langlegapanh_roilaiyeuanh
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH
I. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Tổng quan về kinh tế thị trường.
1.1. Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát triển rất cao của lược lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hoá tất nhiên chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy không thể nói kinh tế hàng hoá là sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều cách sản xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.
1.2. Kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
a)Nền kinh tế thị trường còn ở trình độ kém phát triển.
Thứ nhất, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình đội thấp. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng xuất, chất lượng, hiệu quả sản sản xuất còn thấp.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hợp tác, chuyên môn hoá sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hoá còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm qua thị trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nên nó còn ở trình độ thấp. Cơ cấu thị trường chưa đầy đủ, dung lượng thị trường còn ít và có phần rối loạn. Các yếu tố kinh tế thị trường hình thành chưa đầy đủ, chưa có thị trường lao động theo đúng nghĩa. Thị trường tiền tệ chưa phát triển, thị trường vốn còn sơ khai.
Thứ tư, thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do đó sức mua và chỉ số tiêu dùng chưa cao.
Thứ năm, còn chịu ảnh hưởng lớn của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
b) Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước dữ vai trò chủ đạo.
Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất kinh tế khác nhau nhưng chúng đều là một bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung cầu, tiền tệ, giá cả chung... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng , mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy luật kinh tế khác nhau này mà bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế, chúng còn khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn như các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân tuy có vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu về vốn, hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Nhưng vì dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên các thành phần kinh tế này không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần làm nảy sinh hiện tượng tiêu cực và làm tổn hại đến lợi ích xã hội.
Vì vậy, cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất là Nhà nước phải quan tâm tạo điều kiện củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây dựng khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh để làm tốt vai trò chủ đạo, làm xương sống cho toàn bộ nền kinh tế.
c) Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở”.
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm về chính sách đối ngoại và quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chính sách kinh tế đối ngoại của nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay được thực hiện theo những định hướng sau:
+ Đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các mối quan hệ mới dưới mọi hình thức.
+ Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
d) Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hoá giản đơn trước đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
1.3. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường ở nước ta.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tât cả các thành viên trong xã hội.
Cơ chế thị trường xét một cách tổng quát đó là “bộ máy tự hoạt động cung cầu, giá cả hàng hoá, môi trường cạnh tranh, động lực lợi nhuận và các luật vận hành đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải bài toán là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai”. Các quy luật trong cơ chế thị trường bao gồm luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Sự hoạt động của ba quy luật này đã tạo nên cơ chế hoạt động của thị trường.
Trước hết phải nói rằng quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất trong nền sản xuất hàng hoá. Quy luật giá trị được hiểu là: mọi hàng hoá được trao đổi thì số lượng lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra mỗi một hàng hoá. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sự phân công lao động xã hội và tư liệu sản xuất giữa các ngành thông qua cơ cấu giá cả thị trường. Giá cả là cơ chế vận động của quy luật giá trị, là phạm trù kinh tế trung tâm của thị trường.
Quy luật cung cầu biểu hiện mối quan hệ kinh tế lớn nhất của thị trường. Trong đó, cầu là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua tại mỗi mức giá. Ngược lại, cung là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người bán muốn bán tại mỗi mức giá. Tại mỗi mức giá khác nhau thì lượng cung và lượng cầu về một loại hàng hoá và dịch vụ sẽ thay đổi. Nếu có một mức giá mà tại đó làm cho lượng cung và lượng cầu bằng nhau thì ở đó thị trường sẽ đạt ở mức tối ưu. Trong cơ chế thị trường, quy luật cung cầu có tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, nó là yếu tố khách quan quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường. Có thể nói thị trường là vũ đài cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ. Bất cứ doanh nghiệp nào khi quyết định tham gia vào thị trường thì họ đều nhận thức rằng cạnh tranh là yếu tố không thể tránh khỏi. Cạnh tranh là nhân tố thúc đẩy sự phát triển, không có cạnh tranh thì nền kinh tế sẽ thui chột, chậm tiến. Cạnh tranh có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa những người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua với nhau, cạnh tranh giữa người bán và người mua.
2. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Doanh nghiệp là gì ?
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế độc lập, một tập hợp gồm những bộ phận gắn bó với nhau, có vốn và các phương tiện vật chất kỹ thuật, hoạt động theo những nguyên tắc và mục tiêu thống nhất, thực hiện hạch toán kinh doanh hoàn chỉnh, có nghĩa vụ và được hệ thống pháp luật thừa nhận cũng như bảo vệ.
2.2. Chức năng và vai trò của doanh nghiệp.
2.2.1. Chức năng của doanh nghiệp.
Trong cơ chế mới, chức năng của doanh nghiệp vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn vị phân phối.
Với chức năng là một đơn vị sản xuất, doanh nghiệp sản xuất ra của cải vật chất hay thực hiện dịch vụ cung cấp cho nhu cầu của thị trường nhằm tạo ra lợi nhuận. Thực hiện chức năng là đơn vị sản xuất, doanh nghiệp xuất hiện trên thị trường với tư cách là một chủ thể sản xuất kinh doanh, tiến hành các quá trình hoạt động và xác lập các mối quan hệ cần thiết cho việc đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Với chức năng là một đơn vị phân phối, doanh nghiệp bán ra thị trường thành quả sản xuất hay cung cấp dịch vụ, đổi lại doanh nghiệp sẽ thu về tiền hay các hình thức thanh toán khác của khách hàng. Về phía doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng phải thanh toán các khoản phí, đóng thuế, trả lương... thực hiện chức năng phân phối, doanh nghiệp phân phối hợp lý thành quả nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời bảo đảm sự công bằng xã hội.
Với chức năng mang tính hai mặt như vậy, doanh nghiệp có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.2. Vai trò của doanh nghiệp.
a) Doanh nghiệp là một củ thể sản xuất hàng hoá.
Trong cơ chế của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không còn là một cấp quản lý chỉ biết chấp hành và sản xuất theo lệnh của cấp trên mà là một chủ thể sản xuất hàng hoá trong khuân khổ pháp luật, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
b) Doanh nghiệp là một pháp nhân kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Trước pháp luật, doanh nghiệp được xem là một chủ thể có đầy đủ tư cách pháp nhân riêng biệt với các chủ sở hữu của doanh nghiệp và mọi doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, liên doanh... đều được đối xử như nhau.
c) Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế, là tế bào của nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế quốc dân là một tổng thể thống nhất mà mỗi doanh nghiệp chỉ là một tế bào, một mắt xích. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tự do kinh doanh trong khuân khổ của một hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cho sự tự do ấy tạo thành sức mạnh kinh tế chung của cả nước. Hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động theo pháp luật và đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân.
c) Doanh nghiệp là một tổ chức xã hội.
Doanh nghiệp trước hết là một tập hợp những con người gắn bó với nhau, cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu chung đã định. Ngoài việc chăm lo cho dời sống vật chất và tinh thần, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và chuyên môn của công nhân viên chức, doanh nghiệp còn có trách nhiệm làm tốt các công tác xã hội như bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm tròn các nghĩa vụ đối với xã hội. Làm tốt các vấn đề xã hội cũng là một động lực quan trọng bảo đảm sự phát triển có hiệu quả cao về mặt kinh tế xã hội của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai.
3. Các giai đoạn hoạt động kinh doanh của công ty.
Trong thực tế kinh doanh thông thường đã và đang diễn ra hiện nay tại Việt Nam lẫn nước ngoài, quá trình hình thành và phát triển của một công ty hay doanh nghiệp thường gồm các giai đoạn chính sau:
3.1. Giai đoạn chưa có kế hoạch.
Trước tiên, khi một công ty mới được thành lập và bắt đầu xúc tiến các hoạt động sản xuất kinh doanh thì đa số các lãnh đạo công ty hay ban giám đốc điều hành thường không đủ thời gian và kinh nghiệm để làm công tác hoạch định nói chung nói chi đến hoạch định chiến lược. Có thể nói đây là giai đoạn chưa có kế hoạch (unplanned stage).
3.2. Giai đoạn lập kế hoạch ngân quỹ.
Kế đó, công ty này tiến hành thiết lập hệ thống ngân quỹ để kiểm soát lưu kim hay dòng tiền hay lên kế hoạch kinh phí cho mỗi phòng, ban chức năng. Làm được điều này chưa phải là lập kế hoạch đúng nghĩa thực sự, đây chỉ là giai đoạn lập hệ thống ngân quỹ thu chi (budgeting system stage).
3.3. Giai đoạn lập kế hoạch năm.
Sau đó ít lâu, công ty ý thức rằng muốn kinh doanh hiệu quả cần tiến hành hoạch định thực sự, bằng cách nghiên cứu tình hình thị trường để có thể đưa ra những quyết định nghiêm túc trong hoạt động kinh doanh thông qua các chương trình hành động cụ thể hợp với năng lực và nguồn lực của công ty. Đây là lúc phải lập kế hoạch hàng năm (annual planning stage) theo đúng nghĩa thực sự của công tác hoạch định nói chung, nhưng vẫn chưa đụng gì tới chiến lược kinh doanh mang tính cơ bản và dài hạn cho công ty. Các kế hoạch hàng năm bao gồm các chương trình hành động cụ thể như: sản xuất, tiếp thị, quản trị nguồn nhân lực và tài chính của công ty.
