nguoiwenttv
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lời mở đầu
Nhờ có đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước mà trong những năm qua hoạt động đầu tư đă và đang phát triển mạnh mẽ về quy mô, đa dạng về nguồn vốn, ngành nghề và hình thức sở hữu, rộng rãi trên phạm vi cả nước. Trong thời gian qua, chúng ta đã có những cơ chế, chính sách và giải pháp tương đối phù hợp nên đã huy động được các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước để làm tăng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. Sự phát triển của hoạt động đầu tư là một trong những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân và giải quyết nhiều vấn đề xã hội của nước nhà.
Các thông tin về hoạt động đầu tư, nhất là thông tin về vốn đầu tư phát triển, đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý kinh tế đất nước. Cùng với các chỉ tiêu tổng hợp quan trọng khác, chỉ tiêu tổng số vốn đầu tư phát triển được các nhà quản lý sử dụng để tính toán chỉ tiêu GDP trong từng quý hay từng năm. Chỉ tiêu này cũng giúp cho các nhà hoạch định chính sách quản lý vĩ mô phù hợp ( về huy động nguồn vốn, về điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo vùng, khu vực đầu tư và ngành… ) trong từng giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Hơn thế nữa các thông tin về hoạt động đầu tư còn được dùng vào các nghiên cứu chuyên đề về kinh tế, tài chính, ngân hàng. Cuối cùng là một số chỉ tiêu về đầu tư có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng của một số tổ chức quốc tế cũng như các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến thị trường Việt Nam.
Qua những thực tế đó, và qua thời gian thực tập tại Tổng cục thống kê, em mạnh dạn nghiên cứu vấn đề về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội với đề tài nghiên cứu là: “ Phân tích vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996 – 2000 và đoán cho những năm gần đây ”.
Đề tài này gồm 3 chương chính:
Chương I: Cung cấp những khái niệm và thuật ngữ có liên quan đến hoạt động đầu tư và phát triển toàn xã hội.
Chương II: Là một số biện pháp thống kê cần dùng để phân tích việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Chương III: Là vận dụng các chỉ tiêu phân tích ở chương II nhằm phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội và đoán cho những năm sau.
Chương I
Khái quát chung về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
I. Một số khái niệm chủ yếu
Để có cơ sở phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển trước hết chúng ta phải tìm hiểu một số khái niệm, thuật ngữ sẽ được sử dụng trong đề tài này.
1. Đầu tư phát triển, vốn đầu tư phát triển, dự án đầu tư và các thuật ngữ có liên quan
Trước đây, hai thuật ngữ “đầu tư “và “đầu tư xây dựng cơ bản” thường được sử dụng và chúng thường được đi cùng với nhau để tạo thành một khái niệm “đầu tư xây dựng cơ bản “. Trong những năm gần đây ở nước ta mới là “đầu tư phát triển” và cũng tương tự như vậy đối với khái niệm “vốn đầu tư phát triển”. Các thuật ngữ này ngày càng thường xuyên xuất hiện trong các tài liệu, sách báo và trong một số trường hợp chúng được dùng thay thế cho thuật ngữ đầu tư và đầu tư XDCB.
Thực tế cho thấy rằng, có một mối quan hệ rất gần gũi giữa sự phát triển của nền kinh tế ( thể hiện ở mức tăng trưởng ) và vốn đầu tư. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao cần một nguồn vốn đầu tư lớn và ngược lại một tốc độ đầu tư cao chỉ có thể duy trì được trong một thời kì dài nhờ vào tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Có thể đây là một trong những lý do chủ yếu để hai thuật ngữ “vốn đầu tư” và “phát triển” được ghép lại với nhau để hình thành một thuật ngữ mới là “vốn đầu tư phát triển” và “vốn đầu tư phát triển toàn xã hội”.
