVI - XVII làm cho nhiều người nông dân bị mất vườn ruộng phải tìm dờng di cư sang Mỹ. Vào thế kỷ XVIII hàng nghìn nông dân Anh ồ ạt di cư sang Mỹ hy vọng trở thành những chủ ruộng, canh tác trong nông nghiệp tạo cơ sở cho nông nghiệp phát triển ở Bắc Mỹ sau này.
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên kinh tế và xã hội thuộc địa của nước Anh ở Mỹ được chia thành bà vùng khác nhau.
Các vùng thuộc địa phía Bắc còn gọi là nước Anh mới (New England), điều kiện đất dâi, khí hậu không thuận lợi bắng phía Nam. Ở đây thuận lợi cho chăn nuôi, đánh cá, trồng ngô và lúa mỳ đen... phát triển công thương nghiệp. Chế độ chính trị ở vùng thuộc địa phía Bắc dân chủ hơn so với miền trung và miền Nam. Quyền lực lúc này nằm trong trong tay tư bản công thương nghiệp. Các vùng thuộc địa miền Trung là nới sinh sống những người nông dân tự do và các chủ ấp trại. Ở vùng này thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp, cây lương thực và chăn uôi. Việc sử dụng đất đai ở đây được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tự do hay Chính phủ cấp cho dân cư sử dụng với mức thuế thấp.
Các vùng thuộc địa phía Nam, đất đai màu mỡ thuận lợi cho trồng trọt và chăn nuôi. Cơ sở kinh tế ở đây là các đồn điền, có đồn điền rộng tới 26.000 acre, lực lượng lao động chủ yếu trong các đồn điền là nô lệ da đen. 1800 nô lệ da đen làm việc trong các đồn điền phía nam lên tới 90 vạn người, ở đây công thương nghiệp phát triển một cách yếu ớt. Lực lượng nắm quyền lực ở đây là các chủ đồn điển.
Qua các sự các điều kiện và sự phát triển kinh tế trên, nhìn chung kinh tế Mỹ trong thời kỳ thống trị của thực dân Anh cho đến cuối thế kỷ XVIII nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Vùng thuộc địa phía Bắc tiến bộ hơn, nhưng 90% dân số vẫn sống bằng nghề nông, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, chủ yếu dựa vào bóc lột sức lao động rẻ mạt của nô lệ và dân cùng kiệt làm thuê. Nước Anh thực hiện chính sách kìm hãm Bắc Mỹ, lệ thuộc về kinh tế và chính trị.
Về kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp Chính phủ Anh ban hành đạo luật như cấm đưa vào Bắc Mỹ máy móc, mẫu hàng sáng chế, thợ cả năm 1750 “đạo luật về săt” cấm xây dựng các cơ sở sản xuất sắt thép, xưởng rèn lớn, lò nấu thép - Chính phủ Anh còn ngăn cấm Mỹ buôn bán với nước khác, cũng như giữa các thuộc địa với nhau. Chính sách thuế khoá ngày càng gây khó khăn cho sản xuất công nghiệp, thương nghiệp, chính phủ đã ban hành nhiều đạo luật quy định với Bắc Mỹ. Trong đó có đạo luật quy định hàng hoá của các nước châu Âu vào Bắc Mỹ bị đánh thuế nặng, hàng hoá của Bắc Mỹ trao đổi ra nước ngoài phải chuyển trở bằng tàu của Anh.
Nên công thương nghiệp lúc này không thể phát triển được một phần cho Chính phủ Anh ban ra các đạo luật quá khắt khe, một phần do không có sự đầu tư, quan tâm tới sự phát triển. Trong khi đó Chính phủ Anh chỉ biết có bóc lột mà không đầu tư cho phát triển.
