Download Tiểu luận Nho giáo và pháp luật miễn phí
Đằng sau ít chữ “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử) là tư tưởng duy trì một tôn ti trật tự, một xã hội có đẳng cấp và phân chia ngôi thứ chặt chẽ. Từ gia đình mà tưởng ra xã hội, người quân tử, theo nghĩa đen là người cầm quyền, phải được giáo dục cực kỳ cẩn thận, lấy lễ và văn làm nội dung chính, lễ là đạo đức văn là học vấn. “Tề gia” có nghĩa là “gia đình hoà mục, cha con, anh em, vợ chồng sống tình nghĩa thuỷ chung, người dưới phục tùng người trên, người trên thương yêu chăm lo cho kẻ dưới”. Muốn vậy “cha ra cha”, có nghĩa rằng làm cha mẹ “lúc sống có chí hướng đúng cho con cháu trông vào, lúc chết để lại hành vi tốt cho con cháu bắt chước” [Luận ngữ, Học Nhi]. Nghĩa của cha là tử, thì nghĩa của con là hiếu. Cứ như thế, hành vi của con người được giới hạn bởi những thước đo mà người ta cho là chính danh.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download choTóm tắt nội dung:
g điều này đều cần có lời giải đáp, bởi con người hành xử theo thói quen, tập tục, bản lĩnh, tâm thức của dân tộc mình. Sau chiến tranh lạnh, ý thức hệ tư tưởng không còn là hố ngăn con người. Tự do thương mại toàn cầu làm cho pháp luật được hài hoà hoá ngày càng nhanh. Trong bối cảnh đó, níu giữ lấy bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa pháp lý, trở nên hệ trọng, hệt như giữ lấy sự độc lập quốc gia trước sự xâu xé của thực dân trong thế kỷ XIX. Muốn giữ quốc tuý và rửa nhục cùng kiệt nàn cho đất nước, mượn cách nói của cụ Lương Văn Can (bảo quốc tuý, tuyết quốc sỉ), người học luật nước ta trước hết phải hiểu và tìm cách tôn vinh văn hóa pháp lý và triết học pháp quyền của dân tộc mình.Con người suy nghĩ như thế nào thì hành xử như vậy. Muốn hiểu luật pháp và cách thức tổ chức xã hội Việt Nam, phải hiểu lịch sử hình thành tư tưởng Việt Nam. Chỉ có như vậy mới giải thích được cái mà người Việt Nam tôn kính, yêu quý, căm ghét hay sợ hãi mới hiểu cung cách mà người Việt Nam tổ chức các sinh hoạt của mình - cung cách sinh hoạt đó chính là văn hóa. Tư tưởng của người Việt Nam có thể tạm phân chia thành hai loại: (i) tư tưởng bình dân, hình thành trong nếp nghĩ của nhân dân, được truyền lại cho hậu thế bằng đủ loại văn hóa dân gian, (ii) tư tưởng hàn lâm, bác học, được xây đắp nên bởi những người am hiểu chữ nghĩa. Những tư tưởng truyền thống đó phải được nghiên cứu và truyền lại cho con cháu, trước khi vay mượn học thuyết của dị chủng. Nho giáo là một trong những nền tảng quan trọng hình thành nên tư tưởng của người Việt Nam. Có người xem Nho giáo như một thứ tôn giáo và cho rằng văn hóa nước ta chịu ảnh hưởng của tam giáo (Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo). Thực ra, Nho giáo không phải là một thứ chủ nghĩa, một ý thức hệ, bởi Khổng Tử không phải là người phát kiến ra thứ tư duy đó. Nho giáo cũng không phải một thứ tôn giáo do Khổng Tử làm đạo trưởng, kiểu như Thiên chúa giáo của Chúa Giê-su. Nho giáo là một cách sống, một triết lý sống mà theo nó thì con người cảm giác thoải mái, thái bình: từ chuyện nhỏ trong gia đình, trong dòng họ, chuyện ngoài làng cho tới quốc gia đại sự. Thứ triết lý này đã là nền tảng cho xã hội Việt Nam từ hàng nghìn năm nay; đã đi sâu vào tâm thức người dân, sâu thẳm và tự nhiên đến nỗi “không có dấu vết nào của văn hóa Việt Nam. .. mà không có tính chất Nho giáo”. Trong quá trình phát triển, mỗi thời đại có cách hiểu riêng về Nho giáo, có nhiều trường phái Nho giáo khác nhau, tử Nho giáo Nguyên thuỷ, Hán nho, Đường nho, Tống nho, Tân nho, Cựu nho, Hàn Nho (Nho giáo Hàn lâm) và Nho giáo dân gian... tuy nhiên trong cái vạn biến đó chắc phải có những cái gốc rễ bất biến. Thêm nữa, với tính cách là một tư tưởng sống, Nho giáo, đặc biệt Tống Nho, đã thu nạp triết lý của Phật giáo, Lão giáo và tín ngưỡng bản địa, tích tụ lâu ngày mà thành một đạo đức sống. Người Nhật, người Hàn, Hoa kiều, (và bây giờ là người Hoa trong đại lục) đã và đang làm giàu cho đất nước của họ, mà không muốn phá vỡ triết lý sống cổ truyền này. Khi đã trở thành tư tưởng, tâm thức một dân tộc, thì dù có bị phủ nhận, Nho giáo vẫn sống dai dẳng trong cách suy nghĩ và ứng xử của người dân. Bởi vậy, học lại triết lý truyền thống để giải thích nhà nước và pháp luật chính là học cách suy nghĩ cổ truyền của ông cha để cắt nghĩa những hiện tượng thời nay. Đây chính là một điểm then chốt làm cho pháp luật trên giấy trở lại ngày càng gần hơn với những suy nghĩ và nguyện ước của người dân, chỉ có như vậy luật pháp mới sống lâu bền trong tâm thức nhân dân. Nếu không làm như vậy, mọi tư tưởng vay mượn từ bên ngoài rồi sẽ bị lãng quên như cơn mưa bụi trong lịch sử nghìn năm văn hiến. Sự hoang tàn vụn nát của Nho giáo trước đủ luồng triết lý Tây phương có nhiều nguyên nhân sâu xa; có thể bắt đầu bởi phong trào Tây học, lẫn lộn giữa văn minh và văn hóa trong khi Nho giáo ngơ ngác không biết làm thế nào” để theo kịp văn minh phương Tây, cũng có thể bắt đầu bằng phong trào dùng chữ quốc ngữ của các nhà cách mạng, vô tình mà tạo ra cái hố sâu thẳm làm cho con cháu không còn đọc được gia phả của tổ tiên. Thêm nữa, tuy không rộ lên phong trào chống Nho giáo và bài bác Khổng Tử gay gắt như đã xảy ra ở Trung Quốc sau cách mạng Tân Hợi, song trên thực tế Nho giáo đã mất đi vai trò của một chủ thuyết tư tưởng để tổ chức xã hội ở nước ta. Đôi khi người ta chỉ vay mượn cách nói cũ của Nho giáo để tuyên truyền tư tưởng chính trị mới vay mượn từ phương Tây. Chỉ mới gần đây, Nho giáo mới được nghiên cứu trở lại ở nước ta, hầu như là sự quay về nguồn gốc một cách tự phát theo bản năng. Điều này thật đáng hổ thẹn, bởi thậm chí văn minh phương Tây ngày nay cũng tăng cường nghiên cứu văn hóa phương Đông; các cơ sở nghiên cứu Nho học nhan nhản tù Âu sang Mỹ báo hiệu một sức hấp dẫn kì lạ của triết lý sống phương Đông trong thời buổi hiện đại ngày nay. Phương cách điều chỉnh hành vi của Nho giáo: Giống như mọi triết lý phương Đông khác, con đường nhận thức, khám phá và chinh phục các quy luật của thế giới bên ngoài bắt đầu bởi những bước đi hướng vào nội tâm để tìm lấy sự hài hoà giữa cá nhân và vũ trụ. Theo sách Trung Dung, “trời sinh ra người phú cho cái tính, mà thể theo cái tính ấy làm đường lối cư xử hàng ngày, gọi là đạo. Bởi khí chất bẩm sinh tính tình mỗi người một khác nhau, kẻ quá thái người bất cập, dạy tu sửa cho thích trung gọi là giáo. Nếu con người đã sửa được tính tình, thì khi mừng, lúc giận, lúc yêu thương khi chưa phát thường giữ được trung bình, mà khi phát ra có tiết độ thường giữ được ôn hoà. Trung là tính không thiên lệch làm căn bản cho lẽ phải, hoà là không trái ngược làm đường lối thông cho cả thiên hạ, cho nên đạo Khổng là đạo trung dung”.Triết lý sống theo Nho giáo, về cơ bản dựa trên ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; mà căn bản là chữ nhân. Như hạt trong quả cây tàng trữ sinh lực, từ hạt mà mọc ra mầm ra cành ra lá, nhân tính quyết định diện mạo và hành vi con người. Sáng tạo ra chữ nhân, Nho giáo đã tìm ra một điểm tựa mà bẩy một phần lớn xã hội loài người theo xu hướng ổn định, hoà bình và hướng thiện. Chữ nhân hợp mà rộng, thấp mà cao, vừa đủ với cho mọi hạng người; cả đời người theo Nho học có lẽ cũng chỉ truy tìm những giá trị của chữ nhân mà thôi.Trước hết, chữ nhân có thể sơ hiểu là yêu người - một chữ hợp ý, gồm chữ nhân (người) và chữ nhị (hai) tạo thành; trong nhà yêu bố mẹ anh em vợ chồng, ra ngoài yêu đồng bào, trong hành xử không nỡ hại ai. Điều gì không muốn ai làm cho mình thì không nên làm cho ai (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Vì nhân là “yêu người, yêu vật, có lòng bác ái, coi nhau như anh em, cả vũ trụ như nhất thể, lòng yêu lòng muốn đó rất tự nhiên không miễn cưỡng, cho nên người có nhân là có an, lúc nào cũng tự nhiên, ung đung, trúng đạo trong lòng yên lặng hành xử ra ngoài thì thiên lý chí công chí thiện”. Ngư