1.1. Đầu tư
Đi vào nội dung của thuật ngữ mới này, để thuận tiện, trước tiên hãy xem xét thế nào là “đầu tư” và “vốn đầu tư”? Hai học giả người Mỹ Paul A.Samuelson và William D.Nordhaus đã định nghĩa về Đầu tư gồm 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau như sau:
(1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế để dành hay tiết kiệm tiêu dùng hiện tại nhằm tăng thêm nhiều sản lượng trong tương lai. Nó bao gồm các khoản vốn, tư liệu sản xuất hữu hình (công trình xây dựng, vật kiến trúc, máy móc và hàng tồn kho) và các khoản vốn đầu tư vô hình (giáo dục hay “vốn đầu tư con người”, nghiên cứu và phát triển, sức khoẻ)
(2). Theo thuật ngữ tài chính, đầu tư có một nghĩa hoàn toàn khác là bao hàm một khoản chi phí về chứng khoán, chẳng hạn như cổ phần hay cổ phiếu.
Hai ông cho rằng cần phân biệt rõ hai khái niệm đầu tư trên. Đối với các nhà kinh tế học, đầu tư là việc sản suất ra các tư liệu sản xuất lâu bền. Nhưng trong đời sống thì đầu tư lại thường bao hàm tiền để mua cổ phiếu hay mở một tài khoản tiết kiệm. Nếu một người dùng 5 triệu đồng tiền gửi tiết kiệm được để mua trái phiếu của chính phủ hay mua trái phiếu của ngân hàng, theo thuật ngữ kinh tế, sẽ không có hoạt động đầu tư nào xảy ra .Tất cả chẳng qua chỉ chuyển đổi một hình thái tài sản tài chính từ dạng này sang dạng khác. Chỉ khi một tư liệu sản xuất vật chất được tạo ra là lúc mà các nhà kinh tế gọi là đầu tư.
Trong qui chế đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của chính phủ cũng như trong các văn bản có liên quan của các chức năng, tuy thuật ngữ đầu tư và đầu phát triển có được sử dụng, nhưng không có một định nghĩa hay sự giải thích cụ thể nào về hai khái niệm này, mà chỉ đưa ra một số thuật ngữ liên quan về đầu tư và xây dựng như sau:
(1) “Dự án đầu tư” là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hay cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, hay duy trì, cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp)
Trong thực tế quá trình thực hiện hầu hết các dự án đầu tư đều thường phải thông qua hoạt động xây dựng cơ bản, nhưng về mặt lý thuyết thì thực hiện một dự án đầu tư không nhất thiết phải bao gồm hoạt động xây dựng cơ bản.
(2) “Tổng dự toán” là tổng chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng ( chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư kể cả mua sắm thiết bị, các chi phí khác của dự án) được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây dựng, không vượt quá tổng mức đầu tư được duyệt.
(3) “Vốn đầu tư được quyết toán” là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác. Chi phí hợp pháp là chi phí theo đúng hợp đồng đã kí kết và thiết kế dự toán đã được duyệt, đảm bảo đúng qui chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính – kế toán và những quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan. Vốn đầu tư được quyết toán trong giới hạn tổng mức đầu tư đã được duyệt hay đã được điều chỉnh (nếu có)
1. 2 Đầu tư phát triển toàn xã hội.
“Đầu tư phát triển” là quá trình bỏ vốn để tạo ra hay duy trì một tài sản vật chất và phi vật chất với hi vọng nhận được lợi ích trong tương lai. Nói cách khác, đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế để dành (tiết kiệm) tiêu dùng hiện tại nhằm tăng thêm nhiều sản phẩm trong tương lai. Nó bao gồm các khoản vốn, tư liệu sản xuất hữu hình ( công trình xây dựng, vật kiến trúc, máy móc và hàng tồn kho) và các khoản vốn đầu tư vô hình (giáo dục, nghiên cứu và phát triển, sức khoẻ). Đầu tư phát triển không bao hàm các hoạt động mua bán chứng khoán, gửi tiền tiết kiệm.
Như vậy vốn đầu tư phát triển sẽ có nội dung rộng hơn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và khôi phục tài sản trong nền kinh tế, về thực chất chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Trong khi đó, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định còn làm tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái, hỗ trợ các chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ các hoạt động đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn khác mà những chi phí này không thuộc vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, trong cấu thành vốn đầu tư phát triển thì vốn đầu tư XDCB vẫn là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Ta có thể chia vốn đầu tư phát triển làm hai phần như sau:
-Vốn đầu tư phát triển muốn phát huy tác dụng trước hết phải thông qua hoạt động xây dựng (bao gồm cả hoạt động xây dựng, lắp đặt thiết bị và mua sắm thiết bị). Như vậy, các dự án phải tiến hành hoạt động xây dựng thì vốn đầu tư của dự án sẽ thuộc nhóm này (gọi là dự án đầu tư xây dựng ).