Về chính trị: nước Anh chia thuộc địa thành 2 loại: những vùng được hưởng đặc quyền của nhf vua như Mêrilen (Maryland) Pôtailen (Rhodeisland) Conmêchticơt là những vùng tự trị ở các vùng khác Chính phủ Anh trực tiếp cử các thống đốc cai trị, 13 vùng thuộc địa không có luật pháp riêng mà phải tuân theo luật pháp của nước Anh. Quyền tự do dân chủ của dân cư bị hạn chế, chỉ có quý tộc giàu có (chiếm 2-9% dân cư) mới có quyền bầu cử, người nô lệ, người da đỏ không có quyền công dân. Nhà nước Anh còn có chính sách bảo vệ quyền lợi cho tầng lớp quý tộc và địa chủ. Như việc khôi phục và áp đặt quan hệ sở hữu ruộng đất mới. Vua Anh đã phông phong những vùng đất mới cho quý tộc. Có vùng rộng lớn tới hàng vạn km2. Đặc biệt năm 1763 chính phủ Anh đạo luật quy định những đất đai từ dãy núi Alơqhêri trở về phía Tây đều thuộc về nữ hoàng anh. Đạo luật này đã gây lên làn sóng bất bình của những người dân di thực từ châu Âu sang Bắc Mỹ với nguyện vọng thành lập trang trại trên cơ sở sở hữu cá nhân về ruộng đất.
Nhìn chung những thống trị của nước Anh ở Bắc Mỹ đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế, tình trạng này kéo dài dẫn tới mâu thuẫn gay gắt giữa các thuộc địa Bắc Mỹ với chính sách thống trị của thực dân Anh. Về mặt xã hội, những cư dân ở nhiều nước châu Âu vì những lí do khác nhau, tới sinh cơ lập nghiệp ở Bắc Mỹ có nguyện vọng thoát khỏi chế độ thống trị của thực dân Anh, để hình thành quốc gia độc lập. Chính trong xu hướng đó vào tháng 4/7/1776 đại hội lục địa đã thông qua và công bố bản tuyên ngôn độc lập. Đây là mốc đánh dấu Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ra đời Casinhtơn (washington) được bầu làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ.
Cuộc chiến tranh còn kéo dài thêm một thời gian nữa. Ngày 3/9/1783 nước Anh đã ký vào hiệp ước Xecxai thừa nhận nền độc lập của hợp chủng quốc Hoa Kỳ đánh dấu cuộc (đấu tranh giành độc lập tự do cho nhân dân Bắc Mỹ. Trên một vùng lãnh thổ rộng lớn hơn 2,3 triệu km2. Hoa Kỳ là quốc gia tư sản đầu tiên ở Bắc Mý.
II. NỀN KINH TẾ NƯỚC MỸ THỜI KÌ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TRƯỚC ĐỘC QUYỀN (1776 – 1865)
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC MỸ TRƯỚC KHI GIÀNH ĐỘC LẬP 0
II. NỀN KINH TẾ NƯỚC MỸ THỜI KÌ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TRƯỚC ĐỘC QUYỀN (1776 – 1865) 3
1. Công cuộc di thực bành trướng đất đai, mở rộng thị trường 3
2. Cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển kinh tế nước Mỹ 4
III. KINH TẾ NƯỚC MỸ TRONG THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN (TỪ 1865 ĐẾN NAY) 8
1. Thời kỳ bủng nổ kinh tế Mỹ (1865-1913) 8
2. Kinh tế Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945 - 1973) 10
3. Kinh tế Mỹ từ 1974 đến nay. 12
MỤC LỤC 18
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC MỸ TRƯỚC KHI GIÀNH ĐỘC LẬP
Lịch sử nước Mỹ bắt đầu cách đây khoảng hơn 200 năm (kể từ năm 1776/khi đại hội lục địa Bắc Mỹ thông qua tuyên ngôn độc lập với việc thành lập hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Thực ra nền văn hoá Mỹ bắt đầu từ những cư dân bản địa, là người da đỏ (thường gọi là người Indian) căn cứ vào kết quả khảo cứu của các nhà nhân chủng học và khảo cổ học thì người da đỏ vốn từ châu Á thiên di sang cách đây khoảng 25.000 năm. Họ vượt qua eo biển Rering và Alaska rồi từ đó vào Bắc Mỹ, nhìn chung đời sống văn hoá của họ còn thấp kém, họ sống thành bộ lạc đất đai sở hữu chung. Với việc bầu cử dân chủ, công bằng đã chọn ra được những thủ lĩnh có tài, có khả năng đoàn kết bộ lạc, đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của ngoại xâm, lúc này nguồn sống chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm, trồng trọt chăn nuôi. Tình hình xã hội lúc này chưa có giai cấp, chưa có sự phân biệt giàu nghèo, chưa có sự tranh giành quyền lực.