3.4. Giai đoạn lập kế hoạch dài hạn.
Khi công ty bắt đầu hoạt động ổn định, cấp lãnh đạo suy nghĩ đến yêu cầu cần soạn thảo các kế hoạch dài hạn (thường từ 3 năm hay 5 năm) được suy ra từ kế hoạch hàng năm trên đây. Kế hoạch dài hạn còn bao hàm ý nghĩa cuấn chiếu từng năm, điều chỉnh sát với tình hình thực tế và trong phạm vi nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của công ty, cập nhật sau mỗi năm thực hiện. Kế hoạch dài hạn như thế giúp cho công ty có tầm nhìn xa nhưng vẫn chưa phải là kế hoạch chiến lược thực sự. Đây chính là giai đoạn hoạch định chiến lược dài hạn (long range planning stage).
3.5. Giai đoạn lập kế hoạch chiến lược.
Cuối cùng, sau khi công ty đã có quá trình hoạt động với nhiều kinh nghiệm tích luỹ trong thời kỳ phát triển vững chãi thì việc hoạch định chiến lược trở thành một nhu cầu bức thiết. Chiến lược kinh doanh giúp công ty thích nghi và nắm bắt các cơ hội thị trường, chọn thị trường mục tiêu trong phạm vi khả năng và nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của mình trong bối cảnh thường xuyên biến động của các yếu tố ngoại lai. Nói khác đi, chiến lược kinh doanh giúp công ty duy trì quan hệ chặt chẽ giữa một bên là tài nguyên và các mục tiêu của công ty và đối trọng bên kia là các cơ hội thị trường và vị thế cạnh tranh trên thị trường. Như thế phải đến giai đoạn 5 là giai đoạn hoạch định chiến lược (strategic planning stage) thì các chiến lược và chính sách kinh doanh của công ty mới được xem trọng thực sự.
II. CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH.
1. Chiến lược là gì?
a) Quan điểm truyền thống.
Thuật ngữ “Chiến lược” (strategy) xuất phát từ lĩnh vực quân sự với ý nghĩa “khoa học về hoạch định và điều khiển các hoạt động quân sự” (webster’s new world dictionary) Alfred Chandler (thuộc trường Đại học Harvard) định nghĩa: “Chiến lược là tiến trình xác định các mục tiêu cơ bản dài hạn của doanh nghiệp, lựa chọn cách thức hay phương hướng hành động (courses of action) và phân bố các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó”. Đây là một trong những định nghĩa truyền thống được dùng phổ biến nhất hiện nay.
Ta thấy rằng những chiến lược chủ yếu của một công ty bao gồm những mục tiêu, những đảm bảo về nguồn lực để đạt được những mục tiêu và những chính sách chủ yếu cần được tuân theo (cách thức hay phương hướng) trong khi sử dụng những nguồn lực này. Do đó, chiến lược cần được định ra như là kế hoạch hay sơ đồ tác nghiệp tổng quát chỉ hướng cho công ty đi đến mục tiêu mong muốn.
Có một vài định nghĩa khác cần lưu ý:
+ Chiến lược là một dạng thức hay một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các trình tự hành động thành một tổng thể kết dính lại với nhau. Đây là định nghĩa của James B.Quinn, thuộc trường Đại học Dartmouth.
+ Chiến lược là một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính phối hợp, được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện. Đây là định nghĩa của William J.Glueck, trích trong giáo trình của ông: Business policy and Strategic Management (New york : McGraw-Hill, 1980).
b) Quan điểm hiện đại.
Theo quan niệm mới, nội dụng khái niệm chiến lược có thể bao gồm
“5 p” đó là:
+ Kế hoạch (plan)
+ Mưu lược (ploy)
+ cách hành động (pattern)
+ Vị thế (position)
+ Triển vọng (perspective).
Công ty có được hay muốn đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh. Quan điểm hiện đại kết hợp cả hai loại chiến lược có chủ định và chiến lược phát khởi trong quá trình thực hiện, bao gồm một loạt những quyết định và hành động trong một mô thức tương quan năng động.
2. Chính sách kinh doanh?
Chính sách kinh doanh đó là phương cách, đường lối hay phương hướng dẫn dắt hành động trong khi phân bổ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để rõ ràng hơn chính sách được định nghĩa như một phương tiện để đạt được các mục tiêu. Các chính sách bao gồm: các hướng dẫn, các quy tắc và thủ tục được thiết lập để hậu thuẫn cho các nỗ lực hành động. Nói cách khác, các chính sách là những chỉ dẫn cho việc làm quyết định hay đưa ra quyết định và thể hiện các tình huống thường lặp lại hay có tính chu kỳ.
3. Các nguồn phát sinh chiến lược và chính sách kinh doanh.
Thông thường trong một tổ chức điển hình, các chiến lược và chính sách kinh doanh có thể do từ các nguồn phát sinh sau đây
Chiến lược và chính sách Chiến lược và chính sách
có thể do tác động từ có thể do gợi mở
trên xuống (từ dưới lên hay
(khởi thảo) từ trên xuống)
Chiến lược và chính sách Chiến lược và chính sách
có thể do ngầm định có thể do sức ép từ ngoài
(xuất phát từ cấp trên xuống) vào (tác động ngoại vi)
Hình 1 : Các nguồn chiến lược và chính sách kinh doanh.
3.1. Khởi thảo chiến lược và chính sách kinh doanh từ cấp trên đi xuống.
Đây là cách hoạch định từ trên xuống (top down planning) do các quản trị viên cấp cao soạn thảo, thường với mục đích cấp bách để hướng dẫn cấp dưới trong các chương trình hành động của họ. Xét về cơ bản, chiến lược hay chính sách loại này bắt nguồn từ nhiệm vụ kinh doanh của chính doanh nghiệp với cách quản trị theo chương trình hay theo chiến lược chủ định của hội đồng quản trị công ty. Trong một số trường hợp, chiến lược và chính sách khởi thảo từ cấp trên cho phép cấp dưới tuỳ ý linh hoạt trong một phạm vi nhất định. Nhưng đa phần các chiến lược và chính sách loại này mang tính áp đặt đối với cấp dưới với sức ép phải làm đúng theo mệnh lệnh của cấp trên.
3.2. Hình thành chiến lược và chính sách do sự gợi mở từ dưới lên hay từ trên xuống.
Trong thực tế hoạt động có những tình huống đặc biệt buộc nhà quản trị phải ứng phó linh hoạt để giải quyết một trường hợp bất thường. Lúc này cấp trên có thể gợi ý để cấp dưới tuỳ nghi giải quyết hay ngược lại cấp dưới có thể gợi ý cho cấp trên đề ra một phương án hay đưa ra một quyết định mang tính tình thế. Sau đó, quyết định hay phương án này biến thành tiền lệ cho các sự cố phát sinh về sau.
3.3. Hình thành chiến lược và chính sách do ngầm định.
Trong hầu hết mọi trường hợp, chiến lược và chính sách do ngầm định được hình thành khi công ty chưa có các chiến lược và chính sách rõ ràng. Các nhân viên hay thuộc cấp sẽ quyết định hành động theo cách họ hiểu qua động thái hay hành vi của cấp trên. Thí dụ, những nhà quản lý cao cấp của một công ty nào đó đã sốt sắng thu thập những ý tưởng sản phẩm mới. Sự hưởng ứng khá sâu rộng, nhưng mỗi ý tưởng phải trải qua những thủ tục xem xét rất phức tạp và được đánh giá bằng các tiêu chuẩn rất thận trọng. Kết quả là hầu hết các ý tưởng đều bị loại bỏ mà không có lời giải thích nào cả, thậm chí cả những nhân vật chủ chốt trong công ty cũng tin rằng đó chính là chính sách của công ty để giới hạn các sản phẩm mới với những loại hàng ít mạo hiểm. Chính sách ngầm hiểu này đã trở thành đường lối chỉ đạo thực sự cho các quyết định về sản phẩm mới, nó hoàn toàn ngược lại với chính sách thực sự mà công ty mong muốn.
3.4. Chiến lược và chính sách hình thành do sức ép tác động từ bên ngoài tổ chức.
Cách hình thành chiến lược và chính sách kinh doanh do sức ép bên ngoài hiện nay là phổ biến. Sức ép ở tầm vĩ mô như các tác lực kinh tế, thể chế và pháp lý, xã hội, môi trường tự nhiên và kỹ thuật công nghệ. Các tác lực trong ngành kinh doanh như đối thủ cạnh tranh (hiện hữu lẫn tiềm tàng), nhà cung cấp, khách hàng và sản phẩm thay thế.
Sự điều chỉnh trực tiếp sự cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc doanh hay các doanh nghiệp được nhà nước hỗ trợ và những điều kiện đòi hỏi cần có sự trợ giúp hay hợp đồng của nhà nước chính là một hình thức gây sức ép từ bên ngoài. Những hiệp hội quốc gia mạnh hoạt động qua đàm phán tập thể và các hợp đồng lao động chi tiết cũng đã tác động tới chính sách của nhà quản lý. Ngoài ra, hàng ngàn tổ chức địa phương, khu vực, quốc gia đều có ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau đến chính sách. Những tổ chức xã hội và nhân đạo cũng có thể tạo ra sức ép đối với chính sách hay chiến lược của một doanh nghiệp.