- Vốn đầu tư phát triển muốn phát huy hết tác dụng không phải thông qua hoạt động xây dựng. Như vậy, các dự án không có hoạt động xây dựng thì vốn đầu tư của dự án sẽ thuộc nhóm này (các dự án đầu tư không thuộc xây dựng).
ở đây, chúng ta cần chú ý phân biệt tài nguyên thiên nhiên như đất đai, hầm mỏ... không được liệt vào phạm trù vốn đầu tư phát triển vì nó không được tạo ra từ các hoạt động đầu tư. Còn các khoản hoạt động đầu tư dưới dạng thiết bị máy móc, nhà xưởng, vật kiến trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên thì lại được xếp vào vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian và do nhu cầu sử dụng các tài sản vật chất ngày càng tăng cho nên cần tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới. Quá trình này được thực hiện bởi hoạt động đầu tư nhờ vào vốn đầu tư phát triển.
“Đầu tư phát triển toàn xã hội” là những chi phí bỏ ra gắn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn xã hội
1. 3 Tổng mức vốn đầu tư
“Tổng mức vốn đầu tư” là giới hạn chi phí tối đa mà người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép chủ đầu tư lựa chọn các phương án thực hiện dự án đầu tư. Tổng mức vốn đầu tư bao gồm những chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư (điều tra khảo sát, lập và thẩm định dự án), chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư và xây dựng, chi phí chuẩn bị sản xuất, nghiệm thu, lãi vay ngân hàng của chủ đầu tư trong thời gian thực hiện dự án, vốn lưu động ban đầu cho sản xuất (đối với dự án sản xuất), chi phí bảo hiểm công trình, chi phí quản lý dự án, các khoản thuế theo qui định, chi phí cho thẩm định phê duyệt quyết toán và chi phí dự phòng.
Tổng số vốn đầu tư phát triển để tích luỹ còn được gọi là tài sản quốc gia. Về phương diện vật chất, tài sản quốc gia như là một kết quả của quá trình đầu tư bao gồm các loại: công xưởng, nhà máy, các trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các cơ sở hạ tầng, hàng hoá tồn kho các loại, các công trình công cộng và nhà ở....
Thành phần chi tiết của tổng mức vốn đầu tư của các dự án đầu tư có xây dựng cơ bản bao gồm:
* Vốn chuẩn bị đầu tư gồm các khoản chi phí:
- Điều tra, khảo sát, nghiên cứu phục vụ cho lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi.
- Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi (kể cả tư vấn) hay lập báo cáo đầu tư.
- Phí thẩm định dự án.
* Vốn chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư gồm các khoản chi phí:
- Dàn xếp về vốn (trong trường hợp vay vốn nước ngoài được ngân hàng Nhà nước chấp nhận).
- Đấu thầu thực hiện dự án và xét thầu.
- Các dịch vụ tư vấn kĩ thuật, tư vấn hỗ trợ quản lý, giám sát, tư vấn xây dựng.
- Chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kĩ thuật ban đầu.
- Khảo sát thiết kế xây dựng.
- Thiết kế, thẩm định thiết kế.
- Lập và thẩm định tổng dự toán, dự toán công trình.
- Đền bù giải phóng mặt bằng.
- Thực hiện tái định cư có liên quan đến đền bù giải phóng mặt bằng của dự án (nếu có).
- Chuẩn bị mặt bằng.
* Vốn thực hiện đầu tư gồm:
- Chi phí thiết bị.
- Chi phí xây dựng và lắp đặt thiết bị.
- Các chi phí khác:
+ Sử dụng mặt đất, mặt nước.