Sau khi phát kiến địa lý vĩ đại của Critxtop côlông (Clrristopher Columbus) vào cuối thế kỷ XV (1492) người dân châu Âu lần lượt chen chân lên nước Mỹ mà trong lịch sử gọi đó là “khẩn thực”.
Người Tây Ban Nha là người đầu tiên mở đường cho công cuộc khẩn thực ở đây. Tiếp theo người Tây Ban Nha và người Hà Lan từ đầu thế kỷ XVII người Thuỵ Điển vào cuối những năm 30 của thế kỷ XVII. Tuy nhiên cuộc khẩn thực của người Anh là mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XVII (1607) và chiến thắng các quốc gia khác.
Đến năm 1752 nước Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa với khoảng 1,3 triệu người và tiếng Anh trở thành tiếng phổ biến rộng rãi ở Bắc Mỹ.
Sở dĩ nước Anh chiến thắng trong công cuộc xâm thực là do ưu thế của nước Anh về kinh tế và quân sự, mặt khác cuộc cách mạng ruộng đất ở nước Anh diễn ra một cách tàn bạo triệt để vào thế kỷ XVI - XVII làm cho nhiều người nông dân bị mất vườn ruộng phải tìm dờng di cư sang Mỹ. Vào thế kỷ XVIII hàng nghìn nông dân Anh ồ ạt di cư sang Mỹ hy vọng trở thành những chủ ruộng, canh tác trong nông nghiệp tạo cơ sở cho nông nghiệp phát triển ở Bắc Mỹ sau này.
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên kinh tế và xã hội thuộc địa của nước Anh ở Mỹ được chia thành bà vùng khác nhau.
Các vùng thuộc địa phía Bắc còn gọi là nước Anh mới (New England), điều kiện đất dâi, khí hậu không thuận lợi bắng phía Nam. Ở đây thuận lợi cho chăn nuôi, đánh cá, trồng ngô và lúa mỳ đen... phát triển công thương nghiệp. Chế độ chính trị ở vùng thuộc địa phía Bắc dân chủ hơn so với miền trung và miền Nam. Quyền lực lúc này nằm trong trong tay tư bản công thương nghiệp. Các vùng thuộc địa miền Trung là nới sinh sống những người nông dân tự do và các chủ ấp trại. Ở vùng này thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp, cây lương thực và chăn uôi. Việc sử dụng đất đai ở đây được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tự do hay Chính phủ cấp cho dân cư sử dụng với mức thuế thấp.
Các vùng thuộc địa phía Nam, đất đai màu mỡ thuận lợi cho trồng trọt và chăn nuôi. Cơ sở kinh tế ở đây là các đồn điền, có đồn điền rộng tới 26.000 acre, lực lượng lao động chủ yếu trong các đồn điền là nô lệ da đen. 1800 nô lệ da đen làm việc trong các đồn điền phía nam lên tới 90 vạn người, ở đây công thương nghiệp phát triển một cách yếu ớt. Lực lượng nắm quyền lực ở đây là các chủ đồn điển.
Qua các sự các điều kiện và sự phát triển kinh tế trên, nhìn chung kinh tế Mỹ trong thời kỳ thống trị của thực dân Anh cho đến cuối thế kỷ XVIII nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Vùng thuộc địa phía Bắc tiến bộ hơn, nhưng 90% dân số vẫn sống bằng nghề nông, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, chủ yếu dựa vào bóc lột sức lao động rẻ mạt của nô lệ và dân cùng kiệt làm thuê. Nước Anh thực hiện chính sách kìm hãm Bắc Mỹ, lệ thuộc về kinh tế và chính trị.