Nói chung, các chiến lược và chính sách kinh doanh xét về cơ bản càng được xây dựng chu đáo và chặt chẽ thì càng đảm bảo cho các chương trình hành động hay các kế hoạch tác nghiệp của doanh nghiệp được vận dụng hiệu quả, tạo được ưu thế cạnh tranh và nhất là đáp ứng theo yêu cầu hoạt động phát triển của công ty về lâu về dài.
III. NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC VÀ HỆ THỐNG MỤC TIÊU CỦA CÔNG TY.
1. Nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu là nền tảng cho công tác hoạch định chiến lược.
Thông thường các công ty xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp trước khi phân tích môi trường kinh doanh. Một số không ít các công ty khác chủ trương có vẻ ngược lại khi họ tìm hiểu, phân tích môi trường kinh doanh trước khi xác định nhiệm vụ chiến lược và mục tiêu của doanh nghiệp. Lập luận của quan điểm này cho rằng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt quyết liệt hiện nay thì thái độ khôn ngoan của các nhà chiến lược là phải “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” hay thậm chí “liệu cơm gắp mắm”. Thái độ trên đây là đúng đắn trong hành động hơn là trong tư duy chiến lược. hay nói cách khác, về mặt hoạch định chiến lược thì nền tảng để xây dựng các kế hoạch chiến lược cần được đặt trên cơ sở nhiệm vụ chiến lược và các mục tiêu định hướng. Hơn nữa, theo Henry Mintzberg với chiến lược phát khởi theo diễn tiến của tình huống, đòi hỏi thông tin phản hồi của môi trường hoạt động nhằm điều chỉnh liên tục các chiến lược chủ định cho phù hợp với thực tiễn áp dụng là điều giúp cho ta thấy rõ tính logic của vấn đề.
Nhiệm vụ chiến lược là mục đích chính của công ty nhằm phân biệt đặc trưng của công ty với các công ty cùng ngành. Nhiệm vụ chiến lược bao hàm tư tưởng chủ đạo của công ty định hướng cho công việc.
+Xác định tình hình hoạt động của công ty trong hiện tại lẫn tương lai.
+Phân biệt công ty với các đơn vị cùng ngành.
+Xác lập tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động hiện tại và tương lai.
Nhiệm vụ chiến lược cũng còn được gọi là tôn chỉ hay chức năng nhiệm vụ của công ty nhằm làm sáng tỏ một điều : “Công việc kinh doanh của công ty nhằm mục đích gì ?”. Theo Peter Drucker, đặt ra câu hỏi như vậy là đồng nghĩa với câu hỏi : “nhiệm vụ của công ty là gì ?”.
Các mục tiêu của công ty bao gồm các kết quả cụ thể mà công ty mong muốn đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Căn cứ vào yếu tố thời gian, người ta có hai cách phân biệt giữa mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn :
Cách 1:
Các mục tiêu dài hạn với thời gian thực hiện trên 1 năm, các mục tiêu ngắn hạn dưới 1 năm.
Cách 2 :
Các mục tiêu dài hạn với thời gian thực hiện kéo dài lâu hơn một chu kỳ quyết định. Các mục tiêu ngắn hạn với thời gian nhanh hơn một chu kỳ quyết định.
2. Xác định nhiệm vụ chiến lược của công ty.
Hầu hết các công ty xác định mục đích hoạt động và nhiệm vụ chiến lược của họ trên cơ sở phân tích các nguồn lực hiện hữu và tiềm năng của bản thân doanh nghiệp (Company itself) kết hợp với việc nghiên cứu khách hàng (Customers) và tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh (Competiter) trong cùng ngành nghề kinh doanh. Đây gọi là nguyên tắc 3C, nguyên tắc này cụ thể như sau :
+ Bản thân doanh nghiệp có những điểm mạnh và nhược điểm nào đó trong quan hệ với các biến động ngoại vi ? Các biến động này có thể là những cơ hội hay nguy cơ đe doạ trực tiếp hay gián tiếp đối với công ty. cần trả lời các câu hỏi đại loại như :Công ty kinh doanh sản phẩm nào, mặt hàng nào hay tham gia các SBU nào ? Công ty cần kinh doanh gì thêm ? Công ty nên hay phải kinh doanh gì là phù hợp nhất ?.
+ Để nghiên cứu khách hàng, một số vấn đề cần đặt ra như : Khách hàng của ta là ai ? Họ cần gì ? Nhu cầu nào của họ ta có thể đáp ứng được không ? Công ty dùng phương tiện hay công nghệ nào để phục vụ khách hàng tốt nhất ? Theo quan điểm của Theodore Levitt, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại lâu dài khi nhận ra rằng : “tiến trình thoả mãn khách hàng quan trọng hơn nhiều so với tiến trình làm ra sản phẩm” vì sản phẩm và kỹ thuật (công nghệ phục vụ) đến một lúc nào đó sẽ bị lỗi thời và bị đào thải trong khi nhu cầu thị trường căn bản vẫn cứ tồn tại mãi mãi.
+ Tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh, đánh giá tiềm lực của đối thủ, xác định vị thế và ưu thế của từng đối thủ trên cơ sở phân tích SWOT bằng cách xem xét các điểm mạnh, điểm yếu của dối thủ, cơ hội và rủi ro đe dọa đối với đối thủ cạnh tranh.
3. Xác định ngành kinh doanh .
3.1. Ngành kinh doanh của công ty đơn ngành.
3.1.1. Ngành nghề nào thích hợp với công ty ?
Đối với công ty đơn ngành (single business company), để trả lời câu hỏi “Ngành kinh doanh nào thích hợp với công ty ? ” Derek F.Abell đã đưa ra khung hình 3 chiều :
Hình 2 : Khung hình 3 chiều của Abell
Sự lựa chọn ngành kinh doanh thích hợp gắn liền với việc xác định thị trường gồm 3 yếu tố cấu thành:
• Nhóm người tiêu dùng.
• Nhu cầu tiêu dùng, và
• Công nghệ cần sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhóm người tiêu dùng.
3.1.2. Triển vọng của ngành ?
Cách tiếp cận của Abell nhấn mạnh đến nhu cầu tiêu dùng cần được thoả mãn của nhóm người tiêu dùng thay vì xác định ngành kinh doanh theo định hướng sản phẩm, điều này phù hợp với quan điểm của Theodore Levitt. Kinh doanh theo định hướng khách hàng tiêu dùng thể hiện việc áp dụng một công nghệ riêng biệt tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn một nhu cầu riêng biệt của một nhóm người tiêu dùng riêng biệt. Trên thực tế có khá nhiều phương cách khác nhau để phục vụ một nhu cầu riêng biệt của một nhóm người tiêu dùng riêng biệt. Nhà doanh nghiệp ngày nay cần biết nhận dạng những phương cách đa dạng, qua đó xác định ngành kinh doanh định hướng vào người tiêu dùng để có thể bảo toàn công ty khỏi bị vấp ngã trước những thay đổi lớn trong nhu cầu của thị trường hay trong thị hiếu khách hàng.
3.2. Ngành kinh doanh của công ty đa ngành.
Một công ty đa ngành tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh riêng biệt. Mỗi lĩnh vực được xem là một doanh nghiệp. Do đó, để trả lời câu hỏi “Ngành kinh doanh nào thích hợp với công ty ?” cần được xem xét trên hai phương diện khác nhau:
• Phương diện doanh nghiệp.
• Phương diện tổng thể công ty.
Đối với doanh nghiệp, trọng tâm của việc xác định ngành kinh doanh là theo định hướng người tiêu dùng.
Đối với tổng thể công ty, việc xác định các ngành kinh doanh của công ty không phải là tổng gộp các lĩnh vực kinh doanh riêng biệt vì điều đó dẫn tới một bản thuyết minh chức năng nhiệm vụ chiến lược không mạch lạc và thiếu trọng tâm. Do vậy, trọng tâm của việc xác định các ngành kinh doanh theo phương diện tổng thể phải định hướng trên cơ sở phân tích danh mục vốn đầu tư (portfolio analysis) nhằm đánh giá từng ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh riêng biệt (SBU: đơn vị kinh doanh chiến lược = strategic business unit) của công ty. Điều này làm nảy sinh nhiều loại chiến lược với cấp độ khác nhau (cấp công ty, cấp đơn vị kinh doanh, cấp bộ phận chức năng) gắn liền với các hoạt động phức tạp đa dạng của công ty từ việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới cho đến việc bỏ các ngành nghề đang kinh doanh.
Cách tiếp cận theo danh mục vốn đầu tư để lập kế hoạch chiến lược được định nghĩa là: các kỹ thuật phân tích giúp xác định và đánh giá các hoạt động kinh doanh của công ty đa ngành nhằm mục đích phân phối các nguồn lực và lựa chọn một chiến lược cạnh tranh dựa trên cơ sở tiềm lực phát triển của mỗi SBU và của các nguồn tài chính mà các SBU đó sẽ chi tiêu hay tạo ra.
Hình 3 : Sơ đồ các yếu tố quan trọng trong việc xác định ngành nghề hoạt động.
4. Mục tiêu của công ty.
4.1. Mục tiêu là gì ?
Nói ngắn gọn, mục tiêu là những kết quả kỳ vọng. Nói rộng ra, mục tiêu là những thành quả mà nhà quản trị muốn đạt được trong tương lai cho tổ chức mình. Mục tiêu thường phản ánh trạng thái mong đợi có thể thực hiện và cần thực hiện tại một thời điểm hay sau một thời gian nhất định. Hệ thống các mục tiêu của doanh nghiệp được xem như vừa là cơ cấu có tính chất tĩnh tại, vừa là tiến tình hay quá trình có tính cách năng động, nên vai trò của mục tiêu doanh nghiệp thể hiện hai mặt :
* Mặt tĩnh tại khi xác định cụ thể các mục tiêu như những mốc định hướng làm nền tảng cho công tác hoạch định chiến lược.