+ Đào tạo.
như mong muốn.Ngoài 3 ngành trên có quy mô giá trị tài sản cố định mới tăng là lớn nhất các ngành giáo dục và đào tạo, ngành hoạt động văn hoá thể thao, ngành y tế hoạt động cứu trợ cũng có giá trị tài sản cố định mới tăng khá đều qua các năm qua. Ngành giáo dục và đào tạo có giá trị mới tăng 936,3 tỷ đồng năm 1996 lên 1739,9 tỷ năm 1997 là 2046 tỷ đồng vào năm 1998 và đạt 3078,7tỷ vào năm 1999. Sự gia tăng này khẳng định chủ trương của xã hội hoá giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước bằng cách cao hơn nữa cơ sở vật chất của ngành này. Ngành nông nghiệp có giá trị tài sản cố định mới tăng vào năm 1998 giảm 410,7 tỷ giảm 10,5% so với năm 1997 nhưng lại tăng dần qua các năm sau do một số công trình được xây dựng vào những năm trước nhưng lại bắt đầu đưa vào dụng từ năm 1998.
Xét giá trị tài sản cố định mới tăng là ta đã xét đến chỉ tiêu hiện vật, để phản ánh khả năng phát huy tác dụng của các giá trị tài sản cố định mới tăng trên ta xem xét năng lực sản xuất tăng thêm trong một số lĩnh vực.
Trong năm năm vừa qua nước ta đã hoàn thành và đưa vào sử dụng hàng trăm công trình lớn nhỏ nhằm phát triển cơ sở hạ tầng đất nước. Do đó năng lực sản xuất cuả các ngành kinh tế cũng như chất lượng sinh hoạt đời sống của nhân dân được cải thiện một cách đáng kể….Một số ngành đã đáp ứng được gần sát với thực tế nhu cầu của thành phố như điện, nước, giao thông vận tải.
Chỉ tiêugiá trị tài sản cố định mới tăng thêm và năng lực sản xuất mới tăng chỉ phản ánh được mặt lượng, để nghiên cứu mặt chất của quá trình đầu tư phát triển toàn xã hội ta sẽ nghiên cứu hệ số ICOR
4.Hệ số ICOR.
Vốn đầu tư phát triển là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít mà quan trọng hơn cả là dựa vào hiệu quả sử dụng của lượng vốn này cao hay thấp. Phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có nhiều chỉ tiêu nhưng tổng hợp nhất vẫn là hệ số ICOR, hệ số giữa vốn đầu tư và phát triển toàn xã hội với sự tăng lên của GDP tính theo giá so sánh.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
Lời mở đầu
Nhờ có đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước mà trong những năm qua hoạt động đầu tư đă và đang phát triển mạnh mẽ về quy mô, đa dạng về nguồn vốn, ngành nghề và hình thức sở hữu, rộng rãi trên phạm vi cả nước. Trong thời gian qua, chúng ta đã có những cơ chế, chính sách và giải pháp tương đối phù hợp nên đã huy động được các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước để làm tăng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. Sự phát triển của hoạt động đầu tư là một trong những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân và giải quyết nhiều vấn đề xã hội của nước nhà.
Các thông tin về hoạt động đầu tư, nhất là thông tin về vốn đầu tư phát triển, đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý kinh tế đất nước. Cùng với các chỉ tiêu tổng hợp quan trọng khác, chỉ tiêu tổng số vốn đầu tư phát triển được các nhà quản lý sử dụng để tính toán chỉ tiêu GDP trong từng quý hay từng năm. Chỉ tiêu này cũng giúp cho các nhà hoạch định chính sách quản lý vĩ mô phù hợp ( về huy động nguồn vốn, về điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo vùng, khu vực đầu tư và ngành… ) trong từng giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Hơn thế nữa các thông tin về hoạt động đầu tư còn được dùng vào các nghiên cứu chuyên đề về kinh tế, tài chính, ngân hàng. Cuối cùng là một số chỉ tiêu về đầu tư có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng của một số tổ chức quốc tế cũng như các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến thị trường Việt Nam.
Qua những thực tế đó, và qua thời gian thực tập tại Tổng cục thống kê, em mạnh dạn nghiên cứu vấn đề về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội với đề tài nghiên cứu là: “ Phân tích vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996 – 2000 và đoán cho những năm gần đây ”.
Đề tài này gồm 3 chương chính:
Chương I: Cung cấp những khái niệm và thuật ngữ có liên quan đến hoạt động đầu tư và phát triển toàn xã hội.
Chương II: Là một số biện pháp thống kê cần dùng để phân tích việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Chương III: Là vận dụng các chỉ tiêu phân tích ở chương II nhằm phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội và đoán cho những năm sau.
