Đề tài Thực trạng và phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
MỤC LỤC
Chương I: Khái quát chung về ngành hàng dệt may trên thế giới.
I. Vai trò và đặc điểm của ngành hàng dệt may trong nền kinh tế và thương mại mại thế giới.
1. Vai trò của ngành hàng dệt may trong nền kinh tế thế giới.
2. Quy định pháp lý và kinh tế của Mỹ, EU, Canađa, Nhật Bản về nhập khẩu hàng dệt may.
II. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới
1. Tình hình sản xuất
2. Tình hình buôn bán
Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua
I. Vai trò của nghành dệt may đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam
II. Tình hình sản xuất
1. Về năng lực sản xuất
2. Thiết bị công nghệ
3. Cơ sở sản xuất
4. Cung cấp nguyên liệu
5. Cơ cấu và chất lượng sản phẩm
6. Thực trạng đầu tư và phát trển
III. Tình hình xuất khẩu
1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may từ năm 1990 trở về trước
2. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay
IV. Đánh giá chung
Những mặt được
Những mặt hạn chế
Chương III: Phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt nam
I. Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam trong những năm tới
1. Dự báo chung về thị trường thế giới
3. Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may của việt nam
Thị trường EU
Thị trường Nhật bản
Thị trường Mỹ
Thị trường Đông Âu và SNG
II. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu và doanh nghiệp dệt may Việt nam
III. Mục tiêu sản xuất và xuất khẩu trong những năm tới
IV. Biện pháp thực hiện
Các biện pháp phát triển ở tầmVĩ mô
Các biện pháp phát triển ở tầm Vi mô
V. Một số kiến nghị đề xuất với cơ quan quản lý Nhà nước.
Kết luận
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Cơ cấu các sản phẩm may công nghiệp đã có những thay đổi đáng kể, từ chỗ chỉ may được những quần áo bảo hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà , đồng phục học sinh… đến nay ngành may đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của những nhà nhập khẩu “khó tính”: quần áo thể thao , quần áo Jean… tuy số lượng còn ít. Hàng may mặc xuất khẩu của ta chủ yếu là những mặt hàng truyền thống: áo jacket, sơ mi nam nữ… các mặt hàng đòi hỏi kích thước cao như complet ta chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Đặc biệt về kiểu mốt may mặc của ta rất yếu do chưa được coi trọng đầu tư cơ sở thông tin về mốt và tiếp cận thị trường. Hàng dệt may của ta hiện nay đa phần học tập mốt của nước ngoài, còn hàng dệt may xuất khẩu, chủ yếu là sản xuất theo mẫu mã của nước ngoài.
Ngành dệt may Việt Nam cần cố gắng nhiều để chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới .
6. Tình hình đầu tư phát triển.
Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã giành cho ngành dệt các nguồn tín dụng của Pháp, Nhật Bản, Đức, ấn Độ để đầu tư bổ sung cọc sợi, đổi mới dây chuyền sợi và nhuộm. Ngoài ra các đơn vị sản xuất cũng dùng nguồn vốn tự có của mình để nâng cấp trang thiết bị. Nhiều xí nghiệp đặc biệt là các xí nghiệp may xuất khẩu đã và đamg đổi mới từng phần trang thiết bị sản xuất đồng thời cũng mở rộng sản xuất , với những phân xưởng hoàn toàn trang bụ những thiết bị sản xuất tiên tiến hiện đại. Cho đến nay, tổng công ty Dệt- May đang thực hiện 7 dự án với mức đầu tư là 106,4 tỷ đồng và 26 dự án đầu tư mới với tổng mức đầu tư là 532 tỷ đồng, trong đó 50 tỷ là vốn tín dụng ưu đãi. Dự án chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010 đã xác định mức tăng trưởng bbinh quân 14%/năm. Để thực hiện mục tiêu này, vấn đề tạo ra vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước đã góp phần huy động vốn trong dân đầu tư vào ngành dệt may.Trong hai, ba năm gần đây, các xí nghiệp may tư nhân đềy tham gia sản xuất hàng triệu sản phẩm các loại thu về hàng triệu USD, nổi tiếng như các xí nghiệp may Huy Hoàng, Minh Phụng…
Song song với việc đầu tư vào ngành dệt may bằng các nguồn vốn trong nước , việc gọi vốn đầu tư nước ngoài là một giải pháp quann trọng trong các giải pháp tạo nguồn vốn. Do chính sách mở cửa trong quan hệ kinh tế đối ngoại, những nỗ lực của Nhà nước trong việc tạo ra môi trường ngày càng thuận lợi hơn cho các hoạt động thương mại tự do phát triển,do những điều kiện quốc tế thuận lợi cho hợp tác khu vực và trên toàn thế giới. Lể từ ngày Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được ban hành( 29/12/1987) đến nay chúng ta đã đạt được những thành công đáng kể về hợp tác đầu tư trong nhiều lĩnh vực như dầu khí, du lịch công nghiệp nhẹ trong đó có ngành dệt may.Tính đến hết tháng 6/2000, trong lĩnh vực sản xuất sợi, dệt vải và may mặc đã có 178 dự án đầu tư liên doanh và 100% vốn nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư đăng kí trên 1804 triệu USD .
Đầu tư trên lĩnh dệt, nhuộm:82 dự án đã triển khai hoạt động.
Đầu tư trong lĩnh vực may mặc: 96 dự án đã triển khai hoạt động.
Hoạt động về đầu tư nước ngoài đã giúp ngành dệt may Việt Nam có thêm nguồn vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất ,tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, làm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao cho người tiêu dùng và xuất khẩu ( do bên nước ngoài nhận bao tiêu sản phẩm), tăng thêm phần thu nhập ngân sách Nhà nước. Qua hợp tác liên doanh chúng ta có thêm một số thiết bị dây chuyền dệt vải Jean. Cùng với các chuyên gia nước ngoài, chúng ta cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý sản xuất, bố trí dây chuyền công nghệ làm cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao hơn.
Hoạt động về đầu tư nước ngoài có nhiều ưu điểm nhưng cũng không tránh khỏi nhược điểm. Một thực tế phổ biến trong những năm qua là Việt Nam ít có khả năng góp vốn đầu tư bằng các vốn khác trừ quyền sử dụng đất công trình và thiết bị có sẵn. Các bên nước ngoài chủ yếu góp vốn bằng vật tư, thiết bị. Do thiếu kinh nghiệm, kiến thức và thông tin, chúng ta ít có khả năng đánh giá chính xác trình độ công nghệ, chất lượng và giá trị các loại vật tư thiết bị nước ngoài đưa vào, trong khi đó họ thường tính cao hơn thực tế. Hơn nữa, công nghệ sản xuất phía nước ngoài đưa vào mặc dù có tiến bộ hơn công nghệ ở Việt Nam nhưng không phải là công nghệ tiên tiến.Theo báo cáo khảo sát 42 doanh nghiệp thuộc Bộ công nghiệp nhẹ có liên doanh với nước ngoài năm 1998 cho thấy trong 710 dây chuyền sản xuất có:76% thiết bị thuộc thế hệ I( sản xuất từ những năm 50-60); 24% thiết bị thuộc thế hệ II( sản xuất từ những năm 70), trong 24% này có 1/3 thiết bị đã khấu hao hết, 2/3 còn lại là tân trang trong số đó đã sử dụng trên 5 năm.
III.Tình hình xuất khẩu .
Trong những năm vừa qua, do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng, cùng với sự biến động của thị trường truyền thống, thị trường hàng dệt may xuất khẩu của nước ta có nhiều thay đổi.
1. Tình hình xuất khẩu hang dệt may từ năm 1990 trở về trước.
Hai tổ chức sản xuất kinh doanh có tính chất đầu mối về ngành dệt may thời kỳ này là Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc (CONFECTIMEX) và Liên hiệp các xí nghiệp dệt (TEXTIMEX).
Thời kỳ này thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may là Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Hàng dệt may xuất khẩu sang các thị trường này chủ yếu là theo Nghị đinh thư (đước ký kết hàng năm giữa hai Chính phủ). Việc xuất hàng theo Nghị định thư (phần lớn là sang thị trường Liên Xô) hoàn toàn chịu sự quản lý của Nhà nước, do vậy chỉ tiêu hàng dệt may xuất khẩu được phân cho TEXTIMEX và CONFEXTIMEX, sau đó các tổ chứ...
Download Đề tài Thực trạng và phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam miễn phí
MỤC LỤC
Chương I: Khái quát chung về ngành hàng dệt may trên thế giới.
I. Vai trò và đặc điểm của ngành hàng dệt may trong nền kinh tế và thương mại mại thế giới.
1. Vai trò của ngành hàng dệt may trong nền kinh tế thế giới.
2. Quy định pháp lý và kinh tế của Mỹ, EU, Canađa, Nhật Bản về nhập khẩu hàng dệt may.
II. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới
1. Tình hình sản xuất
2. Tình hình buôn bán
Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua
I. Vai trò của nghành dệt may đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam
II. Tình hình sản xuất
1. Về năng lực sản xuất
2. Thiết bị công nghệ
3. Cơ sở sản xuất
4. Cung cấp nguyên liệu
5. Cơ cấu và chất lượng sản phẩm
6. Thực trạng đầu tư và phát trển
III. Tình hình xuất khẩu
1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may từ năm 1990 trở về trước
2. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay
IV. Đánh giá chung
Những mặt được
Những mặt hạn chế
Chương III: Phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt nam
I. Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam trong những năm tới
1. Dự báo chung về thị trường thế giới
3. Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may của việt nam
Thị trường EU
Thị trường Nhật bản
Thị trường Mỹ
Thị trường Đông Âu và SNG
II. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu và doanh nghiệp dệt may Việt nam
III. Mục tiêu sản xuất và xuất khẩu trong những năm tới
IV. Biện pháp thực hiện
Các biện pháp phát triển ở tầmVĩ mô
Các biện pháp phát triển ở tầm Vi mô
V. Một số kiến nghị đề xuất với cơ quan quản lý Nhà nước.
Kết luận
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
đầu được sản xuất: Đối với mặt hàng 100% sợi bông, các mặt hàng sợi đơn chải kỹ chỉ số cao phục vụ cho may xuất khẩu, mặt hàng sợi bông dày được tăng cường công nghệ làm bóng,phòng co cơ học…đã xuất khẩu được sang EU và Nhật Bản, đơn vị số một mặt hàng sợi pha, các mặt hàng katê đơn màu sợi 76, 76 đơn hay sợi dọc 76/2, các loại vải như gabadin, kaki, simili, hàng tissus pha len, pha cotton và petex… tuy sản lượng chưa cao nhưng đã bắt đầu đưa vào sản xuất rộng rãi ở nhiều doanh nghiệp; đơn vị mặt hàng 100% sợi tổng hợp, nhờ được trang bị thêm cáchệ thống xe săn sợi với độ săn cao, thiết bị comfit, thiết bị giảm trọng lượng đã tạo ra nhiều mặt hàng giả tơ tằm, giả len… thích hợp với khí hậu nhiệt đới , bước đầu giành được uy tín trong và ngoài nước; đơn vị mặt hàng dệt kim 75-80% sản lượng hàng dệt kim từ sợi Pe/co được xuất khẩu, tuy nhiên chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm giá thấp và trung bình 2,5-3,5 USD/sp, tỉ trọng các mặt hàng chất lượng cao còn rất thấp, chủ yếu vẫn phải nhập khẩu.Cơ cấu các sản phẩm may công nghiệp đã có những thay đổi đáng kể, từ chỗ chỉ may được những quần áo bảo hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà , đồng phục học sinh… đến nay ngành may đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của những nhà nhập khẩu “khó tính”: quần áo thể thao , quần áo Jean… tuy số lượng còn ít. Hàng may mặc xuất khẩu của ta chủ yếu là những mặt hàng truyền thống: áo jacket, sơ mi nam nữ… các mặt hàng đòi hỏi kích thước cao như complet ta chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Đặc biệt về kiểu mốt may mặc của ta rất yếu do chưa được coi trọng đầu tư cơ sở thông tin về mốt và tiếp cận thị trường. Hàng dệt may của ta hiện nay đa phần học tập mốt của nước ngoài, còn hàng dệt may xuất khẩu, chủ yếu là sản xuất theo mẫu mã của nước ngoài.
Ngành dệt may Việt Nam cần cố gắng nhiều để chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới .
6. Tình hình đầu tư phát triển.
Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã giành cho ngành dệt các nguồn tín dụng của Pháp, Nhật Bản, Đức, ấn Độ để đầu tư bổ sung cọc sợi, đổi mới dây chuyền sợi và nhuộm. Ngoài ra các đơn vị sản xuất cũng dùng nguồn vốn tự có của mình để nâng cấp trang thiết bị. Nhiều xí nghiệp đặc biệt là các xí nghiệp may xuất khẩu đã và đamg đổi mới từng phần trang thiết bị sản xuất đồng thời cũng mở rộng sản xuất , với những phân xưởng hoàn toàn trang bụ những thiết bị sản xuất tiên tiến hiện đại. Cho đến nay, tổng công ty Dệt- May đang thực hiện 7 dự án với mức đầu tư là 106,4 tỷ đồng và 26 dự án đầu tư mới với tổng mức đầu tư là 532 tỷ đồng, trong đó 50 tỷ là vốn tín dụng ưu đãi. Dự án chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010 đã xác định mức tăng trưởng bbinh quân 14%/năm. Để thực hiện mục tiêu này, vấn đề tạo ra vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước đã góp phần huy động vốn trong dân đầu tư vào ngành dệt may.Trong hai, ba năm gần đây, các xí nghiệp may tư nhân đềy tham gia sản xuất hàng triệu sản phẩm các loại thu về hàng triệu USD, nổi tiếng như các xí nghiệp may Huy Hoàng, Minh Phụng…
Song song với việc đầu tư vào ngành dệt may bằng các nguồn vốn trong nước , việc gọi vốn đầu tư nước ngoài là một giải pháp quann trọng trong các giải pháp tạo nguồn vốn. Do chính sách mở cửa trong quan hệ kinh tế đối ngoại, những nỗ lực của Nhà nước trong việc tạo ra môi trường ngày càng thuận lợi hơn cho các hoạt động thương mại tự do phát triển,do những điều kiện quốc tế thuận lợi cho hợp tác khu vực và trên toàn thế giới. Lể từ ngày Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được ban hành( 29/12/1987) đến nay chúng ta đã đạt được những thành công đáng kể về hợp tác đầu tư trong nhiều lĩnh vực như dầu khí, du lịch công nghiệp nhẹ trong đó có ngành dệt may.Tính đến hết tháng 6/2000, trong lĩnh vực sản xuất sợi, dệt vải và may mặc đã có 178 dự án đầu tư liên doanh và 100% vốn nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư đăng kí trên 1804 triệu USD .
Đầu tư trên lĩnh dệt, nhuộm:82 dự án đã triển khai hoạt động.
Đầu tư trong lĩnh vực may mặc: 96 dự án đã triển khai hoạt động.
Hoạt động về đầu tư nước ngoài đã giúp ngành dệt may Việt Nam có thêm nguồn vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất ,tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, làm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao cho người tiêu dùng và xuất khẩu ( do bên nước ngoài nhận bao tiêu sản phẩm), tăng thêm phần thu nhập ngân sách Nhà nước. Qua hợp tác liên doanh chúng ta có thêm một số thiết bị dây chuyền dệt vải Jean. Cùng với các chuyên gia nước ngoài, chúng ta cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý sản xuất, bố trí dây chuyền công nghệ làm cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao hơn.
Hoạt động về đầu tư nước ngoài có nhiều ưu điểm nhưng cũng không tránh khỏi nhược điểm. Một thực tế phổ biến trong những năm qua là Việt Nam ít có khả năng góp vốn đầu tư bằng các vốn khác trừ quyền sử dụng đất công trình và thiết bị có sẵn. Các bên nước ngoài chủ yếu góp vốn bằng vật tư, thiết bị. Do thiếu kinh nghiệm, kiến thức và thông tin, chúng ta ít có khả năng đánh giá chính xác trình độ công nghệ, chất lượng và giá trị các loại vật tư thiết bị nước ngoài đưa vào, trong khi đó họ thường tính cao hơn thực tế. Hơn nữa, công nghệ sản xuất phía nước ngoài đưa vào mặc dù có tiến bộ hơn công nghệ ở Việt Nam nhưng không phải là công nghệ tiên tiến.Theo báo cáo khảo sát 42 doanh nghiệp thuộc Bộ công nghiệp nhẹ có liên doanh với nước ngoài năm 1998 cho thấy trong 710 dây chuyền sản xuất có:76% thiết bị thuộc thế hệ I( sản xuất từ những năm 50-60); 24% thiết bị thuộc thế hệ II( sản xuất từ những năm 70), trong 24% này có 1/3 thiết bị đã khấu hao hết, 2/3 còn lại là tân trang trong số đó đã sử dụng trên 5 năm.
III.Tình hình xuất khẩu .
Trong những năm vừa qua, do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng, cùng với sự biến động của thị trường truyền thống, thị trường hàng dệt may xuất khẩu của nước ta có nhiều thay đổi.
1. Tình hình xuất khẩu hang dệt may từ năm 1990 trở về trước.
Hai tổ chức sản xuất kinh doanh có tính chất đầu mối về ngành dệt may thời kỳ này là Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc (CONFECTIMEX) và Liên hiệp các xí nghiệp dệt (TEXTIMEX).
Thời kỳ này thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may là Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Hàng dệt may xuất khẩu sang các thị trường này chủ yếu là theo Nghị đinh thư (đước ký kết hàng năm giữa hai Chính phủ). Việc xuất hàng theo Nghị định thư (phần lớn là sang thị trường Liên Xô) hoàn toàn chịu sự quản lý của Nhà nước, do vậy chỉ tiêu hàng dệt may xuất khẩu được phân cho TEXTIMEX và CONFEXTIMEX, sau đó các tổ chứ...