* Mặt năng động khi các mục tiêu nói trên quy hướng đến mục đích chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Theo nghĩa này, mục tiêu không chỉ là mốc cố định mà còn linh hoạt phát triển với những kết quả kỳ vọng ngày càng cao hơn trong phạm vi nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của công ty.
4.2. Mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có thể đề ra rất nhiều mục tiêu, hàng vài chục thậm chí hàng trăm các mục tiêu đặc thù cụ thể khác nhau nhưng đều phải hướng về một mục tiêu quan trọng nhất là làm cho vốn liếng của các cổ đông (chủ sở hữu hợp pháp của công ty) ngày càng tăng giá trị. Một trong những phương cách tốt nhất để tối đa hoá lợi nhuận của cổ đông là doanh nghiệp theo đuổi các chiến lược nhằm tăng tối đa hoá lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI : Return On Investment). ROI là một chỉ số biểu thị tổng quát tốt nhất về hiệu quả kinh doanh của công ty. ROI càng cao thì cổ phiếu của công ty càng có giá trị, càng được ưa chuộng trên thị trường chứng khoán. Trên bình diện rộng, các nhà doanh nghiệp thời nay cần biết cách hài hoà giữa 3 mục tiêu chính sau đây trong sự nghiệp kinh doanh của mình :
+ Mục tiêu chính của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận.
+ Mục tiêu chính của khách hàng là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng.
+ Mục tiêu chính của xã hội là phúc lợi công cộng.
4.3. Các mục tiêu thứ yếu của doanh nghiệp.
Các mục tiêu thứ yếu của doanh nghiệp có liên quan đến 7 lĩnh vực sau đây :
+ Thị phần,
+ Năng suất,
+ Cải tiến công nghệ,
+ Nguồn tài chính và cơ sở vật chất,
+ Hiệu quả quản lý và khả năng phát triển,
+ Thành tích và thái độ làm việc của nhân viên,
+ Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Ngay khi một công ty không xác định hay không công khai thừa nhận những mục tiêu thứ yếu thì họ vẫn ngầm định các mục tiêu này thông qua sự cam kết đối với lợi nhuận dài hạn là mục tiêu quan trọng của công ty.
IV. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP.
Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì việc xác định và phân tích môi trường của doanh nghiệp là rất quan trọng, môi trường của doanh nghiệp bao gồm :
• Môi trường bên ngoài doanh nghiệp.
• Môi trường bên trong doanh nghiệp
Việc phân tích hai môi trường này của doanh nghiệp nhằm giúp cho nhà doanh nghiệp thấy được doanh nghiệp của mình đang đối diện với những vấn đề gì, có những khó khăn và thuận lợi gì để từ đó xác định chiến lược kinh doanh cho phù hợp.
1. Môi trường bên ngoài doanh nghiệp.
Môi trường bên ngoài doanh nghiệp bao gồm :
• Môi trường vĩ mô.
• Môi trường vi mô.
Những tác nhân thuộc môi trường vĩ mô thì doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng một cách gián tiếp, còn với tác nhân thuộc môi trường vi mô thì doanh nghiệp chịu tác động một cách trực tiếp.
1. Chiến lược thông tin.
Xây dựng hệ thống quản lý thông tin khoa học công nghệ với các nội dung:
+ Tổng kết biên soạn quản lý thông tin về chức năng kỹ thuật thiết bị, bản vẽ thiết kế, quy trình công nghệ mẫu, làm tư liệu sử dụng hàng ngày của Công ty.
+ Tổ chức thu thập nghiên cứu thẩm định, lưu trữ các thông tin, văn bản pháp quy phục vụ cho phương hướng phát triển khoa học công nghệ của Công ty.
+ Xây dựng thư viện khoa học kỹ thuật trên cơ sở kết hợp việc nối mạng thông tin để hình thành hệ thống lưu trữ và quản lý tài liệu gốc, tài liệu có giá rị sử dụng cao, sử dụng lâu dài.
+ Quản lý sáng chế, phát minh, sáng kiến nhãn hiệu hàng hoá, bản quyền và các chế độ về chính sách về khoa học công nghệ của Nhà nước.
+ Áp dụng rộng rãi CNTT và quản lý sản xuất, xây dựng hệ thống CNTT thống nhất tiến tới nối mạng quốc gia và nối mạng Internet.
+ Ban hành các quy định về khai thác sử dụng thông tin nhằm chuyển hoá giá trị thực hành các dự án và chương trình đầu tư có lợi cho sản xuất kinh doanh.
2. Chiến lược nhân sự.
Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, Công ty phải đổi mới thiết bị, dây chuyền công nghệ. Do đó đòi hỏi trình độ tổ chức quản lý kinh tế, kỹ thuật của cán bộ quản lý, trình độ tay nghề của công nhân ngày càng phải được nâng cao.
- Với xu hướng hiện nay là thay đổi cung cách quản lý cho phù hợp, tinh giảm bộ máy quản lý buộc các nhà quản lý, nhân viên kỹ thuật phải kiêm nhiệm có nghĩa là phải biết nhiều nghề. Do đó vấn đề đào tạo cần được đưa ra với phương châm: “giỏi một nghề, biết nhiều nghề”.
- Phòng tổ chức cán bộ phải chủ động quan hệ với các trường đại học và trường công nhân kỹ thuật để tuyển dụng và gửi người đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho công ty, không thụ động như hiện nay.
- Nghiên cứu cơ chế đào tạo cho các kỹ sư trẻ, coi đây là sự đầu tư cơ bản cho Công ty.
- Đánh giá chính xác nhu cầu đào tạo để tránh lãng phí về thời gian và chi phí.
- Cần chế định, chiến lược và chính sách phát trriển lực lượng nhân tài quản lý để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành cơ khí, dành lực lượng tài chính và vật chất tương ứng cho chiến lược phát triển đó
* Trong thời gian tới để tăng cường sức mạnh về tài chính và theo nghị định số 41/2002/NĐ-CP ban hành ngày 11/4/2002, dựa vào các nghị định số 58, 64, 69 Công ty cơ khí Hà Nội nên chuển đổi thành Công ty TNHH một thành viên nhằm thu hút vốn đầ tư từ bên ngoài và đặc là huy động vốn từ CBCNV tạo cho họ có trách nhiệm hơn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Sau khi thực hiện các chiến lược trên thế mạnh của Công ty sẽ tăng cao, nhưng để đứng vững được trong thời kỳ hội nhập toàn cầu thì Công ty cần tiến hành liên kết liên doanh với các nhà cung cấp để chủ động nguyên liệu đầu vào đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm (hội nhập ngược).
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH 1
I. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1
1. Tổng quan về kinh tế thị trường 1
2. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 5
3. Các giai đoạn hoạt động kinh doanh của Công ty 7
II. Chiến lược và chính sách kinh doanh 9
1. Chiến lược là gì? 9
2. Chính sách kinh doanh 10
3. Các nguồn phát sinh chiến lược và chính sách kinh doanh 11
III. Nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu của Công ty 13
1. Nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu là nền tảng cho công tác hạch định chiến lược 13
2. Xác định nhiệm vụ chiến lược của Công ty 15
3. Xác định ngànnh kinh doanh 16
4. Mục tiêu của Công ty 18
IV. Phân tích môi trường của doanh nghiệp 20
1. Môi trường bên ngoài doanh nghiệp 20
2. Môi trường bên trong doanh nghiệp 30
V. Các chiến lược kinh doanh 31
1. Chiến lược tổng thể 31
2. Chiến lược cạnh tranh cấp kinh doanh 37
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP 40
A. Môi trường bên trong Công ty 40
I. Tình hình chung của Công ty 40
1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Công ty 40
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty 43
II. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 49
1. Các hoạt động đầu vào 49
2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 53
3. Phân tích tình hình tiêu thụ một số máy công cụ 62
4. Marketing và các hoạt động bán hàng 63
III. Phân tích các hoạt động bổ trợ bên trong doanh nghiệp 67
1. Phân tích nguồn nhân lực 67
2. Nghiên cứu và phát triển 74
3. Tài chính kế toán 75
4. Nền nếp văn hoá tổ chức của Công ty 78
5. Hệ thống thông tin 78
B. Phân tích môi trường ngoài Công ty 79
I. Môi trường vĩ mô 79
1. Môi trường kinh tế 79
2. Môi trường chính trị pháp luật 81
3. Môi trường dân số và văn hoá địa lý 83
4. Môi trường công nghệ 84
II. Môi trờng vi mô 84
1. Các đối thủ tiềm năng và các đối thủ đang hoạt động 84
2. Nhà cung cấp 86
3. Phân tích nhu cầu thị trường (khách hàng) 86
Chương III: Xây dựng chiến lược phát triển của Công ty cơ khí hà nội đến năm 2010 89
I. Chiến lược tổng thể 89
II. Chiến lược cấp kinh doanh 95
1. Chiến lược sản phẩm 95
2. Chiến lược đầu tư 95
3. Chiến lược nghiên cứu và phát triển ( R&D) 96
4. Chiến lược Marketing 96
5. Chiến lược thông tin 98
6. Chiến lược nhân sự 98
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH
I. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Tổng quan về kinh tế thị trường.