Chương I
Khái quát chung về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
I. Một số khái niệm chủ yếu
Để có cơ sở phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển trước hết chúng ta phải tìm hiểu một số khái niệm, thuật ngữ sẽ được sử dụng trong đề tài này.
1. Đầu tư phát triển, vốn đầu tư phát triển, dự án đầu tư và các thuật ngữ có liên quan
Trước đây, hai thuật ngữ “đầu tư “và “đầu tư xây dựng cơ bản” thường được sử dụng và chúng thường được đi cùng với nhau để tạo thành một khái niệm “đầu tư xây dựng cơ bản “. Trong những năm gần đây ở nước ta mới là “đầu tư phát triển” và cũng tương tự như vậy đối với khái niệm “vốn đầu tư phát triển”. Các thuật ngữ này ngày càng thường xuyên xuất hiện trong các tài liệu, sách báo và trong một số trường hợp chúng được dùng thay thế cho thuật ngữ đầu tư và đầu tư XDCB.
Thực tế cho thấy rằng, có một mối quan hệ rất gần gũi giữa sự phát triển của nền kinh tế ( thể hiện ở mức tăng trưởng ) và vốn đầu tư. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao cần một nguồn vốn đầu tư lớn và ngược lại một tốc độ đầu tư cao chỉ có thể duy trì được trong một thời kì dài nhờ vào tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Có thể đây là một trong những lý do chủ yếu để hai thuật ngữ “vốn đầu tư” và “phát triển” được ghép lại với nhau để hình thành một thuật ngữ mới là “vốn đầu tư phát triển” và “vốn đầu tư phát triển toàn xã hội”.
1.1. Đầu tư
Đi vào nội dung của thuật ngữ mới này, để thuận tiện, trước tiên hãy xem xét thế nào là “đầu tư” và “vốn đầu tư”? Hai học giả người Mỹ Paul A.Samuelson và William D.Nordhaus đã định nghĩa về Đầu tư gồm 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau như sau:
(1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế để dành hay tiết kiệm tiêu dùng hiện tại nhằm tăng thêm nhiều sản lượng trong tương lai. Nó bao gồm các khoản vốn, tư liệu sản xuất hữu hình (công trình xây dựng, vật kiến trúc, máy móc và hàng tồn kho) và các khoản vốn đầu tư vô hình (giáo dục hay “vốn đầu tư con người”, nghiên cứu và phát triển, sức khoẻ)
(2). Theo thuật ngữ tài chính, đầu tư có một nghĩa hoàn toàn khác là bao hàm một khoản chi phí về chứng khoán, chẳng hạn như cổ phần hay cổ phiếu.
Hai ông cho rằng cần phân biệt rõ hai khái niệm đầu tư trên. Đối với các nhà kinh tế học, đầu tư là việc sản suất ra các tư liệu sản xuất lâu bền. Nhưng trong đời sống thì đầu tư lại thường bao hàm tiền để mua cổ phiếu hay mở một tài khoản tiết kiệm. Nếu một người dùng 5 triệu đồng tiền gửi tiết kiệm được để mua trái phiếu của chính phủ hay mua trái phiếu của ngân hàng, theo thuật ngữ kinh tế, sẽ không có hoạt động đầu tư nào xảy ra .Tất cả chẳng qua chỉ chuyển đổi một hình thái tài sản tài chính từ dạng này sang dạng khác. Chỉ khi một tư liệu sản xuất vật chất được tạo ra là lúc mà các nhà kinh tế gọi là đầu tư.
Trong qui chế đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của chính phủ cũng như trong các văn bản có liên quan của các chức năng, tuy thuật ngữ đầu tư và đầu phát triển có được sử dụng, nhưng không có một định nghĩa hay sự giải thích cụ thể nào về hai khái niệm này, mà chỉ đưa ra một số thuật ngữ liên quan về đầu tư và xây dựng như sau:
(1) “Dự án đầu tư” là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hay cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, hay duy trì, cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp)
Trong thực tế quá trình thực hiện hầu hết các dự án đầu tư đều thường phải thông qua hoạt động xây dựng cơ bản, nhưng về mặt lý thuyết thì thực hiện một dự án đầu tư không nhất thiết phải bao gồm hoạt động xây dựng cơ bản.