Về kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp Chính phủ Anh ban hành đạo luật như cấm đưa vào Bắc Mỹ máy móc, mẫu hàng sáng chế, thợ cả năm 1750 “đạo luật về săt” cấm xây dựng các cơ sở sản xuất sắt thép, xưởng rèn lớn, lò nấu thép - Chính phủ Anh còn ngăn cấm Mỹ buôn bán với nước khác, cũng như giữa các thuộc địa với nhau. Chính sách thuế khoá ngày càng gây khó khăn cho sản xuất công nghiệp, thương nghiệp, chính phủ đã ban hành nhiều đạo luật quy định với Bắc Mỹ. Trong đó có đạo luật quy định hàng hoá của các nước châu Âu vào Bắc Mỹ bị đánh thuế nặng, hàng hoá của Bắc Mỹ trao đổi ra nước ngoài phải chuyển trở bằng tàu của Anh.
Nên công thương nghiệp lúc này không thể phát triển được một phần cho Chính phủ Anh ban ra các đạo luật quá khắt khe, một phần do không có sự đầu tư, quan tâm tới sự phát triển. Trong khi đó Chính phủ Anh chỉ biết có bóc lột mà không đầu tư cho phát triển.
Về chính trị: nước Anh chia thuộc địa thành 2 loại: những vùng được hưởng đặc quyền của nhf vua như Mêrilen (Maryland) Pôtailen (Rhodeisland) Conmêchticơt là những vùng tự trị ở các vùng khác Chính phủ Anh trực tiếp cử các thống đốc cai trị, 13 vùng thuộc địa không có luật pháp riêng mà phải tuân theo luật pháp của nước Anh. Quyền tự do dân chủ của dân cư bị hạn chế, chỉ có quý tộc giàu có (chiếm 2-9% dân cư) mới có quyền bầu cử, người nô lệ, người da đỏ không có quyền công dân. Nhà nước Anh còn có chính sách bảo vệ quyền lợi cho tầng lớp quý tộc và địa chủ. Như việc khôi phục và áp đặt quan hệ sở hữu ruộng đất mới. Vua Anh đã phông phong những vùng đất mới cho quý tộc. Có vùng rộng lớn tới hàng vạn km2. Đặc biệt năm 1763 chính phủ Anh đạo luật quy định những đất đai từ dãy núi Alơqhêri trở về phía Tây đều thuộc về nữ hoàng anh. Đạo luật này đã gây lên làn sóng bất bình của những người dân di thực từ châu Âu sang Bắc Mỹ với nguyện vọng thành lập trang trại trên cơ sở sở hữu cá nhân về ruộng đất.
Nhìn chung những thống trị của nước Anh ở Bắc Mỹ đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế, tình trạng này kéo dài dẫn tới mâu thuẫn gay gắt giữa các thuộc địa Bắc Mỹ với chính sách thống trị của thực dân Anh. Về mặt xã hội, những cư dân ở nhiều nước châu Âu vì những lí do khác nhau, tới sinh cơ lập nghiệp ở Bắc Mỹ có nguyện vọng thoát khỏi chế độ thống trị của thực dân Anh, để hình thành quốc gia độc lập. Chính trong xu hướng đó vào tháng 4/7/1776 đại hội lục địa đã thông qua và công bố bản tuyên ngôn độc lập. Đây là mốc đánh dấu Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ra đời Casinhtơn (washington) được bầu làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ.
Cuộc chiến tranh còn kéo dài thêm một thời gian nữa. Ngày 3/9/1783 nước Anh đã ký vào hiệp ước Xecxai thừa nhận nền độc lập của hợp chủng quốc Hoa Kỳ đánh dấu cuộc (đấu tranh giành độc lập tự do cho nhân dân Bắc Mỹ. Trên một vùng lãnh thổ rộng lớn hơn 2,3 triệu km2. Hoa Kỳ là quốc gia tư sản đầu tiên ở Bắc Mý.
II. NỀN KINH TẾ NƯỚC MỸ THỜI KÌ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TRƯỚC ĐỘC QUYỀN (1776 – 1865)

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links