1.1. Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát triển rất cao của lược lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hoá tất nhiên chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy không thể nói kinh tế hàng hoá là sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều cách sản xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.
1.2. Kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
a)Nền kinh tế thị trường còn ở trình độ kém phát triển.
Thứ nhất, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình đội thấp. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng xuất, chất lượng, hiệu quả sản sản xuất còn thấp.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hợp tác, chuyên môn hoá sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hoá còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm qua thị trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nên nó còn ở trình độ thấp. Cơ cấu thị trường chưa đầy đủ, dung lượng thị trường còn ít và có phần rối loạn. Các yếu tố kinh tế thị trường hình thành chưa đầy đủ, chưa có thị trường lao động theo đúng nghĩa. Thị trường tiền tệ chưa phát triển, thị trường vốn còn sơ khai.
Thứ tư, thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do đó sức mua và chỉ số tiêu dùng chưa cao.
Thứ năm, còn chịu ảnh hưởng lớn của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
b) Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước dữ vai trò chủ đạo.
Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất kinh tế khác nhau nhưng chúng đều là một bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung cầu, tiền tệ, giá cả chung... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng , mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy luật kinh tế khác nhau này mà bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế, chúng còn khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn như các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân tuy có vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu về vốn, hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Nhưng vì dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên các thành phần kinh tế này không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần làm nảy sinh hiện tượng tiêu cực và làm tổn hại đến lợi ích xã hội.
Vì vậy, cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất là Nhà nước phải quan tâm tạo điều kiện củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây dựng khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh để làm tốt vai trò chủ đạo, làm xương sống cho toàn bộ nền kinh tế.
c) Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở”.
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm về chính sách đối ngoại và quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chính sách kinh tế đối ngoại của nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay được thực hiện theo những định hướng sau:
+ Đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các mối quan hệ mới dưới mọi hình thức.
+ Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
d) Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hoá giản đơn trước đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
1.3. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường ở nước ta.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tât cả các thành viên trong xã hội.
Cơ chế thị trường xét một cách tổng quát đó là “bộ máy tự hoạt động cung cầu, giá cả hàng hoá, môi trường cạnh tranh, động lực lợi nhuận và các luật vận hành đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải bài toán là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai”. Các quy luật trong cơ chế thị trường bao gồm luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Sự hoạt động của ba quy luật này đã tạo nên cơ chế hoạt động của thị trường.
Trước hết phải nói rằng quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất trong nền sản xuất hàng hoá. Quy luật giá trị được hiểu là: mọi hàng hoá được trao đổi thì số lượng lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra mỗi một hàng hoá. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sự phân công lao động xã hội và tư liệu sản xuất giữa các ngành thông qua cơ cấu giá cả thị trường. Giá cả là cơ chế vận động của quy luật giá trị, là phạm trù kinh tế trung tâm của thị trường.
Quy luật cung cầu biểu hiện mối quan hệ kinh tế lớn nhất của thị trường. Trong đó, cầu là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua tại mỗi mức giá. Ngược lại, cung là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người bán muốn bán tại mỗi mức giá. Tại mỗi mức giá khác nhau thì lượng cung và lượng cầu về một loại hàng hoá và dịch vụ sẽ thay đổi. Nếu có một mức giá mà tại đó làm cho lượng cung và lượng cầu bằng nhau thì ở đó thị trường sẽ đạt ở mức tối ưu. Trong cơ chế thị trường, quy luật cung cầu có tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, nó là yếu tố khách quan quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường. Có thể nói thị trường là vũ đài cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ. Bất cứ doanh nghiệp nào khi quyết định tham gia vào thị trường thì họ đều nhận thức rằng cạnh tranh là yếu tố không thể tránh khỏi. Cạnh tranh là nhân tố thúc đẩy sự phát triển, không có cạnh tranh thì nền kinh tế sẽ thui chột, chậm tiến. Cạnh tranh có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa những người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua với nhau, cạnh tranh giữa người bán và người mua.
2. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Doanh nghiệp là gì ?
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế độc lập, một tập hợp gồm những bộ phận gắn bó với nhau, có vốn và các phương tiện vật chất kỹ thuật, hoạt động theo những nguyên tắc và mục tiêu thống nhất, thực hiện hạch toán kinh doanh hoàn chỉnh, có nghĩa vụ và được hệ thống pháp luật thừa nhận cũng như bảo vệ.
2.2. Chức năng và vai trò của doanh nghiệp.
2.2.1. Chức năng của doanh nghiệp.
Trong cơ chế mới, chức năng của doanh nghiệp vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn vị phân phối.
Với chức năng là một đơn vị sản xuất, doanh nghiệp sản xuất ra của cải vật chất hay thực hiện dịch vụ cung cấp cho nhu cầu của thị trường nhằm tạo ra lợi nhuận. Thực hiện chức năng là đơn vị sản xuất, doanh nghiệp xuất hiện trên thị trường với tư cách là một chủ thể sản xuất kinh doanh, tiến hành các quá trình hoạt động và xác lập các mối quan hệ cần thiết cho việc đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Với chức năng là một đơn vị phân phối, doanh nghiệp bán ra thị trường thành quả sản xuất hay cung cấp dịch vụ, đổi lại doanh nghiệp sẽ thu về tiền hay các hình thức thanh toán khác của khách hàng. Về phía doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng phải thanh toán các khoản phí, đóng thuế, trả lương... thực hiện chức năng phân phối, doanh nghiệp phân phối hợp lý thành quả nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời bảo đảm sự công bằng xã hội.
Với chức năng mang tính hai mặt như vậy, doanh nghiệp có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.2. Vai trò của doanh nghiệp.
a) Doanh nghiệp là một củ thể sản xuất hàng hoá.
Trong cơ chế của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không còn là một cấp quản lý chỉ biết chấp hành và sản xuất theo lệnh của cấp trên mà là một chủ thể sản xuất hàng hoá trong khuân khổ pháp luật, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
b) Doanh nghiệp là một pháp nhân kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Trước pháp luật, doanh nghiệp được xem là một chủ thể có đầy đủ tư cách pháp nhân riêng biệt với các chủ sở hữu của doanh nghiệp và mọi doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, liên doanh... đều được đối xử như nhau.
c) Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế, là tế bào của nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế quốc dân là một tổng thể thống nhất mà mỗi doanh nghiệp chỉ là một tế bào, một mắt xích. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tự do kinh doanh trong khuân khổ của một hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cho sự tự do ấy tạo thành sức mạnh kinh tế chung của cả nước. Hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động theo pháp luật và đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân.
c) Doanh nghiệp là một tổ chức xã hội.
Doanh nghiệp trước hết là một tập hợp những con người gắn bó với nhau, cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu chung đã định. Ngoài việc chăm lo cho dời sống vật chất và tinh thần, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và chuyên môn của công nhân viên chức, doanh nghiệp còn có trách nhiệm làm tốt các công tác xã hội như bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm tròn các nghĩa vụ đối với xã hội. Làm tốt các vấn đề xã hội cũng là một động lực quan trọng bảo đảm sự phát triển có hiệu quả cao về mặt kinh tế xã hội của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai.
3. Các giai đoạn hoạt động kinh doanh của công ty.
Trong thực tế kinh doanh thông thường đã và đang diễn ra hiện nay tại Việt Nam lẫn nước ngoài, quá trình hình thành và phát triển của một công ty hay doanh nghiệp thường gồm các giai đoạn chính sau:
3.1. Giai đoạn chưa có kế hoạch.
Trước tiên, khi một công ty mới được thành lập và bắt đầu xúc tiến các hoạt động sản xuất kinh doanh thì đa số các lãnh đạo công ty hay ban giám đốc điều hành thường không đủ thời gian và kinh nghiệm để làm công tác hoạch định nói chung nói chi đến hoạch định chiến lược. Có thể nói đây là giai đoạn chưa có kế hoạch (unplanned stage).
3.2. Giai đoạn lập kế hoạch ngân quỹ.
Kế đó, công ty này tiến hành thiết lập hệ thống ngân quỹ để kiểm soát lưu kim hay dòng tiền hay lên kế hoạch kinh phí cho mỗi phòng, ban chức năng. Làm được điều này chưa phải là lập kế hoạch đúng nghĩa thực sự, đây chỉ là giai đoạn lập hệ thống ngân quỹ thu chi (budgeting system stage).
3.3. Giai đoạn lập kế hoạch năm.
Sau đó ít lâu, công ty ý thức rằng muốn kinh doanh hiệu quả cần tiến hành hoạch định thực sự, bằng cách nghiên cứu tình hình thị trường để có thể đưa ra những quyết định nghiêm túc trong hoạt động kinh doanh thông qua các chương trình hành động cụ thể hợp với năng lực và nguồn lực của công ty. Đây là lúc phải lập kế hoạch hàng năm (annual planning stage) theo đúng nghĩa thực sự của công tác hoạch định nói chung, nhưng vẫn chưa đụng gì tới chiến lược kinh doanh mang tính cơ bản và dài hạn cho công ty. Các kế hoạch hàng năm bao gồm các chương trình hành động cụ thể như: sản xuất, tiếp thị, quản trị nguồn nhân lực và tài chính của công ty.