(2) “Tổng dự toán” là tổng chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng ( chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư kể cả mua sắm thiết bị, các chi phí khác của dự án) được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây dựng, không vượt quá tổng mức đầu tư được duyệt.
(3) “Vốn đầu tư được quyết toán” là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác. Chi phí hợp pháp là chi phí theo đúng hợp đồng đã kí kết và thiết kế dự toán đã được duyệt, đảm bảo đúng qui chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính – kế toán và những quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan. Vốn đầu tư được quyết toán trong giới hạn tổng mức đầu tư đã được duyệt hay đã được điều chỉnh (nếu có)
1. 2 Đầu tư phát triển toàn xã hội.
“Đầu tư phát triển” là quá trình bỏ vốn để tạo ra hay duy trì một tài sản vật chất và phi vật chất với hi vọng nhận được lợi ích trong tương lai. Nói cách khác, đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế để dành (tiết kiệm) tiêu dùng hiện tại nhằm tăng thêm nhiều sản phẩm trong tương lai. Nó bao gồm các khoản vốn, tư liệu sản xuất hữu hình ( công trình xây dựng, vật kiến trúc, máy móc và hàng tồn kho) và các khoản vốn đầu tư vô hình (giáo dục, nghiên cứu và phát triển, sức khoẻ). Đầu tư phát triển không bao hàm các hoạt động mua bán chứng khoán, gửi tiền tiết kiệm.
Như vậy vốn đầu tư phát triển sẽ có nội dung rộng hơn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và khôi phục tài sản trong nền kinh tế, về thực chất chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Trong khi đó, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định còn làm tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái, hỗ trợ các chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ các hoạt động đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn khác mà những chi phí này không thuộc vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, trong cấu thành vốn đầu tư phát triển thì vốn đầu tư XDCB vẫn là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Ta có thể chia vốn đầu tư phát triển làm hai phần như sau:
-Vốn đầu tư phát triển muốn phát huy tác dụng trước hết phải thông qua hoạt động xây dựng (bao gồm cả hoạt động xây dựng, lắp đặt thiết bị và mua sắm thiết bị). Như vậy, các dự án phải tiến hành hoạt động xây dựng thì vốn đầu tư của dự án sẽ thuộc nhóm này (gọi là dự án đầu tư xây dựng ).
- Vốn đầu tư phát triển muốn phát huy hết tác dụng không phải thông qua hoạt động xây dựng. Như vậy, các dự án không có hoạt động xây dựng thì vốn đầu tư của dự án sẽ thuộc nhóm này (các dự án đầu tư không thuộc xây dựng).
ở đây, chúng ta cần chú ý phân biệt tài nguyên thiên nhiên như đất đai, hầm mỏ... không được liệt vào phạm trù vốn đầu tư phát triển vì nó không được tạo ra từ các hoạt động đầu tư. Còn các khoản hoạt động đầu tư dưới dạng thiết bị máy móc, nhà xưởng, vật kiến trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên thì lại được xếp vào vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian và do nhu cầu sử dụng các tài sản vật chất ngày càng tăng cho nên cần tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới. Quá trình này được thực hiện bởi hoạt động đầu tư nhờ vào vốn đầu tư phát triển.
“Đầu tư phát triển toàn xã hội” là những chi phí bỏ ra gắn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn xã hội
1. 3 Tổng mức vốn đầu tư
“Tổng mức vốn đầu tư” là giới hạn chi phí tối đa mà người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép chủ đầu tư lựa chọn các phương án thực hiện dự án đầu tư. Tổng mức vốn đầu tư bao gồm những chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư (điều tra khảo sát, lập và thẩm định dự án), chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư và xây dựng, chi phí chuẩn bị sản xuất, nghiệm thu, lãi vay ngân hàng của chủ đầu tư trong thời gian thực hiện dự án, vốn lưu động ban đầu cho sản xuất (đối với dự án sản xuất), chi phí bảo hiểm công trình, chi phí quản lý dự án, các khoản thuế theo qui định, chi phí cho thẩm định phê duyệt quyết toán và chi phí dự phòng.
Tổng số vốn đầu tư phát triển để tích luỹ còn được gọi là tài sản quốc gia. Về phương diện vật chất, tài sản quốc gia như là một kết quả của quá trình đầu tư bao gồm các loại: công xưởng, nhà máy, các trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các cơ sở hạ tầng, hàng hoá tồn kho các loại, các công trình công cộng và nhà ở....
Thành phần chi tiết của tổng mức vốn đầu tư của các dự án đầu tư có xây dựng cơ bản bao gồm:
* Vốn chuẩn bị đầu tư gồm các khoản chi phí:
- Điều tra, khảo sát, nghiên cứu phục vụ cho lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi.
- Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi (kể cả tư vấn) hay lập báo cáo đầu tư.
- Phí thẩm định dự án.
* Vốn chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư gồm các khoản chi phí:
- Dàn xếp về vốn (trong trường hợp vay vốn nước ngoài được ngân hàng Nhà nước chấp nhận).
- Đấu thầu thực hiện dự án và xét thầu.
- Các dịch vụ tư vấn kĩ thuật, tư vấn hỗ trợ quản lý, giám sát, tư vấn xây dựng.
- Chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kĩ thuật ban đầu.
- Khảo sát thiết kế xây dựng.
- Thiết kế, thẩm định thiết kế.
- Lập và thẩm định tổng dự toán, dự toán công trình.
- Đền bù giải phóng mặt bằng.
- Thực hiện tái định cư có liên quan đến đền bù giải phóng mặt bằng của dự án (nếu có).
- Chuẩn bị mặt bằng.
* Vốn thực hiện đầu tư gồm:
- Chi phí thiết bị.
- Chi phí xây dựng và lắp đặt thiết bị.
- Các chi phí khác:
+ Sử dụng mặt đất, mặt nước.
+ Đào tạo.
như mong muốn.Ngoài 3 ngành trên có quy mô giá trị tài sản cố định mới tăng là lớn nhất các ngành giáo dục và đào tạo, ngành hoạt động văn hoá thể thao, ngành y tế hoạt động cứu trợ cũng có giá trị tài sản cố định mới tăng khá đều qua các năm qua. Ngành giáo dục và đào tạo có giá trị mới tăng 936,3 tỷ đồng năm 1996 lên 1739,9 tỷ năm 1997 là 2046 tỷ đồng vào năm 1998 và đạt 3078,7tỷ vào năm 1999. Sự gia tăng này khẳng định chủ trương của xã hội hoá giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước bằng cách cao hơn nữa cơ sở vật chất của ngành này. Ngành nông nghiệp có giá trị tài sản cố định mới tăng vào năm 1998 giảm 410,7 tỷ giảm 10,5% so với năm 1997 nhưng lại tăng dần qua các năm sau do một số công trình được xây dựng vào những năm trước nhưng lại bắt đầu đưa vào dụng từ năm 1998.
Xét giá trị tài sản cố định mới tăng là ta đã xét đến chỉ tiêu hiện vật, để phản ánh khả năng phát huy tác dụng của các giá trị tài sản cố định mới tăng trên ta xem xét năng lực sản xuất tăng thêm trong một số lĩnh vực.
Trong năm năm vừa qua nước ta đã hoàn thành và đưa vào sử dụng hàng trăm công trình lớn nhỏ nhằm phát triển cơ sở hạ tầng đất nước. Do đó năng lực sản xuất cuả các ngành kinh tế cũng như chất lượng sinh hoạt đời sống của nhân dân được cải thiện một cách đáng kể….Một số ngành đã đáp ứng được gần sát với thực tế nhu cầu của thành phố như điện, nước, giao thông vận tải.
Chỉ tiêugiá trị tài sản cố định mới tăng thêm và năng lực sản xuất mới tăng chỉ phản ánh được mặt lượng, để nghiên cứu mặt chất của quá trình đầu tư phát triển toàn xã hội ta sẽ nghiên cứu hệ số ICOR
4.Hệ số ICOR.
Vốn đầu tư phát triển là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít mà quan trọng hơn cả là dựa vào hiệu quả sử dụng của lượng vốn này cao hay thấp. Phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có nhiều chỉ tiêu nhưng tổng hợp nhất vẫn là hệ số ICOR, hệ số giữa vốn đầu tư và phát triển toàn xã hội với sự tăng lên của GDP tính theo giá so sánh.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: