LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

A- Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa xã hội khoa học là trong ba bộ phận cấu thành nen chủ nghĩa Mác -
Lênin: CNXHKH được C.Mác và Ăng-ghen sáng lập dựa trên hai phát triển vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Nhờ hai phát kiến ấy các ông đã đi đến kết luận một cách lôgic rằng: CNXH trước sau sẽ thay bằng CNTB. Trước khi CNXHKH ra đời dã có những trào lưu, những tư tưởng XHCN không tưởng. Vào giữa thế kỷ XIX CNTB có những bước phát triển đồng thì bộc lộ những mâu thuẫn ngày càng rõ rệt cũng xuất hiện những tiền đề cho cách mạng XHCN. Trên cơ sở ấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã có đủ những căn cứ khoa học và căn cứ thực tiễn để sáng lập CNXHKH. Từ đó CNXHKH ngày càng gắn bó chặt chẽ với thực tiễn sản xuất và phong trào công nhân, vừa phản ánh vừa soi sáng con đường giai cấp công nhân tiến lên hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sau này, Lênin lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH ở Nga, không ngừng kế thừa, bảo vệ, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăng-ghen mà còn nhắc nhở những người cộng sản rằng muốn xây dựng thành công CNXH phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ nhân loại. CNXH không phải là điều không tưởng, nảy sinh một cách hư vô từ đầu óc con người mà bắt nguồn từ yêu cầu của thực tiễn đời sống, từ những thành quả của CNTB và chế độ xã hội trước đó giữa mối liên hệ khách quan giữa cái cũ và cái mới theo quy luật biện chứng phủ định của phủ định, nghĩa là không bác bỏ hoàn toàn cái cũ mà bảo tồn và phát triển hơn những cái tiến bộ đã đạt trong giai đoạn trước, không như thế sẽ không thể có sự vận động tiến lên trong thực tiễn cũng như trong tư duy.
Đối với CNXHKH ngày nay, một vấn đề cấp bách phải triển khai nhiều công trình tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận để phát triển lý luận, làm cho CNXH phản ánh đúng thực trạng và xu thế của xã hội, của loài người soi sáng con đường đi lên của cách mạng. Do hình thành và phát triển trong mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn sản xuất và đấu tranh của phong trào công nhân - nhân dân lao động chính vì thế CNXHKH đáng đứng trước không ít những thách thức, thù địch phá hoại từ CNTB và các thế lực phản động.
Chính bởi vậy, việc nắm những lý luận về con đường hình thành và phát triển cũng như những đặc điểm cơ bản của CNXHKH là một yêu cầu cấp thiết đề ra hiện nay.

Nhận thức rõ điều đó, người viết đã chọn " Sự hỡnh thành và phỏt triển CNXHKH thế kỷ XIX " làm đề tài tiểu luận cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều nhà nghiên cứu ở các viện, nghiên cứu về sự hình thành và phát triển CNXHKH. Các nhà nghiên cứu đầu ng của việc chủ nghĩa xã hội HVCTQGHCM. Như TS Nguyễn An Ninh GVVC - Viện CNXH (HVHCQGHCM). Nghiên cứu viện: Nguyên Tiến Mạnh - Viện CNXH... PGS.TS.Vũ Văn Phúc, GS.TS Trịnh Quốc Tuẫn, HVCTQGHCM... Có nhiều bài viết, tác phẩm nghiên cứu có giá trị trên các tạp chí Tư tưởng văn hoá, Thông tin lý luận CNXH; Tạp chí cộng sản; Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam... Đề tài sẽ được tiếp tục nghiên cứu sâu rộng trong thời gian tiếp theo.
3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
- Tiểu luận hướng tới các đối tượng nghiên cứu chính sau: + Các tiền đề cơ bản của CNXHKH.
+ Quá trình hình thành và phát triển CNXHKH thế XIX. + Vai trò của C.Mác và Ph.Ăng-ghen .
- Nhiệm vụ chủ yếu:
+ Giúp cho bạn đọc nắm vững được về mặt lịch sử các tiền đề CNXHKH.
+ Làm sáng tỏ con đường phát triển của CNXHKH và luận giải một cách khoa học
và những quy luật bước đi, hình thức, phương án về sự hình thành và phát triển CNXHKH. Làm sáng tỏ vai trò vĩ đại, lớn lao của C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin.

4- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp kết hợp lịch sử - lôgic, kết hợp phương pháp như nghiên cứu xã hội, tổng kết chính trị thực tiễn, phát triển, lý luận... phương pháp tổng hợp, biện chứng.
5- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu từ sự hình thành và phát triển CNXHKH thế kỷ XIX.
6- Kết cấu tiểu luận B. Phần nội dung
Chương I
Những tiền đề ra đời CNXHKH
I- Những điều kiện về kinh tế và xã hội
1. Điều kiện kinh tế
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cách sản xuất và trao đổi TBCN Châu
Âu: phát triển mạnh mẽ gắn liễn với tiến bộ của công nghiệp cơ khí. Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy cách sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh hoàn thành và bắt đầu phát triển sang một số nước khác.
Cách mạng công nghiệp đã tạo ra một lực lượng sản xuất mới, đó là nền đại công nghiệp. Nó đã thúc đẩy nền sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất xã hội hoá cao dẫn mẫu thuẫn quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiễm hữu tư nhân TBCN về tưl sản xuất. cách sản xuất tư bản ngày càng phát triển từ đó bộc lộ mâu thuẫn vốn có của nó. Lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội cao do đó dần dần xoá bỏ quan hệ sản xuất này thay bằng quan hệ sản xuất khác phù hợp với trình độ, tính chất của quan hệ sản xuất mới.
2. Điều kiện xã hội
Cách mạng công nghiệp cũng đồng thời tạo ra một lực lượng xã hội mới, đó là giai cấp vô sản (giai cấp công nhân). Giai cấ vô sản từ khi ra đời đã bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề đến bần cùng hoá. Điều đó đã dẫn tới mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản ngày càng trở nên gay gắt, biểu hiện thành những biến động chính trị lớn, như phong trào

đấu tranh của công nhân dệt thành phố Lyông (Pháp) từ năm 1831 - 1834, phong trào công nhân của nhà máy dệt thành phố Xilêdi (Đức) năm 1844. Đặc biệt là phong trào Hiến chương của những người lao động Anh kéo dài từ năm 1835 đến năm 1848. Phong trào Hiến chương là một phong trào mang tính dân chủ, chứ chưa phải là mang tính chất xã hội chủ nghĩa, với yêu cầu đưa ra nhiều kiến nghị sửa đổi pháp luật của giai cấp tư sản cầm quyền một cách có lợi cho cuộc sống của người lao động. Theo Ph.Ăng-ghen, phong trào Hiến chương đã trở thành một phong trào công nhân thuần tuý... Về bản chất phong trào Hiến chương là một hiện tượng có tính chất xã hội... tất cả các công nhân công nghiệp... đều nhất trí rằng họ là những "working men" (công nhân) - đó là danh hêịu họ rất tự hào, danh hiệu phổ biến trong những cuộc họp của phái Hiến chương, rằng họ họp thành giai cấp độc lập có những lợi ích và nguyên tắc riêng có thế giới quan riêng, giai cấp đối lập với mọi giai cấp có của, đồng thời cũng là giai cấp làm cơ sở cho sức mạnh và khả năng phát triển sau này của dân tộc.
Những điều kiện lịch sử ấy đã cho thấy mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất, mang tính chất xã hội và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất đã được thể hiện trên bề nổi của xã hội thành mâu thuẫn không thể điều hoà giữa giai cấp tư sản bóc lột thống trị và giai cấp những người lao động làm thuê bị bóc lột. Tình hình thực tế lịch sử đã báo hiệu rằng xã hội không thể sống yên ổn dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, rằng bản thân giai cấp tư sản là không thể tương dung với sự tồn tại của một xã hội đang đòi hỏi cần có sự công bằng và bình đẳng giữa người với người.
Giai cấp tư sản là một lực lượng đã góp phần công sức có ý nghĩa quyết định vào sự hình thành nền công nghiệp lớn, có ý nghĩa lịch sử trọng đại như một vũ khí thủ tiêu chế độ quân chủ chuyên chế, nhưng nó đã không thấy rằng nền công nghiệp lớn còn là điều kiện vật chất bảo đảm cho giai cấp công nhân thoát khỏi tình trạng phân tán để đoàn kết nhau lại và hơn nữa còn là điều kiện vật chất quyết định sự sụp đổ không thể tránh khỏi trong tương lại của bản thân giai cấp tư bản cầm quyền.
Các phong trào đấu tranh của công nhân đã chĩa thẳng mũi nhọn vào kẻ thù của mình là giai cấp tư sản và khẳng định giai cấp vô sản đã trở thành chính trị độc lập có khả năng trở thành lực lượng xã hội quan trọng, có vai trò cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, các phong trào đấu tranh thời kỳ này đều thất bại mà nguyên chủ yếu của nó, sau này được C. Mác và Ăng-ghen chỉ rõ là chưa có một lý luận cách mạng dẫn

đường, chưa chỉ ra mục tiêu của cuộc đấu tranh, chưa có con đường và biện pháp đấu tranh đúng đắn. Nghiên cứu thực tiễn của phong trào đấu tranh và nhất là sự thất bại của nó. C. Mác và Ăng-ghen nhận thấy rắng, muốn cho phong trào công nhân giành thắng lợi phải có lý luận cách mạng soi đường. Hai ông đã tập trung xây dựng học thuyết cho phong trào công nhân, đó chính là lý luận của CNXHKH.
Tiểu kết: Những cơ sở kinh tế - xã hội khách quan cho ra đời của CNXHKH để thay thế các trào lưu XHCN và CSCN đã tỏ rõ lỗi thời, không có khả năng đáp ứng những yêu cầu chính trị cấp bách của giai cấp công nhân.
II- Những tiền đề tư tưởng lý luận
Cơ sở kinh tế và cơ cấu xã hội TBCN là mảnh đất hiện thực cho CNXHKH sinh thành. Song chưa đủ, nó còn có những tiền đề tư tưởng lý luận cần thiết để ra đời.
1. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đầu thế kỷ XIX
 CNXHKT Pháp: Bước vào thế kỷ XIX nước Pháp với sự cầm quyền của giai cấp tư sản phản động đứng đầu là Napôlêon Bônnapác đã bóp chết mọi thành quả cách mạng còn lại chỉ là những gì cho giai cấp tư sản... Xã hội Pháp có nhiều biến động, dù kinh tế phát triển cut đời sống của nhân dân Pháp vẫn tối tăm, tuy với hình thức và các thể chế chính trị có khác nhau nhưng thực chất như Ăng-ghen đã chỉ rõ: Đó là nô lệ mới, với ách thống trị của chế độ phong kiến, tư sản và dân chủ cộng hoà. Với nhiều hình thức đấu tranh khác nhau. Năm 1823 công nhân Pa-ri nổi dậy khởi nghĩa chống ách thống trị của phái tư sản dưới thời Luy Philip. Năm 1831 - 1834 công nhân Lyông khởi nghĩa vũ trang, tất cả các cuộc khởi nghĩa, nổi dậy của quần chúng lao động chống các thế lực thống trị ở Pháp đã chứng minh mâu thuẫn ở Pháp không thể điều hoà cuộc sống xa hoa truỵ lạc của GCTS và tình cảnh khốn cùng của giai cấp công nhân so với "Những lời hứa hẹn hoa mỹ của các nhà khai sáng thì những thể chế chính trị xã hội dựng lên chỉ là bức biếm hoạ làm cho người ta thất vọng chua vay". Những người sớm nhận ra những thất vọng ấy đã xuất hiện đó là Xanhximông, Phuriee.
- Xanhximoong (1760 - 1825): Sinh ra trong một gia đình quý tộc Pháp lâu đời, hồi nhỏ đã bộc lộ những tố chất thông minh. Trong những năm đầu thế kỷ XIX Xanhximông sống trong hoàn cảnh cùng kiệt túng, song Xanhximông đã ra đời nhiều tác phẩm như "Khảo luận học về con người" (1813; "Vạn vật hấp dẫn" (1813); "Ngụ ngôn" (1819); "Đạo cơ đốc mới" (1825)... Nội dung: Quan tọng trong các học thuyết chính trị

của Xanhximông là lý luận về giai cấp và xung đột giai cấp, một yếu tố mới mr trong lịch sử tư tưởng XHCN cho đến lúc bây giờ.
Tuy nhiên điều kiện kinh tế, xã hội phức tạp và trình độ tư duy của bản thân không cho phép ông quan niệm chính xác nguồn gốc và những đặc điểm kinh tế - xã hội của giai cấp. Đánh giá về cách mạng Pháp 1789, Xanhximông cho rằng: Đại cách mạng Pháp là thắng lợi của đẳng cấp thứ ba, tức là đại đa số trong dân tộc, bao gồm những người sản xuất và buôn bán với đẳng cấp ăn không ngồi rồi bao gồm quý tộc và thầy tu sau đó là GCTS, giai cấp giàu có trong đẳng cấp thứ ba đã giành lấy quyền. Do đó trong đầu óc Xanhximông sự đối lập đẳng cấp thứ ba và những đặc cấp và đặc quyền mang hình thức đối lập... Đánh giá về nhận thức Xanhximông, Ăng-ghen viết: "Năm 1802 mà hiểu được rằng: cách mạng Pháp là một cuộc đấu tranh giữa giai cấp quý tộc, GCTS và những người không có của thì đó là sự phát triển hết sức thiên tài". Còn theo C.Mác nhận xét, với tác phẩm cuối cùng của ông là: "Đạo cơ đốc cần lao" và ông tuyên bố rằng "giải phóng giai cấp cần lao là mục đích cuối cùng của ông"... Ông ước mơ xây dựng một xã hội, trong đó: "Chế độ sở hữu phải được tổ chức sao cho có lợi nhất cho toàn xã hội về mặt tự do và về mặt kinh tế"...
Những quan điểm của Xanhximông đã bộc lộ những hạn chế. CNXH mà ông sáng tạo ra vẫn duy trì chế độ tư hữu còn mang nặng tính không tưởng và sắc thái tôngiáo. Để xây dựng xã hội mới ông chủ trương dùng biện pháp hoà bình... Do những hạn chế nhưng với những dự kiến sắc sảo, đặc biệt với tấm lòng vì hạnh phúc người cần lao Xanhximông được lịch sử ghi nhận là nhà tư tưởng vĩ đại, học thuyết của ông đã trở thành một trong những tiền đề lý luận của CNXHKH.
- Phơrăngxoa Marisáclơ Phuriê (1772 - 1837): Ông sinh ra trong một gia đình buôn bán, sớm theo nghề buôn Phuriê được C.Mác mệnh danh là "thuỷ tổ của CNXH" và được Ăng-ghen coi là "nhà châm biễm lớn người miêu tả tài tình xã hội tương lại, có niềm tin sâu sắc vào thắng lợi cuối cùng của CNXH"...
Nội dung: Một trong những nội dung sắc sảo là sự phê phán lên án xã hội tư sản, ông đã lấy lời hứa của GCTS trước cách mạng so với hiện thực sau cách mạng: "Ông đã thẳng tay lột trần cảnh khốn cùng về vật chất và tinh thần của thế giới tư sản, đồng thời ông đối chiếu cảnh khốn cùng ấy với lời hứa hẹn rực rỡ của nhà khai sáng trước kia về một xã hội chì có lý tính chi phối, về một nền văn minh đem lại đời sống hạnh phúc cho

tất cả mọi người; về khả năng hoàn thiện vô tận của con người... Ông chỉ ra rằng đâu dâu những câu nói hết sức hoa mỹ cũng tương ứng với một hiện thực thảm hoạ nhất và chút lên những lời châm biễm chu cay lên sự phá sản không gì cứu vãn được của những lời nói trống rỗng ấy". Trong tác phẩm chống Đuyrinh Ph.Ăng-ghen đánh giá: "Phuriê nắm phép biện chứng một cách cũng tài tình như Hêghen là người đương thời với ông".
Phuriê mong muốn xây dựng một xã hội mới: "xã hội hài hoà", "xã hội đảm bảo" trong đó có sự thống nhất giữa cá nhân và tập thể mỗi con người riêng biệt có thể tìm thấy điều có lợi cho họ trong cái lợi chung của toàn xã hội... Nhìn chung lý luận của Phuriê chứa đựng những yếu tố biện chứng nhưng cũng nhiều mâu thuẫn tương tự như Xanhximông ông chủ không chủ động xoá bỏ chế độ tư hữu và phản đối bạo lực quá độ liên khối liên hiệp ông hướng tới sẽ diễn ra hoà bình.
 CNXHKT ở Anh: Cuộc cách mạng tư sản ANh 1640 đã mở đường cho sự phát triển của CNTB. Từ nửa sau những năm 30 đến những năm 40, đã diễn ra phong trào đòi cải cách tuyển cử sôi nổi của công nhân đó là phong trào Hiến chương nổi tiếng trong lịch sử thế giới trong hoàn cảnh đấu tranh giai cấp ít ồn ào hơn so với nước Pháp ở Anh đã xuất hiện một nhà cải cách tài năng khuynh hướng cộng sản đó là RôbớcÔoen.
- RôbớcÔoen (1771 - 1858) sinh ra trong một gia đình tiểu thủ công, lúc còn nhỏ ông đã làm nhiều nghề để kiếm sống. Ông là người đề xướng với chính phủ Anh: "Luật công xưởng nhân đạo" trong đó chứa đựng nhiều quan điểm về cải tạo xã hội. Là nhà lý luận Ôoen đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: "Những nhận xét về ảnh hưởng của hệ thông công nghiệp"; "Quyển sách về thế giới đạo đức mới"... Qua các tác phẩm Ôoen đã trình bày những quan điểm về CNXHKT một cách sâu sắc.
Nội dung: Cũng giống như nhiều nhà XHCN không tưởng khác trước khi có khuynh hướng cộng sản Ôoen là nhà nhân đạo chủ nghĩa. Với lòng thương yêu và tin tưởng ở con người... tiếp thu học thuyết của các nhà khai sáng thế kỷ XVIII... là người có tầm hiểu biết rộng, Ôoen đã thấy rõ vai trò to lớn của cách mạng công nghiệp, nền sản xuất cơ khí, Ôoen căm thù chế độ tư bản, chế độ tư hữu là nguyên của mọi tội lỗi... Dù có nhiều quan điểm tiến bộ song cũng như Xanhximông và Phuriê, Ôoen đã không tự coi mình là đại biểu cho lợi ích GCVS, ông muốn lập tức giải phóng toàn nhân loại chứ không phải trước hết phải giải phóng một giai cấp nhất định nào... Ông đặt nhiều niềm tin, hy vọng vào sự thức tỉnh của chính phủ đang cầm quyền ông còn chủ trương thuyết

phục để các chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc, tạo điều kiện Ôoen thực hiện những cải cách của mình. Dù có những hạn chế song những công hiến của Ôoen là vô cùng to lớn. Cùng với Xanhximông, Phuriê học thuyết Ôoen đã được C.Mác và Ph.Ăng-ghen thừa nhận là tiền đề lý luận của CNXHKH.
Tiểu kết: Trong tác phẩm "Chiến tranh nông dân ở Đức", Ph. Ăng-ghen đã viết "CNXH lý luận ở Đức sẽ không bao giờ quên rằng nó đứng trên vai Xanhximông, Phuriê và Ôoen. Ba con người đó mặc dầu có tính chất ảo tưởng và không tưởng của nó thuộc về những trí tuệ vĩ đại nhất của tất cả thời đại, đã tiên đoán một cách thiên tài vô số chân lý mà ngày nay chúng ta đang chứng minh sự đúng đắn của chúng bằng cách khoa học".
2. Triết học
Sự ra đời và phát triển của triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Trong những điều kiện của chế độ chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ xã hội đó. Thời kỳ cuối thế kỷ XVIII cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước Phổ và Hêghen là người tán dương cuộc cách mạng đó, điều kiện kinh tế đặc biệt làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thoả hiệp. Trong giai đoạn này đã xuất hiện một số nhà tư tưởng lớn như Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành một tiền đề lý luận cho sự ra đời của triết học Mác.
- Cantơ (1724 - 1804): Trong tác phẩm "Lịch sự tự nhiên phổ thông và lý thuyết bầu trời" đã trình bày những nét nổi bật về những quan niệm biện chứng về giới tự nhiên. Ông đã nêu giả thuyết có giá trị về sự hình thành của vũ trụ bằng cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân... Triết học Cantơ là trích học nhị nguyên luận... Khi nhận xét và đánh giá về Cantơ, Lênin cho rằng triết học đó là sự dung hoà chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm thiết lập sự thoả thuận giữa hai chủ nghĩa đó, kết hợp hai khuynh hướng triết học khác nhau và đối lập với nhau trong hệ thống duy nhất.
Hêghen (1770 - 1831): Là nhà biện chứng là nhà triệt học duy tâm khách quan, triết học của ông đầy những mâu thuẫn. Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình, ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và được duy dưới dạng một quá trình... Trong quan điểm xã hội Hêghen đứng trên lập trường công nghiệp

hoá xô vanh. Hệ thống triết học Hêghen thực chất của nó"là ở chỗ lấy cái tâm lý làm điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới tự nhiên". (Lênin)
Lútvich Phoiơbắc (1804 - 1872): là nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kỳ trước Mác, đại biểu nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân chủ Đức. Phoiơbắc đã có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen...
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử ngắn nhưng đã tạo ra thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học siêu hình thế kỷ XVII - XVIII là những tư tưởng biện chứng đạt đến trình độ một hệ thống lý luận. Mặc dù, có những hạn chế nhưng với những thành quả của nó sự này đã được Mác và Ăng-ghen khắc phục và kế thừa nâng lên một trình độ lý luận mới công nghiệp duy vật hiện đại, là cơ sở quan trọng góp phần vào sự ra đời của CNXHKH.
3. Kinh tế chính trị học:
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ Wiliam petty (1623 - 1687) đến Adam Smith (1723 - 1790) và kết thúc là ở Đavi Ricardo (1772 1823). A. Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công của chủ nghĩa tư bản. Ông là người mở ra giai đoạn mới cho sự phát triển của khoa học kinh tế chính trị, là một trong những người tiền bối lớn nhất để lại một công trình đồ sộ. Những luận điểm đúng đắn của CNTB. Ông là người mở ra giai đoạn mới cho sự ra đời của khoa học kinh tế chính trị, những luận điểm đúng đắn trong học thuyết của ông đã được D. Ricardo phát triển đã được C. Mác hoàn thiện Ricardo là một nhà kinh tế thời đại công nghiệp cơ khí của CNTB, là đỉnh cao của lý luận kinh tế chính trị tư sản cổ đển và đã phát triển yếu tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển... Đồng thời lý luận kinh tế chính trị phê phán CNTB trên lập trường của những người tiểu tư sản. Cùng với sự phê phán đó là sự phê phán của CNTB của những người theo CNXH không tưởng như Simon, Owen, Fourier.
Giữa thế kỷ XIX C. Mác và Ph. Ăngghen đã làm một cuộc cách mạng trong lịch sử các học thuyết kinh tế. Dựa vào những thành tựu của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, áp dụng phương pháp DVBC và DVLS vào nghiên cứu kinh tế... học thuyết của C. Mác "... Ra đời là sự kế thừa thẳng thắn và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong CNXHKH". Kinh tế chính trị do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lậo là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. C. Mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư hòn đá tảng trong học thuyết

kinh tế macxit. C. Mác đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của cách sản xuất TBCN, nêu lên những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu thuẫn của CNTB. CNTB tất yếu sẽ bị thay thế bởi cách sản xuất mới, cao hơn, tiến bộ hơn, đó là cách sản xuất CSCN.
Học thuyết Macxit được phát triển nâng lên trình độ cao hơn bởi V. I. Lênin. Ông đã có những cống hiến lớn lao vào việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và kinh tế chính trị của C. Mác nói riêng. Đây là những tiền đề tư tưởng, lý luận khoa học góp phần cho sự ra đời CNXHKH thế kỷ IXI.
4. Khoa học - kỹ thuật
Cùng với sự ot của CNTB là sự phát triển mạnh mẽ của KHKT. Vào đầu thế kỷ XIX loài người đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
- Khoa học tự nhiên thời kỳ này đã xuất hiện các học thuyết mới như Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng: học thuyết về tế bào; học thuyết tiến hoá của Đacuyn. Những phát minh này đã giúp cho C. Mác và Ph. Ăngghen có cơ sở khoa học để nghiên cứu các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực xã hội và xây dựng học thuyết duy vật lịch sử của mình.
- Khoa học xã hội: Thời kỳ này các lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị và CNXH đã phát triển rực rỡ, tiêu biểu là triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học nổi tiếng như Hêghen và Phoiơbắc, kinh tế chính trị cổ điển Anh với Adamsmith và Ricardo và đặc biệt là lý luận của CNXH không tưởng của Xanh xi mông, Phuriê và Ô oen.
Như vậy, gắn liền với sự xuất hiện đầy đủ những tiền đề kinh tế - xã hội, CNXHKH còn dựa trên sự chín muồi của các tiền đề tư tưởng - lý luận. Đó là kết quả của sự kế thừa những tinh hoa trí tuệ của loài người phát triển qua các thời đại mà đầu thế kỷ XIX đã đạt tới đỉnh cao.
Tóm lại, sự xuất hiện những tiền đề nêu trên đã tạo những tiền đề khách quan ở mức đầy đủ để CNXH do Mác và Ăngghen xây dựng thực sự trở thành khoa học.
III. vai trò của Mác và Ăngghen trong sự hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Các Mác (5.5.1818 - 14.3.1883) và Phridrich Ăngghen (28.10.1820 - 5.8.1855) ngay từ thời niên thiếu đã là những nhà nhân đạo chủ nghĩa

ở Mác và Ăngghen đã sớm có một chí hướng, một lý tưởng phấn đấu cho hạnh phúc loài người, với lòng yêu thương con người.
Các Mác 91818 - 1883): Sinh trưởng trong một gia đình tri thức (bố là luật sư) ở thành phố Tơrevnước, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều hợp đồng của cách mạng tư sản Pháp.
Năm 1834, trong luận văn tốt nghiệp trung học Mác đã thể hiện hệ tư tưởng nhân đạo qua quan niệm về hạnh phúc. Mác viết "Nếu con người làm việc chỉ vì bản thân thì may ra có thể trở thành một nhà bác học nổi tiếng, một nhà thông thái vĩ đại, một nhà thơ ưu tú, nhưng không bao giờ có thể trở thành một con người thực sự hoàn thiện và vĩ đại... Lịch sử thừa nhận những cử nhân là những người làm việc cho mục đích chung và do đó mà bản thân họ cũng trở nên cao thượng hơn; kinh nghiệm cho thấy rằng, người nào đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất, thì người đó sẽ là kẻ hạnh phúc nhất". Việc chọn nghề đối với Mác cũng nhằm thực hiện lý tưởng nhân đạo của mình...
Năm 1841 khi Mác 23 tuổi trong bản luận văn tiến sĩ với đề tài "Sự khác nhau giữa triết học về tự nhiên của Đêmôcrit và Êpiquya" Mác đã có tinh thần phê phán mặc dù vẫn còn đứng trên lập tr của chủ nghĩa duy tâm (cho chủ nghĩa duy tâm là một chân lý), nhưng đã thấy được mối quan hệ hai chiều trong quan hệ giữa con người với môi trường khách quan, khả năng con người có thể cải tạo môi trường khách quan đó. Mác không tán thành quan niệm triết học của Đêmôcrit vì chỉ thấy tính tất yếu, chi phối của tự nhiên đối với con người, mà không thấy khả năng chủ quan đối với giới tự nhiên. Đó là quan điểm triết học dẫn đến khuynh hướng quyết định luận.
Đối với Êpiquya một mặt Mác bênh vực và đứng về phía Êpiquya trên quann quan hệ qua lại giữa môi trường với con người, mặt khác Mác cũng phê phán Êpiquya về quan niệm tự do tuyệt đối của ông...
Cũng với những tư tưởng tự do sơ khai trong lĩnh vực triết học dần dần đã hình thành những tư tưởng tự do trong lĩnh vực chính trị của Mác.
Phridrich Ăngghen (1820 - 1895): Sinh ra trong một gia đình chủ xưởng dệt ở thành phố Béc men. Nên Mác đã học qua bậc đại học và có học vị tiến sĩ thì Ăngghen lại không học hết năm cuối cùng của trung học. Thời niên thiếu do ảnh hưởng sâu sắc của gia đình về mặt tôn giáo nên Ăngghen gắn bó với tôn giáo nhiều hơn là sống với xã hội. Nhưng dần dần trong đầu óc Ăngghen đã nảy sinh những hoài nghi xung đột giữa sự thật

và giả dối, tình trạng đối nghịch giữa giàu và nghèo... làm xói mòn đức tin tôn giáo. Ăngghen đã chứng kiến một xã hội có đời sống cùng kiệt khổ, những cuộc xung đột xảy ra, xã hội đã gây ấnt sâu sắc đối với Ăngghen với chính cuốn "Đời sống của chúa Giêduycrit" của Davitxtrauxnước 91835) đã góp phần giúp Ăngghen đoạn tuyệt với tôn giáo và gợi ý cho Ăngghen tìm đến với triết học Hêghen. Từ đó ở Ăngghen hình thành dần dần một quan niệm mới về thế giới hướng vào những vấn đề chính trị - xã hội thay thế cho đức tin tôn giáo.
Như vậy, Mác đã sớm nhận thấy cần có triết học để tìm hiểu đời sống thực tế xã hội, còn Ăngghen lại từ đời sống thực tế mà thấy cần có triết học làm công cụ.
2. Sự chuyển biến từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa của C. Mác và Ph. Ăngghen
Sự phát triển về mặt triết học của Mác và Ăngghen từ CNDT đến CNDV xét về mặt lịch sử tất yếu xảy ra cùng lúc với bước chuyển từ lập trường cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Không có bước chuyển này thì không thể có sự hoàn thiện nhiều hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bản thân bước chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản tất yếu đòi hỏi một cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học. Xây dựng CNDVBC và CNDVLS và xây dựng một quan điểm mới về kinh tế chính trị học.
Chủ nghĩa dân chủ cách mạng của hai ông đều biểu hiện ở lập trường đấu tranh kiên quyết chống chế độ phong kiến chuyên chế và những thể chế của nó. Đòi quyền tự do dân chủ, mong muốn cải thiện căn bản cơ sở đời sống kinh tế - xã hội và chính trị cho nông dân bằng một cuộc cách mạng xã hội. Trong thời kỳ còn là nhiều nhà dân chủ cách mạng, Mác và Ăngghen đã liên hệ với nhiều người thuộc phái Hêgen trẻ lúc bấy giờ về phương diện triết học, nhưng họ khác về phương diện thực tiễn.
ảnh Mác
- Đối với Mác, năm 1842 lúc mà 24 tuổi đã đánh dấu hoạt động thực tiễn bằng công tác báo chí với vai trò chủ báo "Vùng sông Ranh", ông đã có bước đi đầu tiên trên con đường hoạt động cách mạng thực tiễn. Từ đời sống chính trị xã hội từ những chính sách của chế độ phong kiến chuyên chế thần quyền của Liên bang Đức, từ những ý kiến và thái độ khác nhau trong cuộc tranh luận về chế độ kiểm duyệt báo chí và các vấn đề xã hội khác, nhất là từ những cảnh tượng tương phản giữa những kẻ giày phong kiến, tư sản

và những người cùng kiệt công, nông... Mác thấy được tính chất giai cấp và sự bất công của nhà nước, thần quyền, trên một số báo, Mác đã nêu lên những quan niệm mới về mối quan hệ giữa triết học - tôn giáo và chính trị, mà biểu hiện của chính trị trước hết là nhà nước... Mác đã nêu lên một quan niệm chính trị quan trọng là phải tách rời nhà nước ra khỏi nhà thờ. Tuy nhiên quan niệm của Mác lúc đó về nhà nước chưa đầy đủ cơ sở duy vật về lịch sử và thái độ bênh vực cùng kiệt khổ mới theo quan điểm pháp lý và đạo đức, chưa có quan điểm kinh tế chính trị học.
Năm 1843 với tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền" của Hêgen, Mác đã tỏ thái độ dứt khoát với CNDT của Hêghen, đánh dấu bước chuyển lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường CSCN. Chính trong tác phẩm này lần đầu tiên Mác nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đồng thời cũng chỉ ra những điều kiện cho giai cấp vô sản thủ tiêu chế độ TBCN.
Trong suốt những năm 1843 - 1847 với các tác phẩm viết riêng và viết chung với Ăngghen, Mác lần lượt làm rõ:
Sự khác biệt giữa người công nhân nói chung tức con người "lý tưởng" của GCTS với con người riêng tư, tức con người cụ thể trong xã hội tư sản. Ông vạch ra rằng hiến pháp tư sản nói đến "bình đẳng", "tự do", nhưng đó chỉ là GCTS và giai cấp địa chủ dạng tư sản hoá là chủ yếu. Vì vậy, nếu chỉ có cải cách chính trị thôi thì không thể xoá bỏ được sự khác nhau giữa công nhân với con người riêng tư, giữa con người có của và con người không có của và cũng không thể thủ tiêu mâu thuẫn giữa nhà nước và xã hội.
Sự ra đời của GCVS, tầm quan trọng của lý luận và sự cần thiết phải kết hợp lý luận với phong trào của quần chúng. GCVS hình thành do sự phát triển công nghiệp, có sứ mệnh tự giải phóng, đồng thời giải phóng tất cả các tầng lớp lao động khác trong xã hội khỏi ách áp bức bóc lột. Muốn vậy cần đưa lý luận vào phong trào vô sản, từng bước làm cho người vô sản đi từ tự phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh tế bước sang trình độ đấu tranh chính trị. Ông tháy rõ tầm quan trọng của lý luận và sự cần thiết phải kết hợp lý luận với phong trào quần chúng thể hiện ở chỗ như Mác đã nói: "Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" và nếu "triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình thì giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình". CNCS không chỉ là sáng kiến tinh thần theo kiểu những nhà

không tưởng mà về thực chất đó là kết quả tất yếu của sự phát triển biện chứng của bản thân chế độ sở hữu kinh tế.
Năm 1844 cùng với Ăngghen, Mác đã khẳng định: "Giai cấp vô sản đang thi hành bản án mà chế độ tư hữu, trong khi đẻ ra giai cấp vô sản, đã làm ra mình, cũng giống như nó đang thi hành bản án mà lao động làm thuê, trong khi sản xuất ra sự giàu có cho kẻ khác và sự khốn cùng cho bản thân, đã làm ra cho mình. Sau khi thắng giáo dục vô sản dù sao cũng không thể nào trở thành mặt tuyệt đối của xã hội, vì rằng chỉ có sự tiêu diệt và tiêu diệt mặt đối lập của mình thì nó mới giành được thắng lợi. Với thắng lợi của giai cấp vô sản bản thân giai cấp vô sản và mặt đối lập chi phối nó là chế độ sở hữu, đều tiêu vong".
Đến năm 1845 cùng với Ăngghen, Mác đã phát triển sâu thêm những quan niệm duy vật lịch sử. Hai ông đã khắc phục về cơ bản ảnh hưởng của CNDT tự biên và còn phê phán những quan điểm duy vật thuần tuý, tức là những quan điểm duy tâm xã hội và chỉ biết duy vật trong giới tự nhiên mà thôi. Nếu các tác phẩm trước, CNCS còn được xem như một thứ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực và được phân tích về mặt triết học nhiều hơn thời lúc này, hai ông nhất trí rằng: Xây dựng CNCS về thực chất là có tính chất kinh tế, là tạo điều kiện vật chất để có được một cách sản xuất liên hiệp giữa những người lao động. Tóm lại, hai ông đã bước đầu phân tích về sự ra đời và phát triển của GCVS, về sự hình thành của CNXH và sự hình thành của CNCS trong tương lai không còn chỉ theo quan điểm triết học mà theo quan điểm kinh tế.
Đến những năm 1846 - 1847 ông phê phán những quan điểm kinh tế tiểu tư sản đồng thời phê phán cả những khuynh hướng XHCN không tưởng và bảo thủ. Ông nhấn mạnh chừng nào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản biểu hiện rõ nét và mạnh mẽ hơn trên tinh thần tự giác chính trị thì người ta không cần "vắt óc" của mình ra, mà chỉ cần chú ý đến thực tế diễn ra trước mắt mà đạt lại thực tế ấy một cách có phân tích đúng đắn, làm rõ được thực chất của các sự kiện. Đến khi ấy, khoa học do vận động của lịch sử sản sinh ra, sẽ tham gia vào vận động lịch sử ấy một cách hoàn toàn tự giác, chủ động, không còn mang tính cách lý thuyết suông nữa thì khoa học đã trở thành khoa học cách mạng.
ảnh Ăngghen
- Đối với Ăngghen, từcuối năm 1842 đã đánh dấu bước chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang CNCS. Giai đoạn mới trong sự tiến triển những quan điểm của

Ăngghen gắn với việc ông đến với nước Anh. ở đây ông thấy sự đối kháng của hai giai cấp vô sản mà GCTS biểu hiện một cách hết sức gay gắt. Việc phân tích những mối quan hệ đó, tất nhiên, về mặt kinh tế - xã hội, đưa Ăngghen đến những kết luận theo tinh thần CNXHKH tương lai. Tháng 12/1842 các bài viết của mình trên báo Rênani, Ăngghen đã có những bước tiến về tư tưởng thừa nhận sứ mệnh XHCN của GCVS. Ông coi giai cấp vô sản là tương lai của tiến bộ xã hội, ông tin cách mạng xã hội sẽ có tính chất bạo lực... Trong bài báo "Những thắng lợi của phong trào cải cách xã hội trên lục địa" đăng trên tờ báo các nhà XHCN Ôonăng lượng ở Anh tháng 11/1843. Ăngghen đã phân tích các phong trào XHCN ở Anh, Pháp, Đức đã ra kết luận cách mạng triệt để trong cơ cấu xã hội có cơ sở của nó là chế độ sở hữu tập thể...
Năm 1844 Ăngghen viết xong tác phẩm: "Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh". Trong tác phẩm này chứa đựng nhiều quan điểm tương tự như quan điểm của Mác, đó là một sự trùng hợp kỳ thú và tất yếu. Trong tác phẩm của mình, Ăngghen cũng đi tới một số kết luận về vai trò cách mạng của giai cấp công nhân, về sự sụp đổ của CNTB là không thể tránh khỏi...
Từ cuối năm 1844 cho đến khi "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" ra đời, cả Mác và Ăngghen thông qua các tác phẩm viết chung và riêng đã thể hiện q chín muồi dần dần những quan điểm duy vật về lịch sử, về chính trị học CNXHKH. Trong tác phẩm "Gia đinh và thần thánh" (1844), Mác và Ăngghen đã thể hiện các tưt về:
+ Quan hệ chặt chẽ giữa sự phát triển kinh tế với sự phát triển xã hội.
+ Vai trò quần chúng và cá nhân trong lịch sử, những quan điểm về lịch sử được hoàn thiện thêm.
+ Vai trò cách mạng và bản chất sự mệnh lịch sử của GCCN được hai ông lý giải rõ thêm và đã tiến gần chỗ vạch ra bản chất sứ mệnh lịch sử của GCCN là xoá bỏ giai cấp.
Năm 1848 C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" theo sự uỷ nhiệm của Đại hội đại biểu đồng minh với những người cộng sản, họp tháng 11/ 1847 với tính cách một cương lĩnh của Đảng. Tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác, trong đó CNXHKH. Nói riêng về CNXHKH, những nguyên lý, lý luận, cơ bản của nó, lần đầu tiên được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày một cách chặt chẽ và hệ

thống. Với ý nghĩa đó, "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" là bản khai sinh của CNXHKH, đánh dấu sự chín muồi lý tưởng CSCN của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Vấn đề có ý nghĩa cơ bản nhất là: "Tuyên ngôn" đã chỉ ra quy luật khách quan của sự vận động và phát triển của xã hội, theo đó CNTB tất yếu bị diệt vong, CNXH tất yếu ra đời thay thế CNTB... C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá khách quan vai trò của GCTS: "GCTS, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước cộng lại". Nhưng, ngay trong lúc tạo ra những thành tựu to lớn ấy, giai cấp tư sản cũng tạo ra trong lòng xã hội tư bản những mâu thuẫn rất gay gắt... Trên cơ sở khái quát sự phát triển của xã hội loài người, các tác giả tuyên ngôn đã khẳng định, tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Xã hội tư bản hiện địa thay thế xã hội phong kiến không hề xoá bỏ mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nó chỉ thay thế giai cấp cũ, điều kiện áp bức cũ, hình thức đấu tranh cũ bằng giai cấp mới, điều kiện áp bức mới và hình thức đấu tranh mới mà thôi...
Trong tác phẩm này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra lực lượng xã hội có sứ mệnh thay thế CNTB bằng CNSH theo con đường cách mạng vô sản. Đó là giai cấp công nhân, giai cấp mà khi giải phóng mình cũng đồng thời giải phóng mọi người lao động khỏi áp bức, bóc lột. Với việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của GCCN, C.Mác và Ph.Ăngghen đã biến CNXH từ không tưởng thành khoa học. Bởi vì, các nhà tư tưởng XHCN trước Mác không tìm thấy lực lượng nào có thể hiện thực những tư tưởng nhân đạo mà họ đưa ra. Sự vận động tất yếu từ CNTB lên CNXH không thể biến thành hiện thực nếu không có vai trò của CGCN. Khẳng định vai trò của GCCN trong việc xoá bỏ CNTB, xây dựng CNXH không phải vì C.Mác và Ph.Ăngghen xuất phát từ tình cảm của các ông với tầng lớp cùng kiệt khổ, bị áp bức, mà vì những điều kiện khách quan đã quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp đó.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" đã làm sáng tỏ vai trò của Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN chống lại GCTS nhằm xóa bỏ CNTB, xây dựng CNXH. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng, những người cộng sản (tức Đảng Cộng sản) là đội tiên phong của GCCN, có lợi ích thống nhất với lợi ích của GCCN và nhân dân lao động: "Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản...".

Các tác giả của Tuyên ngôn đã chỉ ra con đường và biện pháp để tiến lên CNCS là CMVSCN. Đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của loài người, bởi lẽ, nó "là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những mối quan hệ sở hữu kế thừa trong quá khứ". Điều đó có nghĩa, cách mạng CSCN xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất - cơ sở kinh tế của CNTB, và do đó, xoá bỏ sự thống trị của GCTS, xoá bỏ CNTB, xây dựng CNCS. Như vậy, Tuyên ngôn đã công khai tuyên bố mục tiêu, lý tưởng của những người cộng sản, chỉ rõ CMCSCN là con đường thể hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN. Để làm được điều đó, cách mạng CSCN phải trải qua hai giai đoạn, trong đó "bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là GCVS biến thành giai cấp thống trị, là giành lấn dân chủ" và bước thứ hai "GCVS sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước tước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay GCTS, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là trong tay GCVS đã tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng nhanh số lượng những lực lượng sản xuất"...
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" đã dự báo khoa học và nêu lên những đặc điểm cơ bản của xã hội CSCN. Các tác giả đã phác hoạ mô hình CNCS trên cơ sở kế thừa những tư tưởng CSCN của các nhà không tưởng Pháp, Anh thế kỷ XIX, và trên cơ sở xem CNXH là sự phủ định biện chứng đối với CNTB ở trình độ phát triển cao của nó...
Do vậy, "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" vừa là tác phẩm kinh điển về chủ nghĩa xã hội khoa học, vừa là cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quan trọng.
Với sự uyên bác về trí tuệ, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn; lòng trung thành vô hạn với lợi ích của giai cấp công nhân và kiên định lập trường giai cấp đã giúp cho Mác và Ăngghen nhận thức đúng được quy luật phát triển của xã hội loài người, nhất là quy luật vận động của CNTB, đồng thời hai ông đã phát hiện một lực lượng xã hội có thể chuyển xã hội sang một giai đoạn mới. Vì vậy, Mác và Ăngghen đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử loài người và đã có những phát hiện lớn:
- CNDVLS: Mác và Ăngghen cho rằng "tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội", do đó, muốn đi tìm nguyên nhân cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội phải đi tìm đó trong lòng xã hội (cần tìm từ nguyên nhân kinh tế, từ đời sống, lợi ích vật chất, chứ không phải từ ý thức). Đây là nguyên lý rất quan trọng mà trước đó các nhà triết học khác chưa tìm thấy được.
Mục lục
A- Phần mở đầu
B- Phần nội dung
Chương 1: Những tiền đề ra đời CNXHKH I- Tiền đề về kinh tế - xã hội
II- Tiền đề tư tưởng, lý luận
1- CNXH không tưởng trong lịch sử 2- Triết học
3- Kinh tế chính trị học
4- Khoa học - kỹ thuật
III- Vai trò của C.Mác và Ph.Ăng-ghen
1- C.Mác và Ph.Ăng-ghen ngay từ thời niên thiếu đã là những nhà
nhân đạo chủ nghĩa
2- Sự chuyển biến từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập
trường CNCS của C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Chương II: Sự ot CNXHKH đến cuối thế kỷ XIX
I- Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăng-ghen sáng lập CNXHKH 1- Giai đoạn (1848 - 1871)
2- Giai đoạn (1871 - 1895)
II- Giai đoạn V.I.Lênin phát triển CNXHKH 1- Sơ lược về Lênin
2- Lênin phát triển CNXHKH
C- Phần kết luận
D- Danh mục tài liệu tham khảo

Sau khi C. Mác mất, Ph. Ăng-ghen dành hẳn 10' năm còn lại để tiếp tục phát triển, bổ sung một số nguyên lý của CNXHKN, nổi bật là hoàn thiện bộ tư bản, trong đó ông phân tích một cách khoa học để vạch ra bản chất quy luật vận động của CNTB và đi tới kết luận: Sự sụp đổ của CNTB là tất yếu, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là thực hiện nhiệm vụ thủ tiêu CNTB và xây dựng thành công CNXH, CNCS.
Ngày 5/8/1895 Ăng-ghen qua đời. Trong vòng vài năm sau đó Quốc tế II về cơ bản còn thi hành đường lối cách mạng. Nhưng về sau nó đã sa vào nguy cơ mà Ăng-ghen đã cảnh báo. Ăng-ghen mất, Lênin đã viết một bản cáo phó trong đó Người đã ca ngợi công lao của Ăng-ghen gắn liền với sự ca ngoại Mác, Lênin viết: "Mác và Ăng-ghen là những người đầu tiên đã giải thích trong các tác phẩm khoa học của mình rằng CNXH không phải là một điều bịa đặt của những kẻ mộng tưởng mà mục đích cuôi cùng và là kết quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội hiện đại"...
Tóm lại, vấn đề có tính quy luật trong sự phát triển của CNXHKH là tổng kết những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN và nhân dân lao động chống GCTS và cuộc đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng phi Macxit, trước hết là những tư tưởng cơ hội, xét lại trong phong trào công nhân. Lý luận của CNXHKH được C. Mác và Ph. Ăngghen phát triển thể hiện tính khoa học, tính cách mạng, tính chiến đấu rõ rệt trong cuộc đấu tranh kiên trì chống các hệ tư tưởng tư sản, tiểu tư sản và tàn dư của CNXHKT để định hướng hoạt động cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vì sự thắng lợi của CNXH và CNCS.
II. giai đoạn V. I. Lênin kế thừa và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Sơ lược về Lênin
chèn ảnh
V. I. Lênin sinh ngày 22/4/1870 ở Ximbiếc trong một giai đoạn trí thức cách mạng. Năm 1887 Lênin vào học trường Đại học Luật ở Ca-dan, nhưng chẳng bao lâu thì bị bắt vì đã tích cực tham gia phong trào cách mạng của sinh viên, bị đuổi khỏi thường và

đầy đi Côcusôkinô cho đến mùa thu 1888. Mùa đông 1888 - 1889, ông được phép trở về Cadan. Chính trong thời gian này, Lênin đã nghiên cứu bộ Tư bản của Mác và nhập một nhóm Macxit. Năm 1891 Lênin đã thi đậu xuất sắc tại trường Đại học Luật ở Pêtecbua và tổ chức nhóm Maxit đầu tiên ở Xamara. Đầu 1894 ông viết tác phẩm lớn đầu tiên "Những người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao. Trong đó Lênin đã "lột mặt nạ bọn dân tuý, những người "bạn dân" giả dối, còn thực tế chống lại nạn dân... vạch ra một cách đúng đắn con đường mà cuộc đấu tranh GCCN phải theo, xác định GCCN đóng vai trò lực lượng cách mạng tiên phong trong xã hội và xác định vai trò của nông dân là bạn đồng minh của GCCN.
Năm 1895 Lênin tập hợp tất cả các nhóm công nhân Macxit Pêtecbua "Hội liên hiệp đấu tranh để giải phóng GCCB". Hội này là mầm mống của Đảng vô sản cách mạng ở Nga. Tháng 12 1895, Lênin bị bắt và 1897 bị đầy đi Xêbiri. Thời gian đi đầy, ông đã viết cuốn "Nhiệm vụ những người xã hội - dân chủ Nga" và hoàn thành tư liệu nghiên cứu cho cuốn "Sự phát triển của CNTB ở Nga" (xuất bản 1899).
Tháng 7/1900 Lênin ra nước ngoài, cho xu
bản báo "Tia lửa", tờ báo chính trị Macxit cách mạng đầu tiên cho toàn nước Nga.
Tháng 3/1`902, cuốn "Làm gì" của Lênin ra đời, đã đập tan về mặt tư tưởng chg kinh tế và đặt nền tảng tư tưởng cho Đảng Maxit.
Tháng 5/1904, cuốn "Một bước tiến hai bước lùi" của Lênin ra đời, xác định những nguyên tắc tổ chức của chủ nghĩa Bônsevic.
Tháng 7/1905, Lênin phải ra nước ngoài và năm 1909 cho ra đời tổng hợp "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán". Trong tác phẩm này, Lênin đã phát triển và đẩy triết học Maxit tiến lên, khái quát theo quan điểm duy vật tất cả những điều trọng yếu mà khoa học đã đạt được sau khi Ăngghen mất.
Năm 1916, Lênin viết tác phẩm: "Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột độ của CNTB" trong đó ông nêu lên quy luật về sự phát triển không đều của CNTB trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa dự báo chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng XHCN.
2. V. I. Lênin phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
Từ 1893 đến 1924 là thời kỳ Lênin bảo vệ và phát triển CNXHKH gắn liền với thực tiễn chính trị sôi động ở nước Nga và trên phạm vi quốc tế trong điều kiện CNTB đã chuyển sang CNĐQ.

Lênin đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh lý luận về xây dựng một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, về quan hệ giữa cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới với cách mạng XHCN; về liên minh GCCN với giai cấp nông dân; về chiến lược và sách lược cách mạng trong cách mạng XHCN; về xây dựng nhà nước vô sản. Lênin đã xây dựng lý luận mới, hoàn chỉnh về cách mạng XHCN, đã chứng minh khả năng CNXH có thể thắng lợi ở một nước riêng lẻ.
Lênin đã giúp nhân dân lao động đang rên xiết dưới áp bức của CNĐQ hiểu một cách sâu sắc hơn những quy luật phát triển của xã hội, những đòi hỏi và những điều kiện khách quan của đấu tranh chính trị trong từng giai đoạn của cách mạng vô sản, của toàn phong trào giải phóng. Người đã cho họ vũ khí tuyệt diệu trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, lý luận và sách lược của chủ nghĩa Bônsêvic...
Tên tuổi của Lênin, học thuyết của Người gắn liền với mọi thắng lợi của phê phán hoà bình và dân chủ kéo dài từ sông Enbơ đến Thái Bình Dương từ Bắc cực đến vùng nhiệt đới. Vì vậy, tất cả những người bị áp bức và những người bất hạnh đều coi ngọn cờ của Lênin đang được người cộng sản tất cả các nước gương cao, là tượng trưng cho lòng tin và đuốc sáng của hy vọng.
Chân lý cụ thể cách mạng là sáng tạo. Trong khi bảo vệ và phát triển CNXHKH, Lênin xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện quy luật, phán đoán về xu hướng phát triển của quá trình cách mạng và tin vào sức sáng tạo của GCCN và nhân dân lao động. Người viết "Chúng ta không có kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể con đường tiến lên CNXH như thế là phi lý. Chúng ta chi biết phương hướng của con đường đó, còn như về cụ thể trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động". Bằng hoạt động lý luận thực tiễn cách mạng, Lênin đã góp phần thúc đẩy quá trình cách mạng của GCVS, đưa tới thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại.
Thời kỳ cách mạng tháng Mười, Lênin đã viết nhiều tác phẩm quan trọng. Thông qua đó những vấn đề lý luận CNXHKH được Lênin phát triển: ý nghĩa quốc tế cách mạng tháng Mười, vạch rõ nội dung, tính chất, đặc điểm của thời đại mới; các quy luậ và động lực cách mạng của quá trình cách mạng thế giới, bản chất, nội dung và đặc điểm của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH; về quan hệ giữa kinh tế và chính trị, các quy luật phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, cải tạo

nông nghiệp theo hướng XHCN; tiến hành cách mạng văn hoá; vấn đề dân tộc và quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN; sử dụng nhà nước kiểu mới, kiện toàn phát triển, bảo đảm cho n lao động giám sát bộ máy nhà nước và đấu tranh chống mọi nguy hiểm của chủ nghĩa quan liêu, xây dựng nền dân chủ XHCN; về xây dựng Đảng.
Công lao vĩ đại của Lênin không chỉ bảo vệ phát triển sáng tạo lý luận CNXHKH mà còn biến lý luận tứng bước trở thành hiện thực. Sự ra đời và tồn tại của CNXH hiện thực chứng minh tính tất yếu lịch sử, thể hiện quy luật khách quan của xã hội loài ng được C.Mác và Ph.Ăngghen trước đây đã tiên đoán: CNXH sẽ thay thế CNTB.
Tóm lại, sự phát triển lý luận CNXHKH đã thành chủ nghĩa Lênin. Chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Do đó, chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển đó đã làm rõ những nguyên lý quan trọng nhất về chủ nghĩa đế quốc và lý luận cách mạng XHCN trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Xác định những nhiệm vụ gần của GCVS và phương pháp đấu tranh của nó. Do đó, đã đem lại phương pháp hoạt động cho các Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc của chủ nghĩa đế quốc, vũ trang cho các đảng ấy hiểu biết về các biện pháp, phương tiện và phương pháp đấu tranh cho thiết lập chuyên chính vô sản, đấu tranh chống các quan điểm phi vô sản...
c- Phần kết luận
CNXHKH không phải là một phát triển ngẫu nhiên của một bộ ác thiên tài mà là kết quả tất nhiên của cuộc đấu tranh giai cấp mà chủ nghĩa tư bản tạo ra: GCTB và GCVS. Cuộc đấu tranh ấy biểu hiện ở mức độ chín muồi những nhu cầu phát triển của xã hội đòi được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột và khắc phục hậu quả do chế độ đó gây nên để không ngừng vươn lên trên con đường tiến bộ.
Khác với CNXHKT, CNXHKH không sản sinh ra những nguyên lý đặc biệt nào thuần tuý từ đầu óc con người và bắt phong trào vô sản phải tuân theo. Nó không chỉ phê phán CNTB và pảnh ánh tình trạng khốn cùng của quần chúng lao khổ, mà chủ yếu là giải thích rõ bản chất và quy luật vận động của xã hội tư bản. Nó hoàn toàn không dựa vào một lực lượng tinh thần nào tồn tại bên ngoài xã hội; mà là phát hiện ra ngay trong xã hội tư bản một lực lượng có khả năng dẫn đầu quá trình cải biến xã hội tư bản thành xã hội cộng sản, lực lượng ấy là GCVS. Nó khẳng định rằng quá trình cải biến ấy không diễn ra theo con đường hò hợp giai cấp, cải lương xã hội, chỉ bẳng thuyết phục, cảm hoá

và kêu goi từ tâm, thiện chí, mà chủ yếu theo con đường đấu tranh cách mạng của GCVS và đông đảo quần chúng lao động phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử.
Với nền tảng cơ bản CNXHKH thế XIX được C. Mác và Ph.Ăngghen và V.I. Lênin sáng lập và phát triển sẽ là cơ sở lý luận phát triển CNXHKH sau này.
Với Việt Nam, mọi thắng lợi cách mạng của nhân dân ta từ trước đến nay đều là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, của CNXHKH được vận dụng đúng đắn vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, thông qua quá trình lãnh đạo sáng tạo của Đảng ta, một Đảng Mácxit - Lênin do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp của đời sống chính trị xã hội thế giới, đặc biệt là sau khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, càng đòi hỏi bức thiết việc nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc lý luận CNXHKH mà C. Mác và Ph.Ăngghen và V.I. Lênin đặc nền móng xây dựng. Xa vào nguyên lý cơ bản dẫn đến nguy cơ "chệch hướng". Mặt khác, thực tiễn vận động của phong trào cách mạng ở mỗi nước đặt ra theo Đảng Cộng sản và công nhân phải vận dụng, bổ sung phát triển lý luận của CNXHKH phù hợp với đặc điểm tình hình lịch sử cụ thể của từng quốc gia dân tộc.
ở Việt Nam, trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay, lý luận CNXHKH cần được gieo trồng và phát triển "mảnh đất hiện thực" trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Tags: cnxhkh ra đời là 1 yếu tố khách quan, chủ nghĩa xã hội không tưởng pháp ảnh hưởng gì đến sự ra đồi của chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại, phát minh vĩ đại của mác xã hội chủ nghĩa khoa học, vai trò của mác, ăn ghen, trong việc phát triển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học, sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội, Ảnh hưởng tích cực của CNXH không tưởng đâu thế kỷ 19 đối với CNXHKH, những tiền đề ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học, vai trò của mác và ăngghen trong việc sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, CN xã hội thế kỷ 18, Các giai đoạn hình thành và phát triển của CNXHKH, viết tiểu luận về sự ra đời của chủ nghĩa khoa học xã hội, thời kỳ chín muồi của Chủ nghĩa xã hội khoa học (1871 - 1895), Điều kiện ra đời, những tiền đề cho sự ra đời của cnxh, vai trò của Mác và ăngghen với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học, vai trò của mác và ăngghen đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học, giá trị của mac và angghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, tiểu luan Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học đến sự phát triển của lịch sử nhân loại, tư tưởng lí luận về sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, Điều kiện kinh tế- xã hội và vai vai trò của C. Mác và Ăngghen trong việc hình thành CNXHKH., Phân tích điều kiện kinh tế- xã hội và vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học., vai trò của các mác và phridrich ăngghen powerpoint, Tác động của tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận tới sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học và ý nghĩa của việc nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học đối với sinh viên, tiền đề về lý luận góp phần gì đến sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, vai trò của c.mác và ph.ăngghen trong việc hình thành chủ nghĩa xã hôi khoa học, kết luận tìm hiểu tiênf đề cho sự ra đời cnxhkh, tiểu luận tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của cnxhkh, tiểu luận sự ra đờichủ nghĩa xã hội khoa học, vai trò của các mác và phriđrích ăngghen cho sự ra đời cnxhkh, Kinh tế chính trị cổ điển Anh – cơ sở cho sự ra đời chủ CNXHKH, đại diện là ai, sự hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học, tiền đề khoa học tự nhiên cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Sự hình thành khái niệm phản ứng hóa học trong chương trình hóa học phổ thông Luận văn Sư phạm 0
D Tác động của việc tham gia các hoạt động tình nguyện đối với sự hình thành kỹ năng giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên trường đại học Văn hóa, Xã hội 0
D CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC Khoa học kỹ thuật 0
V Nghiên cứu các thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
H Nghiên cứu sự hình thành Enzyme α - Amylaze trong thóc để làm thế liệu trong sản xuất bia Khoa học Tự nhiên 0
O Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần xây dựng số 7 - Vinaconex no 7 Luận văn Kinh tế 0
G Sự hình thành và phát triển của công ty Aasc Luận văn Kinh tế 0
C Sự hình thành và phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
C Quá trình chuẩn bị cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
T Sự hình thành phát triển quan hệ Việt - Mỹ Luận văn Kinh tế 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top