3.4. Giai đoạn lập kế hoạch dài hạn.
Khi công ty bắt đầu hoạt động ổn định, cấp lãnh đạo suy nghĩ đến yêu cầu cần soạn thảo các kế hoạch dài hạn (thường từ 3 năm hay 5 năm) được suy ra từ kế hoạch hàng năm trên đây. Kế hoạch dài hạn còn bao hàm ý nghĩa cuấn chiếu từng năm, điều chỉnh sát với tình hình thực tế và trong phạm vi nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của công ty, cập nhật sau mỗi năm thực hiện. Kế hoạch dài hạn như thế giúp cho công ty có tầm nhìn xa nhưng vẫn chưa phải là kế hoạch chiến lược thực sự. Đây chính là giai đoạn hoạch định chiến lược dài hạn (long range planning stage).
3.5. Giai đoạn lập kế hoạch chiến lược.
Cuối cùng, sau khi công ty đã có quá trình hoạt động với nhiều kinh nghiệm tích luỹ trong thời kỳ phát triển vững chãi thì việc hoạch định chiến lược trở thành một nhu cầu bức thiết. Chiến lược kinh doanh giúp công ty thích nghi và nắm bắt các cơ hội thị trường, chọn thị trường mục tiêu trong phạm vi khả năng và nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của mình trong bối cảnh thường xuyên biến động của các yếu tố ngoại lai. Nói khác đi, chiến lược kinh doanh giúp công ty duy trì quan hệ chặt chẽ giữa một bên là tài nguyên và các mục tiêu của công ty và đối trọng bên kia là các cơ hội thị trường và vị thế cạnh tranh trên thị trường. Như thế phải đến giai đoạn 5 là giai đoạn hoạch định chiến lược (strategic planning stage) thì các chiến lược và chính sách kinh doanh của công ty mới được xem trọng thực sự.
II. CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH.
1. Chiến lược là gì?
a) Quan điểm truyền thống.
Thuật ngữ “Chiến lược” (strategy) xuất phát từ lĩnh vực quân sự với ý nghĩa “khoa học về hoạch định và điều khiển các hoạt động quân sự” (webster’s new world dictionary) Alfred Chandler (thuộc trường Đại học Harvard) định nghĩa: “Chiến lược là tiến trình xác định các mục tiêu cơ bản dài hạn của doanh nghiệp, lựa chọn cách thức hay phương hướng hành động (courses of action) và phân bố các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó”. Đây là một trong những định nghĩa truyền thống được dùng phổ biến nhất hiện nay.
Ta thấy rằng những chiến lược chủ yếu của một công ty bao gồm những mục tiêu, những đảm bảo về nguồn lực để đạt được những mục tiêu và những chính sách chủ yếu cần được tuân theo (cách thức hay phương hướng) trong khi sử dụng những nguồn lực này. Do đó, chiến lược cần được định ra như là kế hoạch hay sơ đồ tác nghiệp tổng quát chỉ hướng cho công ty đi đến mục tiêu mong muốn.
Có một vài định nghĩa khác cần lưu ý:
+ Chiến lược là một dạng thức hay một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các trình tự hành động thành một tổng thể kết dính lại với nhau. Đây là định nghĩa của James B.Quinn, thuộc trường Đại học Dartmouth.
+ Chiến lược là một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính phối hợp, được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện. Đây là định nghĩa của William J.Glueck, trích trong giáo trình của ông: Business policy and Strategic Management (New york : McGraw-Hill, 1980).
b) Quan điểm hiện đại.
Theo quan niệm mới, nội dụng khái niệm chiến lược có thể bao gồm
“5 p” đó là:
+ Kế hoạch (plan)
+ Mưu lược (ploy)
+ cách hành động (pattern)
+ Vị thế (position)
+ Triển vọng (perspective).
Công ty có được hay muốn đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh. Quan điểm hiện đại kết hợp cả hai loại chiến lược có chủ định và chiến lược phát khởi trong quá trình thực hiện, bao gồm một loạt những quyết định và hành động trong một mô thức tương quan năng động.
2. Chính sách kinh doanh?
Chính sách kinh doanh đó là phương cách, đường lối hay phương hướng dẫn dắt hành động trong khi phân bổ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để rõ ràng hơn chính sách được định nghĩa như một phương tiện để đạt được các mục tiêu. Các chính sách bao gồm: các hướng dẫn, các quy tắc và thủ tục được thiết lập để hậu thuẫn cho các nỗ lực hành động. Nói cách khác, các chính sách là những chỉ dẫn cho việc làm quyết định hay đưa ra quyết định và thể hiện các tình huống thường lặp lại hay có tính chu kỳ.
3. Các nguồn phát sinh chiến lược và chính sách kinh doanh.
Thông thường trong một tổ chức điển hình, các chiến lược và chính sách kinh doanh có thể do từ các nguồn phát sinh sau đây
Chiến lược và chính sách Chiến lược và chính sách
có thể do tác động từ có thể do gợi mở
trên xuống (từ dưới lên hay
(khởi thảo) từ trên xuống)
Chiến lược và chính sách Chiến lược và chính sách
có thể do ngầm định có thể do sức ép từ ngoài
(xuất phát từ cấp trên xuống) vào (tác động ngoại vi)
Hình 1 : Các nguồn chiến lược và chính sách kinh doanh.
3.1. Khởi thảo chiến lược và chính sách kinh doanh từ cấp trên đi xuống.
Đây là cách hoạch định từ trên xuống (top down planning) do các quản trị viên cấp cao soạn thảo, thường với mục đích cấp bách để hướng dẫn cấp dưới trong các chương trình hành động của họ. Xét về cơ bản, chiến lược hay chính sách loại này bắt nguồn từ nhiệm vụ kinh doanh của chính doanh nghiệp với cách quản trị theo chương trình hay theo chiến lược chủ định của hội đồng quản trị công ty. Trong một số trường hợp, chiến lược và chính sách khởi thảo từ cấp trên cho phép cấp dưới tuỳ ý linh hoạt trong một phạm vi nhất định. Nhưng đa phần các chiến lược và chính sách loại này mang tính áp đặt đối với cấp dưới với sức ép phải làm đúng theo mệnh lệnh của cấp trên.
3.2. Hình thành chiến lược và chính sách do sự gợi mở từ dưới lên hay từ trên xuống.
Trong thực tế hoạt động có những tình huống đặc biệt buộc nhà quản trị phải ứng phó linh hoạt để giải quyết một trường hợp bất thường. Lúc này cấp trên có thể gợi ý để cấp dưới tuỳ nghi giải quyết hay ngược lại cấp dưới có thể gợi ý cho cấp trên đề ra một phương án hay đưa ra một quyết định mang tính tình thế. Sau đó, quyết định hay phương án này biến thành tiền lệ cho các sự cố phát sinh về sau.
3.3. Hình thành chiến lược và chính sách do ngầm định.
Trong hầu hết mọi trường hợp, chiến lược và chính sách do ngầm định được hình thành khi công ty chưa có các chiến lược và chính sách rõ ràng. Các nhân viên hay thuộc cấp sẽ quyết định hành động theo cách họ hiểu qua động thái hay hành vi của cấp trên. Thí dụ, những nhà quản lý cao cấp của một công ty nào đó đã sốt sắng thu thập những ý tưởng sản phẩm mới. Sự hưởng ứng khá sâu rộng, nhưng mỗi ý tưởng phải trải qua những thủ tục xem xét rất phức tạp và được đánh giá bằng các tiêu chuẩn rất thận trọng. Kết quả là hầu hết các ý tưởng đều bị loại bỏ mà không có lời giải thích nào cả, thậm chí cả những nhân vật chủ chốt trong công ty cũng tin rằng đó chính là chính sách của công ty để giới hạn các sản phẩm mới với những loại hàng ít mạo hiểm. Chính sách ngầm hiểu này đã trở thành đường lối chỉ đạo thực sự cho các quyết định về sản phẩm mới, nó hoàn toàn ngược lại với chính sách thực sự mà công ty mong muốn.
3.4. Chiến lược và chính sách hình thành do sức ép tác động từ bên ngoài tổ chức.
Cách hình thành chiến lược và chính sách kinh doanh do sức ép bên ngoài hiện nay là phổ biến. Sức ép ở tầm vĩ mô như các tác lực kinh tế, thể chế và pháp lý, xã hội, môi trường tự nhiên và kỹ thuật công nghệ. Các tác lực trong ngành kinh doanh như đối thủ cạnh tranh (hiện hữu lẫn tiềm tàng), nhà cung cấp, khách hàng và sản phẩm thay thế.
Sự điều chỉnh trực tiếp sự cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc doanh hay các doanh nghiệp được nhà nước hỗ trợ và những điều kiện đòi hỏi cần có sự trợ giúp hay hợp đồng của nhà nước chính là một hình thức gây sức ép từ bên ngoài. Những hiệp hội quốc gia mạnh hoạt động qua đàm phán tập thể và các hợp đồng lao động chi tiết cũng đã tác động tới chính sách của nhà quản lý. Ngoài ra, hàng ngàn tổ chức địa phương, khu vực, quốc gia đều có ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau đến chính sách. Những tổ chức xã hội và nhân đạo cũng có thể tạo ra sức ép đối với chính sách hay chiến lược của một doanh nghiệp.
Nói chung, các chiến lược và chính sách kinh doanh xét về cơ bản càng được xây dựng chu đáo và chặt chẽ thì càng đảm bảo cho các chương trình hành động hay các kế hoạch tác nghiệp của doanh nghiệp được vận dụng hiệu quả, tạo được ưu thế cạnh tranh và nhất là đáp ứng theo yêu cầu hoạt động phát triển của công ty về lâu về dài.
III. NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC VÀ HỆ THỐNG MỤC TIÊU CỦA CÔNG TY.
1. Nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu là nền tảng cho công tác hoạch định chiến lược.
Thông thường các công ty xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp trước khi phân tích môi trường kinh doanh. Một số không ít các công ty khác chủ trương có vẻ ngược lại khi họ tìm hiểu, phân tích môi trường kinh doanh trước khi xác định nhiệm vụ chiến lược và mục tiêu của doanh nghiệp. Lập luận của quan điểm này cho rằng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt quyết liệt hiện nay thì thái độ khôn ngoan của các nhà chiến lược là phải “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” hay thậm chí “liệu cơm gắp mắm”. Thái độ trên đây là đúng đắn trong hành động hơn là trong tư duy chiến lược. hay nói cách khác, về mặt hoạch định chiến lược thì nền tảng để xây dựng các kế hoạch chiến lược cần được đặt trên cơ sở nhiệm vụ chiến lược và các mục tiêu định hướng. Hơn nữa, theo Henry Mintzberg với chiến lược phát khởi theo diễn tiến của tình huống, đòi hỏi thông tin phản hồi của môi trường hoạt động nhằm điều chỉnh liên tục các chiến lược chủ định cho phù hợp với thực tiễn áp dụng là điều giúp cho ta thấy rõ tính logic của vấn đề.
Nhiệm vụ chiến lược là mục đích chính của công ty nhằm phân biệt đặc trưng của công ty với các công ty cùng ngành. Nhiệm vụ chiến lược bao hàm tư tưởng chủ đạo của công ty định hướng cho công việc.
+Xác định tình hình hoạt động của công ty trong hiện tại lẫn tương lai.
+Phân biệt công ty với các đơn vị cùng ngành.
+Xác lập tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động hiện tại và tương lai.
Nhiệm vụ chiến lược cũng còn được gọi là tôn chỉ hay chức năng nhiệm vụ của công ty nhằm làm sáng tỏ một điều : “Công việc kinh doanh của công ty nhằm mục đích gì ?”. Theo Peter Drucker, đặt ra câu hỏi như vậy là đồng nghĩa với câu hỏi : “nhiệm vụ của công ty là gì ?”.
Các mục tiêu của công ty bao gồm các kết quả cụ thể mà công ty mong muốn đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Căn cứ vào yếu tố thời gian, người ta có hai cách phân biệt giữa mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn :
Cách 1:
Các mục tiêu dài hạn với thời gian thực hiện trên 1 năm, các mục tiêu ngắn hạn dưới 1 năm.
Cách 2 :
Các mục tiêu dài hạn với thời gian thực hiện kéo dài lâu hơn một chu kỳ quyết định. Các mục tiêu ngắn hạn với thời gian nhanh hơn một chu kỳ quyết định.
2. Xác định nhiệm vụ chiến lược của công ty.
Hầu hết các công ty xác định mục đích hoạt động và nhiệm vụ chiến lược của họ trên cơ sở phân tích các nguồn lực hiện hữu và tiềm năng của bản thân doanh nghiệp (Company itself) kết hợp với việc nghiên cứu khách hàng (Customers) và tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh (Competiter) trong cùng ngành nghề kinh doanh. Đây gọi là nguyên tắc 3C, nguyên tắc này cụ thể như sau :
+ Bản thân doanh nghiệp có những điểm mạnh và nhược điểm nào đó trong quan hệ với các biến động ngoại vi ? Các biến động này có thể là những cơ hội hay nguy cơ đe doạ trực tiếp hay gián tiếp đối với công ty. cần trả lời các câu hỏi đại loại như :Công ty kinh doanh sản phẩm nào, mặt hàng nào hay tham gia các SBU nào ? Công ty cần kinh doanh gì thêm ? Công ty nên hay phải kinh doanh gì là phù hợp nhất ?.
+ Để nghiên cứu khách hàng, một số vấn đề cần đặt ra như : Khách hàng của ta là ai ? Họ cần gì ? Nhu cầu nào của họ ta có thể đáp ứng được không ? Công ty dùng phương tiện hay công nghệ nào để phục vụ khách hàng tốt nhất ? Theo quan điểm của Theodore Levitt, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại lâu dài khi nhận ra rằng : “tiến trình thoả mãn khách hàng quan trọng hơn nhiều so với tiến trình làm ra sản phẩm” vì sản phẩm và kỹ thuật (công nghệ phục vụ) đến một lúc nào đó sẽ bị lỗi thời và bị đào thải trong khi nhu cầu thị trường căn bản vẫn cứ tồn tại mãi mãi.
+ Tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh, đánh giá tiềm lực của đối thủ, xác định vị thế và ưu thế của từng đối thủ trên cơ sở phân tích SWOT bằng cách xem xét các điểm mạnh, điểm yếu của dối thủ, cơ hội và rủi ro đe dọa đối với đối thủ cạnh tranh.
3. Xác định ngành kinh doanh .
3.1. Ngành kinh doanh của công ty đơn ngành.
3.1.1. Ngành nghề nào thích hợp với công ty ?
Đối với công ty đơn ngành (single business company), để trả lời câu hỏi “Ngành kinh doanh nào thích hợp với công ty ? ” Derek F.Abell đã đưa ra khung hình 3 chiều :
Hình 2 : Khung hình 3 chiều của Abell
Sự lựa chọn ngành kinh doanh thích hợp gắn liền với việc xác định thị trường gồm 3 yếu tố cấu thành:
• Nhóm người tiêu dùng.
• Nhu cầu tiêu dùng, và
• Công nghệ cần sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhóm người tiêu dùng.
3.1.2. Triển vọng của ngành ?
Cách tiếp cận của Abell nhấn mạnh đến nhu cầu tiêu dùng cần được thoả mãn của nhóm người tiêu dùng thay vì xác định ngành kinh doanh theo định hướng sản phẩm, điều này phù hợp với quan điểm của Theodore Levitt. Kinh doanh theo định hướng khách hàng tiêu dùng thể hiện việc áp dụng một công nghệ riêng biệt tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn một nhu cầu riêng biệt của một nhóm người tiêu dùng riêng biệt. Trên thực tế có khá nhiều phương cách khác nhau để phục vụ một nhu cầu riêng biệt của một nhóm người tiêu dùng riêng biệt. Nhà doanh nghiệp ngày nay cần biết nhận dạng những phương cách đa dạng, qua đó xác định ngành kinh doanh định hướng vào người tiêu dùng để có thể bảo toàn công ty khỏi bị vấp ngã trước những thay đổi lớn trong nhu cầu của thị trường hay trong thị hiếu khách hàng.
3.2. Ngành kinh doanh của công ty đa ngành.
Một công ty đa ngành tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh riêng biệt. Mỗi lĩnh vực được xem là một doanh nghiệp. Do đó, để trả lời câu hỏi “Ngành kinh doanh nào thích hợp với công ty ?” cần được xem xét trên hai phương diện khác nhau:
• Phương diện doanh nghiệp.
• Phương diện tổng thể công ty.
Đối với doanh nghiệp, trọng tâm của việc xác định ngành kinh doanh là theo định hướng người tiêu dùng.
Đối với tổng thể công ty, việc xác định các ngành kinh doanh của công ty không phải là tổng gộp các lĩnh vực kinh doanh riêng biệt vì điều đó dẫn tới một bản thuyết minh chức năng nhiệm vụ chiến lược không mạch lạc và thiếu trọng tâm. Do vậy, trọng tâm của việc xác định các ngành kinh doanh theo phương diện tổng thể phải định hướng trên cơ sở phân tích danh mục vốn đầu tư (portfolio analysis) nhằm đánh giá từng ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh riêng biệt (SBU: đơn vị kinh doanh chiến lược = strategic business unit) của công ty. Điều này làm nảy sinh nhiều loại chiến lược với cấp độ khác nhau (cấp công ty, cấp đơn vị kinh doanh, cấp bộ phận chức năng) gắn liền với các hoạt động phức tạp đa dạng của công ty từ việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới cho đến việc bỏ các ngành nghề đang kinh doanh.
Cách tiếp cận theo danh mục vốn đầu tư để lập kế hoạch chiến lược được định nghĩa là: các kỹ thuật phân tích giúp xác định và đánh giá các hoạt động kinh doanh của công ty đa ngành nhằm mục đích phân phối các nguồn lực và lựa chọn một chiến lược cạnh tranh dựa trên cơ sở tiềm lực phát triển của mỗi SBU và của các nguồn tài chính mà các SBU đó sẽ chi tiêu hay tạo ra.
Hình 3 : Sơ đồ các yếu tố quan trọng trong việc xác định ngành nghề hoạt động.
4. Mục tiêu của công ty.
4.1. Mục tiêu là gì ?
Nói ngắn gọn, mục tiêu là những kết quả kỳ vọng. Nói rộng ra, mục tiêu là những thành quả mà nhà quản trị muốn đạt được trong tương lai cho tổ chức mình. Mục tiêu thường phản ánh trạng thái mong đợi có thể thực hiện và cần thực hiện tại một thời điểm hay sau một thời gian nhất định. Hệ thống các mục tiêu của doanh nghiệp được xem như vừa là cơ cấu có tính chất tĩnh tại, vừa là tiến tình hay quá trình có tính cách năng động, nên vai trò của mục tiêu doanh nghiệp thể hiện hai mặt :
* Mặt tĩnh tại khi xác định cụ thể các mục tiêu như những mốc định hướng làm nền tảng cho công tác hoạch định chiến lược.
* Mặt năng động khi các mục tiêu nói trên quy hướng đến mục đích chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Theo nghĩa này, mục tiêu không chỉ là mốc cố định mà còn linh hoạt phát triển với những kết quả kỳ vọng ngày càng cao hơn trong phạm vi nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của công ty.
4.2. Mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có thể đề ra rất nhiều mục tiêu, hàng vài chục thậm chí hàng trăm các mục tiêu đặc thù cụ thể khác nhau nhưng đều phải hướng về một mục tiêu quan trọng nhất là làm cho vốn liếng của các cổ đông (chủ sở hữu hợp pháp của công ty) ngày càng tăng giá trị. Một trong những phương cách tốt nhất để tối đa hoá lợi nhuận của cổ đông là doanh nghiệp theo đuổi các chiến lược nhằm tăng tối đa hoá lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI : Return On Investment). ROI là một chỉ số biểu thị tổng quát tốt nhất về hiệu quả kinh doanh của công ty. ROI càng cao thì cổ phiếu của công ty càng có giá trị, càng được ưa chuộng trên thị trường chứng khoán. Trên bình diện rộng, các nhà doanh nghiệp thời nay cần biết cách hài hoà giữa 3 mục tiêu chính sau đây trong sự nghiệp kinh doanh của mình :
+ Mục tiêu chính của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận.
+ Mục tiêu chính của khách hàng là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng.
+ Mục tiêu chính của xã hội là phúc lợi công cộng.
4.3. Các mục tiêu thứ yếu của doanh nghiệp.
Các mục tiêu thứ yếu của doanh nghiệp có liên quan đến 7 lĩnh vực sau đây :
+ Thị phần,
+ Năng suất,
+ Cải tiến công nghệ,
+ Nguồn tài chính và cơ sở vật chất,
+ Hiệu quả quản lý và khả năng phát triển,
+ Thành tích và thái độ làm việc của nhân viên,
+ Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Ngay khi một công ty không xác định hay không công khai thừa nhận những mục tiêu thứ yếu thì họ vẫn ngầm định các mục tiêu này thông qua sự cam kết đối với lợi nhuận dài hạn là mục tiêu quan trọng của công ty.
IV. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP.
Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì việc xác định và phân tích môi trường của doanh nghiệp là rất quan trọng, môi trường của doanh nghiệp bao gồm :
• Môi trường bên ngoài doanh nghiệp.
• Môi trường bên trong doanh nghiệp
Việc phân tích hai môi trường này của doanh nghiệp nhằm giúp cho nhà doanh nghiệp thấy được doanh nghiệp của mình đang đối diện với những vấn đề gì, có những khó khăn và thuận lợi gì để từ đó xác định chiến lược kinh doanh cho phù hợp.
1. Môi trường bên ngoài doanh nghiệp.
Môi trường bên ngoài doanh nghiệp bao gồm :
• Môi trường vĩ mô.
• Môi trường vi mô.
Những tác nhân thuộc môi trường vĩ mô thì doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng một cách gián tiếp, còn với tác nhân thuộc môi trường vi mô thì doanh nghiệp chịu tác động một cách trực tiếp.
1. Chiến lược thông tin.
Xây dựng hệ thống quản lý thông tin khoa học công nghệ với các nội dung:
+ Tổng kết biên soạn quản lý thông tin về chức năng kỹ thuật thiết bị, bản vẽ thiết kế, quy trình công nghệ mẫu, làm tư liệu sử dụng hàng ngày của Công ty.
+ Tổ chức thu thập nghiên cứu thẩm định, lưu trữ các thông tin, văn bản pháp quy phục vụ cho phương hướng phát triển khoa học công nghệ của Công ty.
+ Xây dựng thư viện khoa học kỹ thuật trên cơ sở kết hợp việc nối mạng thông tin để hình thành hệ thống lưu trữ và quản lý tài liệu gốc, tài liệu có giá rị sử dụng cao, sử dụng lâu dài.
+ Quản lý sáng chế, phát minh, sáng kiến nhãn hiệu hàng hoá, bản quyền và các chế độ về chính sách về khoa học công nghệ của Nhà nước.
+ Áp dụng rộng rãi CNTT và quản lý sản xuất, xây dựng hệ thống CNTT thống nhất tiến tới nối mạng quốc gia và nối mạng Internet.
+ Ban hành các quy định về khai thác sử dụng thông tin nhằm chuyển hoá giá trị thực hành các dự án và chương trình đầu tư có lợi cho sản xuất kinh doanh.
2. Chiến lược nhân sự.
Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, Công ty phải đổi mới thiết bị, dây chuyền công nghệ. Do đó đòi hỏi trình độ tổ chức quản lý kinh tế, kỹ thuật của cán bộ quản lý, trình độ tay nghề của công nhân ngày càng phải được nâng cao.
- Với xu hướng hiện nay là thay đổi cung cách quản lý cho phù hợp, tinh giảm bộ máy quản lý buộc các nhà quản lý, nhân viên kỹ thuật phải kiêm nhiệm có nghĩa là phải biết nhiều nghề. Do đó vấn đề đào tạo cần được đưa ra với phương châm: “giỏi một nghề, biết nhiều nghề”.
- Phòng tổ chức cán bộ phải chủ động quan hệ với các trường đại học và trường công nhân kỹ thuật để tuyển dụng và gửi người đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho công ty, không thụ động như hiện nay.
- Nghiên cứu cơ chế đào tạo cho các kỹ sư trẻ, coi đây là sự đầu tư cơ bản cho Công ty.
- Đánh giá chính xác nhu cầu đào tạo để tránh lãng phí về thời gian và chi phí.
- Cần chế định, chiến lược và chính sách phát trriển lực lượng nhân tài quản lý để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành cơ khí, dành lực lượng tài chính và vật chất tương ứng cho chiến lược phát triển đó
* Trong thời gian tới để tăng cường sức mạnh về tài chính và theo nghị định số 41/2002/NĐ-CP ban hành ngày 11/4/2002, dựa vào các nghị định số 58, 64, 69 Công ty cơ khí Hà Nội nên chuển đổi thành Công ty TNHH một thành viên nhằm thu hút vốn đầ tư từ bên ngoài và đặc là huy động vốn từ CBCNV tạo cho họ có trách nhiệm hơn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Sau khi thực hiện các chiến lược trên thế mạnh của Công ty sẽ tăng cao, nhưng để đứng vững được trong thời kỳ hội nhập toàn cầu thì Công ty cần tiến hành liên kết liên doanh với các nhà cung cấp để chủ động nguyên liệu đầu vào đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm (hội nhập ngược).
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH 1
I. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1
1. Tổng quan về kinh tế thị trường 1
2. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 5
3. Các giai đoạn hoạt động kinh doanh của Công ty 7
II. Chiến lược và chính sách kinh doanh 9
1. Chiến lược là gì? 9
2. Chính sách kinh doanh 10
3. Các nguồn phát sinh chiến lược và chính sách kinh doanh 11
III. Nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu của Công ty 13
1. Nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu là nền tảng cho công tác hạch định chiến lược 13
2. Xác định nhiệm vụ chiến lược của Công ty 15
3. Xác định ngànnh kinh doanh 16
4. Mục tiêu của Công ty 18
IV. Phân tích môi trường của doanh nghiệp 20
1. Môi trường bên ngoài doanh nghiệp 20
2. Môi trường bên trong doanh nghiệp 30
V. Các chiến lược kinh doanh 31
1. Chiến lược tổng thể 31
2. Chiến lược cạnh tranh cấp kinh doanh 37
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP 40
A. Môi trường bên trong Công ty 40
I. Tình hình chung của Công ty 40
1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Công ty 40
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty 43
II. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 49
1. Các hoạt động đầu vào 49
2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 53
3. Phân tích tình hình tiêu thụ một số máy công cụ 62
4. Marketing và các hoạt động bán hàng 63
III. Phân tích các hoạt động bổ trợ bên trong doanh nghiệp 67
1. Phân tích nguồn nhân lực 67
2. Nghiên cứu và phát triển 74
3. Tài chính kế toán 75
4. Nền nếp văn hoá tổ chức của Công ty 78
5. Hệ thống thông tin 78
B. Phân tích môi trường ngoài Công ty 79
I. Môi trường vĩ mô 79
1. Môi trường kinh tế 79
2. Môi trường chính trị pháp luật 81
3. Môi trường dân số và văn hoá địa lý 83
4. Môi trường công nghệ 84
II. Môi trờng vi mô 84
1. Các đối thủ tiềm năng và các đối thủ đang hoạt động 84
2. Nhà cung cấp 86
3. Phân tích nhu cầu thị trường (khách hàng) 86
Chương III: Xây dựng chiến lược phát triển của Công ty cơ khí hà nội đến năm 2010 89
I. Chiến lược tổng thể 89
II. Chiến lược cấp kinh doanh 95
1. Chiến lược sản phẩm 95
2. Chiến lược đầu tư 95
3. Chiến lược nghiên cứu và phát triển ( R&D) 96
4. Chiến lược Marketing 96
5. Chiến lược thông tin 98
6. Chiến lược nhân sự 98

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: