riu_hbt

New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

Cũng giống như mọi vấn đề liên quan đến quy chế nhân thân, vấn đề ly hôn có yếu tố
nước ngoài bắt nguồn từ hiện tượng di dân. Vợ, chồng có thể là công dân của những
nước khác nhau hay có thể có cùng quốc tịch nhưng cư trú tại những nước khác
nhau; thậm chí, vợ chồng có thể không cùng quốc tịch và nơi cư trú: do người vợ hoặc
người chồng đi lao động ở nước ngoài xa gia đình hay đơn giản là do hai người đã ly
thân trên thực tế để chuẩn bị chính thức chấm dứt quan hệ hôn nhân. Nhìn từ góc độ
xã hội học, có thể nhận thấy rằng hiện nay, ở nhiều nước, nguy cơ tan vỡ gia đình
ngày một gia tăng do tác động của nhiều yếu tố khác nhau: người phụ nữ ngày càng
trở nên độc lập hơn; tuổi thọ của con người được nâng cao; quan niệm truyền thống
về ly hôn dần thay đổi: ly hôn không còn bị coi là một tội lỗi.
Do mỗi quốc gia có một cách nhìn nhận khác nhau về hôn nhân, dẫn đến sự khác biệt
trong quy định của nội luật nên ly hôn có yếu tố nước ngoài thực sự đặt ra vấn đề
xung đột pháp luật. Thực vậy, chỉ liên quan đến các trường hợp ly hôn, chúng ta cũng
có thể nhận thấy rất nhiều quan điểm khác nhau về căn cứ ly hôn: từ quan điểm chặt
chẽ về ly hôn do có yếu tố lỗi của vợ hay chồng cho đến quan điểm thoáng hơn về ly
hôn do ly thân từ hai năm trở lên và cuối cùng là quan điểm cởi mở hơn nữa với
trường hợp thuận tình ly hôn và chấm dứt chung sống (trường hợp này mới phát triển
tại Pháp). Sự đa dạng về quan điểm đối với vấn đề ly hôn đồng thời cũng tác động
nhất định đến những quy định về thủ tục ly hôn, vốn có quan hệ chặt chẽ với vấn đề
nội dung. Hiện nay, nhiều quốc gia đã chuyển từ quan điểm thứ nhất (ly hôn do lỗi)
sang quan điểm thứ ba (thuận tình ly hôn).
Ngày nay, những khác biệt giữa các nước trong vấn đề ly hôn đã có xu hướng giảm
bớt. Những nước trước đây từng phản đối ly hôn thì giờ đây cũng đã chấp nhận khái
niệm này. Có thể nói, hiện nay, không còn nước nào không cho phép ly hôn. Các quy
định về căn cứ ly hôn cũng dần thống nhất với nhau. Mặc dù vậy, quy định của các
nước về ly hôn cũng chưa hẳn đã hoàn toàn thống nhất: tùy nước mà ly hôn có thể
đơn giản hay phức tạp. Điều này khiến cho khi xảy ra tranh chấp, vợ chồng có thể lợi
dụng những điểm khác biệt này để lẩn tránh pháp luật.
Ngoài ra, ly hôn cũng vấn đề nhạy cảm thể hiện sự xung đột giữa các nền văn hóa, bởi
vì ly hôn khiến cho chúng ta nhìn nhận lại một vấn đề cơ bản đối với một số quốc gia,
đó là vấn đề bình đẳng nam-nữ. Đặc biệt, pháp luật của các nước Hồi giáo, vốn dựa
trên tư tưởng trọng nam khinh nữ, còn cho phép người chồng được đơn phương chấm
dứt hôn nhân.
Theo quan điểm phổ biến nhất hiện nay, ly hôn là "chế định có hình thức của một vụ
kiện". Ở những nước theo hệ thống luật Common Law, ly hôn chỉ đơn giản đặt ra vấn
đề về thẩm quyền của Tòa án thụ lý hồ sơ: Nếu một Tòa án có thẩm quyền thụ lý hồ
sơ thì Tòa án đó sẽ áp dụng pháp luật nước mình. Trong khi ở những hệ thống luật
khác, nếu vụ việc có yếu tố nước ngoài thì cần tách biệt hai vấn đề là pháp luật áp
dụng và thẩm quyền của Tòa án; đồng thời, cũng phải tính đến vấn đề công nhận
quyết định ly hôn của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Chính vì vậy, bài trình bày
này sẽ đề cập lần lượt hai vấn đề sau: xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét
xử.
I. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
Do thời gian có hạn nên tui sẽ chỉ trình bày các quy định về căn cứ ly hôn. Ly hôn là
vấn đề thuộc về quy chế nhân thân và do vậy, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nhân
thân (Luật nơi cư trú của đương sự hay luật của nước mà đương sự mang quốc tịch).
Về điểm này, người ta nhận thấy có sự do dự trong việc lựa chọn giữa hệ thuộc luật
nơi cư trú của đương sự và hệ thuộc luật của nước mà đương sự mang quốc tịch.
A. HỆ THUỘC LUẬT QUỐC TỊCH
Hệ thuộc luật này thể hiện quan điểm truyền thống về chủ quyền và thẩm quyền của
một quốc gia đối với công dân của nước mình tại nơi họ cư trú. Tuy nhiên, vấn đề này
lại đặt ra một số khó khăn về mặt thực tiễn và thậm chí là cả về mặt lý luận.
1. Khó khăn về mặt thực tiễn: tình trạng một người có nhiều quốc tịch hay không
quốc tịch
Khó khăn lớn nhất là tình trạng một người có nhiều quốc tịch. Tình trạng này hiện khá
phổ biến, do pháp luật của nhiều nước cho phép phụ nữ sau khi kết hôn với người
nước ngoài vẫn được giữ quốc tịch gốc. Một lý do khác, đó là phụ nữ có quyền yêu cầu
cho con cái được mang quốc tịch của mẹ. Do vậy, nhiều trẻ em sinh ra có hai quốc
tịch. Đối với xung đột về quốc tịch, có hai giải pháp truyền thống, đó là:
Nếu người có nhiều quốc tịch là công dân của nước có cơ quan thụ lý vụ việc
thì quốc tịch của nước có cơ quan thụ lý vụ việc đương nhiên là quốc tịch có giá
trị;
Nếu người đó có hai quốc tịch nước ngoài thì cơ quan thụ lý vụ việc phải xác
định quốc tịch nào là quốc tịch có quan hệ chặt chẽ nhất.
Giải pháp thứ nhất tương đối khó, bởi vì giải pháp này sẽ dẫn đến tình huống người vợ
là công dân của nước A kết hôn với người chồng là công dân của nước B và sau đó có
quốc tịch của nước B do kết hôn. Nếu thủ tục ly hôn được tiến hành tại nước B thì
pháp luật áp dụng là pháp luật nước B. Quyết định ly hôn có nguy c không được công
nhận tại nước A. Chính vì vậy, giải pháp hợp lý nhất là trong trường hợp quyết định
được đưa ra nước ngoài, thẩm phán được yêu cầu công nhận quyết định ly hôn (ở đây
là thẩm phán nước A) nên công nhận quyết định ly hôn mà không chỉ trích quyết định
này của thẩm phán nước B. Giải pháp này hiện đang rất phổ biến trong thực tiễn xét
xử ở Châu Âu. Đây đồng thời cũng là giải pháp được quy định tại Công ước La Hay
năm 1970 về công nhận quyết định ly hôn.
Đối với giải pháp thứ hai, chúng ta thậm chí có thể không ưu tiên lựa chọn quốc tịch
của nước có Tòa án thụ lý vụ việc nếu quốc tịch này không có quan hệ chặt chẽ với
đương sự. Theo hướng này, khoản 1 và 3 Điều 1 Đạo luật năm 1981 của Hà Lan quy
định rằng: "Nếu một người có từ hai quốc tịch trở lên thì luật quốc tịch có hiệu lực áp
dụng là luật của nước có quan hệ chặt chẽ nhất với người đó trong mọi trường hợp ".
2. Khó khăn về mặt lý luận
Quy định vấn đề ly hôn thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tịch tất yếu đặt ra vấn
đề luật áp dụng đối với những gia đình có thành viên là công dân của những nước
khác nhau. Trong luật quốc tịch, nhiều giải pháp đã được tính đến, tuy nhiên, không
giải pháp nào thỏa mãn yêu cầu đặt ra:
Áp dụng kết hợp luật quốc tịch của cả người vợ và người chồng: giải pháp này
không phù hợp bởi vì quy định như vậy quá gò bó;
Áp dụng riêng rẽ luật quốc tịch của từng người cho từng vấn đề tương ứng: giải
pháp này sẽ dẫn đến những hệ quả vô lý (một người được coi là đã ly hôn ở nước
này trong khi người còn lại vẫn được coi là đã kết hôn ở nước khác);
Lựa chọn áp dụng luật quốc tịch của vợ hay của chồng: trước đây, pháp luật
áp dụng là pháp luật của người chồng. Ngày nay, phương án này đôi khi vẫn được
áp dụng tại các Tòa Bảo hiến của Đức, Ý hay được quy định trong pháp luật của
một số nước như Tây Ban Nha, Nhật Bản. Các quốc gia Hồi giáo hiện vẫn áp dụng
giải pháp này.
Như vậy, chỉ còn một giải pháp duy nhất khả thi, đồng thời cũng là giải pháp phổ biến
hiện nay, đó là căn cứ theo hệ thuộc phụ trợ: hệ thuộc luật nơi cư trú chung. Giải
pháp này được đề xuất tại Điều 7 Nghị quyết của Viện Pháp luật quốc tế và sau đó
được chuyển hóa vào nội luật của nhiều nước. Cùng với thời gian, các phương án dần
được tinh lọc để đi đến thứ tự ưu tiên áp dụng như sau: trước hết phải ưu tiên áp dụng
pháp luật quốc tịch chung của vợ và chồng; trong trường hợp không có quốc tịch
chung, áp dụng pháp luật quốc tịch chung cuối cùng; tiếp đến là pháp luật nơi cư trú
chung; nơi cư trú chung cuối cùng và cuối cùng là pháp luật của Tòa án thụ lý vụ việc.
B. HỆ THUỘC LUẬT NƠI CƯ TRÚ HOẶC NƠI THƯỜNG TRÚ


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top