xuanmai_et
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
1. LỜI MỞ ĐẦU 1
2. NỘI DUNG 3
2.1. Tình yêu những ngày đầu chiến tranh. 3
2.2. Tình yêu – Sợi chỉ xanh óng ánh giữa bm đạn. 9
2.3. Sự hồi sinh. 15
3. KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
1. LỜI MỞ ĐẦU
Nếu như nói đến chiến tranh là nói đến sự khốc liệt, sự mất mát, những đau khổ, những hy sinh lớn lao thì khi nói đến tình yêu ta nghĩ tới sự êm dịu, ngọt ngào hạnh , hạnh phúc.
Tưởng như chiến tranh và tình yêu luôn đối lập nhau, trái ngược nhau, không khi nào đứng cạnh nhau, cùng tồn tại. Nhưng chiến tranh bên cạnh những đổ nát, hoang tàn mất mát còn là nơi để con người dựa vào nhau, khám phá ra nhau, phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn, để dành tình cảm cho nhau. Như thế, trong chiến tranh tình yêu luôn xuất hiện như một liều thuốc làm dịu những cơn đau, hóa giải những bạo lục, làm giảm bớt sự hy sinh và mất mát mà con người phải ghánh chịu.
Chiến tranh tàn phá biết bao làng xóm, gia đình, tổ ấm hạnh phúc, nhưng chiến tranh cũng đã chứng kiến biết bao mối tình thật đẹp, thật chân thành và nên thơ. Tất cả những điều đó đã được các nhà văn, nhà thơ thâu tóm và đưa vào những trang viết của mình một cách rất sinh động và chân thực và gần gũi đối với mọi người. Chiến tranh có thể hủy diệt mọi thứ trên đường nó đi qua, song tình yêu như một sức mạnh không thể giập vùi, tình yêu ấy đã giúp bao anh lính bộ đội cụ Hồ đã chắc tay súng để bảo vệ tổ quốc và có niền tin vào một ngày mai đất nước độc lập thống nhất, tình yêu bị kìm nén ấy sẽ lại bùng cháy và thăng hoa cùng dân tộc.
Tình yêu qua những trang viết của các tác giả có thể là sự chờ đợi của những người mẹ, người vợ, người em với tình cảm ở nơi chiến tuyến, sự chờ đợi của họ có thể đo bằng chiều dài của cuộc kháng chiến, nhưng họ vẫn chờ với một niềm tin son sắt thủy chung rằng “Ngày mai anh ấy sẽ về”. Cũng có thể tình yêu ấy là một mối tình đẹp nảy nở từ chiến trường đầy máu lửa của một cô thanh niên xung phong với một anh bộ đội cụ Hồ. Tình yêu ấy có thể là một lời hứa vội vã trước khi lên đường nhưng cũng gieo vào lòng họ niềm tin vào một ngày mai xum họp.
Trải qua bao nhiêu sự gian nan vất vả gian nan cùng với sự thống nhất nước nhà thì tình yêu đã gặp lại tình yêu và có thể đâm trồi nảy lộc trên mảnh đất ngày trước là một chiến trường ác liệt… Tất cả những điều đó qua cây bút của các nhà văn nhà thơ đã hiện lên là một mảng nhỏ của bức tranh nhiều màu sắc của cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Tác giả đã phần nào khẳng định: Chính trong chiến đấu gian khổ người ta lại càng hy vọng, càng cần tìm cho mình một niềm tin và niềm tin ấy có gì bằng vẻ đẹo, lòng tốt và tình cảm con người dành cho nhau và nhất là tình
2. NỘI DUNG
2.1. Tình yêu những ngày đầu chiến tranh.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cánh lính trẻ chúng tui thường chuyền tay nhau bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng. Trong các đêm liên hoan văn nghệ, anh tốt giọng lại nhảy lên sân khấu ngâm bai thơ ấy. Những lúc rỗi rãi, chúng tui thường tranh luận với nhau "nhà thơ Quang Dũng đã có vợ hay chưa". Người bảo "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới. Ðêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" cũng có nghĩa là nhà thơ Quang Dũng mới "mơ" thôi chứ chưa cưới vợ, người lại lý sự đáng lẽ Kiều Thơm viết hoa mới đúng nhưng nha thơ Quang Dũng viết la "kiều thơm" (danh từ chung) để giữ bí mật.
Một vị tướng về thị sát chiến trường ở đồng bằng Bắc Bộ thấy cánh lính tráng ngâm bài thơ “Tây tiến”, ông sai quân đi chép về xem lại sao lính đồng bằng lại mê “Tây tiến” đến thế. Ông lấy bút máy vạch đậm dưới những chữ "đoàn quân mỏi", "anh bạn dãi dầu không bước nữa", "gục lên súng mũ bỏ quên đời", "rải rác biên cương mồ viễn xứ", và ông không quên dùng bút máy khoanh chung quanh câu "Ðêm mơ Ha Nội dáng kiều thơm", rồi phê phán la "chưa cắt được cái đuôi tiểu tư sản", người quân nhân cách mạng gì mà sợ chết, mê gái đến thế. Nhất là cô gái ấy lại là một nàng tạch tạch sè (tiểu tư sản) đầu xúp lơ, mặt trát phấn, môi quét son.
Bây giờ, bài thơ “Tây tiến” đã được đưa vào sách giáo khoa lớp 12 chương trình trung học phổ thông. Cách đây ít ngày, một nhà nghiên cứu văn học đã lên màn hình rao giảng "kiều" trong bài thơ “Tây tiến” là cô gái xinh nhất trong bốn chị em cùng mang chữ đệm là Kiều ở một quán cà-phê trên phố Hàng Bông. Quang Dũng đã "trộm nhớ thầm thương" cô Kiều ấy, nhớ đến mức hình ảnh cô kiều ấy ám ảnh nhà thơ khi viết “Tây tiến” .
Những ngày sống gần nhà thơ Quang Dũng, thằng em này không hề nghe thấy ông anh nhắc một lời về cô kiều ông anh "thầm yêu trộm nhớ" ở phố Hàng Bông. Trong ngày giỗ Quang Dũng, tui gặp cụ Nguyễn Văn Chương, người bạn rất thân của nhà thơ Quang Dũng trong thời gian hai người còn học ở Trường tư thục Thăng Long. Trước Cách mạng Tháng Tám, sau khi ở Vân Nam (Trung Quốc) về, Quang Dũng lại ở cùng Nguyễn Văn Chương. Trong lúc vui ch
Qua câu chuyện, tui mới hiểu, nhà thơ Quang Dũng không yêu cô Kiều nào trong bốn cô gái có chữ đệm la Kiều cả và số nhà 68 phố Hàng Bông, nơi trú ngụ của bốn chị em Nguyễn Kiều Vinh, Nguyễn Kiều Dinh, Nguyễn Kiều Hinh, Nguyễn Kiều Hương, không phải quán cà-phê mà là ngôi nhà hai tầng ông chủ thầu giàu có trong Vinh mua cho bốn cô con gái đi học ở Ha Nội. Quang Dũng thời ấy đang ôm mộng giang hồ, rất ngại người đẹp làm vướng chân lữ khách, nên mỗi lần Nguyễn Văn Chương đến 68 Hàng Bông thăm Kiều Dinh, Quang Dũng thường đi hộ vệ, nói chuyện xã giao với ba Kiều kia, dành "khoảng trống" cho Nguyễn Văn Chương tâm sự cùng Kiều Dinh, bố của Kiều Dinh biết chuyện bèn mời Nguyễn Văn Chương đến giao "chỉ tiêu" nếu Nguyễn Văn Chương đỗ "đíp-lôm", tương đương trung học phổ thông bây giờ, cụ sẽ gả Kiều Dinh cho và sẽ xin cho chàng rể vào làm ở Tòa đốc lý, phủ thống sứ. Rủi thay, cả Quang Dũng và Nguyễn Văn Chương đều bị trượt trong kỳ thi năm ấy. Nguyễn Văn Chương bỏ vào Nam còn Quang Dũng thẳng đường lên Yên Bái rồi theo cánh đường sắt sang Vân Nam. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, Quang Dũng theo bộ đội chủ lực lên mặt trận miền Tây còn Nguyễn Văn Chương theo một công binh xưởng về Kim Bảng (Hà Nam). Sau khi viết xong bài thơ “Tây tiến”, Quang Dũng tìm đến công binh xưởng đọc thơ cho Nguyễn Văn Chương nghe rồi tủm tỉm cười: Thank cậu đã cho mình mượn chữ kiều danh từ riêng của cậu để mình biến nó thành chữ kiều danh từ chung trong thơ. Còn chữ thơm trong câu thơ là do mình nhớ đến mùi nước hoa Rê-vơ Ðo (loại nước hoa đắt tiền các cô gái nhà khá giả thường dùng thời Pháp thuộc) của cô Kiều Dinh, chứ không phải mùi "hương đồng gió nội" của ai đâu.
Theo lệnh gia đình, Kiều Dinh đi lấy chồng, một kịch sĩ trong Ðoàn kịch Thế Lữ. Kiều Dinh thường theo chồng đi biểu diễn. Thấy Kiều Dinh có năng khiếu về kịch nói, nhà thơ Thế Lữ tuyển luôn Kiều Dinh vào đoàn kịch và giao cho thủ các vai phụ trong các vở kịch “Tục lụy”, “Kinh Kha”, “Kim tiền”, “Lôi Vũ”, “Bắc Sơn”... Một thời gian sau, Kiều Dinh chia tay với chàng kịch sĩ giang hồ rồi theo gia đình về nội thành. Năm 1950, Kiều Dinh lấy một viên chức cao cấp trong chính quyền Bảo Ðại. Năm 1953, Kiều Dinh theo chồng vào Nam và năm 1973, theo con trai sang định cư ở Mỹ. Hiện nay cả bốn Kiều vẫn còn sống: Kiều Vinh, Kiều
ác liệt nhất. Cuộc sống mới tuyệt vời làm sao, còn bao nhiêu điều tốt đẹp, chỉ cần ta mở rộng tấm lòng là có thể nắm bắt được ngay và chị đào đã làm được điều đó. Nhà văn Nguyễn Khải đã nói “con người không thể sống đơn độc, một đoạn đời Đào đã chứng minh điều ấy. Cuộc sống cộng đồng cần thiết đến mức người ta không thể ý thức được. Chỉ khi người ta bị ném ra khỏi cộng đồng, ném ra giữa cái hoang vắng, chỉ còn mình đối diện với mình. Khi ấy người ta mới hiểu được giá trị lớn lao của nó. Ở đây các cá tính được bổ sung cho nhau, các nhu cầu tình cảm được đáp ứng. Đào lên nông trường Điện Biên- môi trượng chỉ biết thêm cái tên mới, khuôn mặt mới, công việc mới. Đó là câu trả lời của tác giả cho sự hồi sinh cho nhân vật Đào. Cái nông trường thân thương ấy yêu thương, bao boc cho tất cả mọi người, mọi số phận. Chính nông trường này đã hồi sinh mãnh liệt trong chiến tranh, liệu có phải sự hồi sinh của thiên nhiên nơi đây cũng tác động đến sự hồi sinh các số phận nơi đây? Không chỉ Đào hồi sinh mà cả Huân – con người đáng yêu, đáng quý ấy cũng hồi sinh sau chiến tranh, năng nổ hoạt động vì nông trường Điện Biên. Ngay cả người thiếu úy già cũng hồi sinh tình yêu, minh chứng là lá thư tỏ tình với Đào.
Được sống trên đời đã là hạnh phúc rồi, nhưng với con người mà “vì đời còn dài nên phải sống” như Đào hay “đến bao giờ chết thì thôi” như Mị thì khi tình yêu trong họ được hồi sinh thì đó chính là niềm hạnh phúc lớn lao, đẹp đẽ nhất. Vì họ đã tìm ra đươc cuộc sống của chính mình dựng lên. Sự hồi sinh dù mãnh liệt hay nhẹ nhàng đều mở ra một tương lai mới cho chính họ.
3. KẾT LUẬN
Chiến trang đã qua đi những tình yêu của ngày xưa ấy giờ có lẽ đã ít nhiều đi về với cát bụi. Song, không bao giờ có thể phai nhạt trong trái tim những con người anh dũng ấy và cũng đã in rất sâu rất đậm trong trái tim những con người thế hệ mới. Tình yêu trong chiến tranh như viên ngọc sáng lấp lánh, như sợi chỉ xanh ánh bm đạn cũng không thể tàn phá nổi.
Gia đình, người thân, tình yêu chính là quê hương, quê hương đã thúc dục họ lên đường say mê và cống hiến cho dân tộc dù phải hi sinh cho đến phút giây cuối cùng.
Xin Thank những tình yêu ấy, Thank những người cầm bút đã chấp cánh cho những “Tây tiến”, “Mảnh trăng cuối rừng”, “Rừng xà nu”, “Cuộc chia li màu đỏ”, “Mùa lạc” và còn nhiều nữa nhưng tác phẩm nói về tình yêu thời chiến tranh. Không ai có thể ngừng xúc động trước những mối tình bất hủ ấy, mối tình đã nâng bước, chắp cánh bay đến vùng trời hòa bình của “những tâm hồn cao đẹp”. Để giờ đây sự hồi sinh có mặt ở khắp nơi người ta lại nhớ về một thời như thế.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
1. LỜI MỞ ĐẦU 1
2. NỘI DUNG 3
2.1. Tình yêu những ngày đầu chiến tranh. 3
2.2. Tình yêu – Sợi chỉ xanh óng ánh giữa bm đạn. 9
2.3. Sự hồi sinh. 15
3. KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
1. LỜI MỞ ĐẦU
Nếu như nói đến chiến tranh là nói đến sự khốc liệt, sự mất mát, những đau khổ, những hy sinh lớn lao thì khi nói đến tình yêu ta nghĩ tới sự êm dịu, ngọt ngào hạnh , hạnh phúc.
Tưởng như chiến tranh và tình yêu luôn đối lập nhau, trái ngược nhau, không khi nào đứng cạnh nhau, cùng tồn tại. Nhưng chiến tranh bên cạnh những đổ nát, hoang tàn mất mát còn là nơi để con người dựa vào nhau, khám phá ra nhau, phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn, để dành tình cảm cho nhau. Như thế, trong chiến tranh tình yêu luôn xuất hiện như một liều thuốc làm dịu những cơn đau, hóa giải những bạo lục, làm giảm bớt sự hy sinh và mất mát mà con người phải ghánh chịu.
Chiến tranh tàn phá biết bao làng xóm, gia đình, tổ ấm hạnh phúc, nhưng chiến tranh cũng đã chứng kiến biết bao mối tình thật đẹp, thật chân thành và nên thơ. Tất cả những điều đó đã được các nhà văn, nhà thơ thâu tóm và đưa vào những trang viết của mình một cách rất sinh động và chân thực và gần gũi đối với mọi người. Chiến tranh có thể hủy diệt mọi thứ trên đường nó đi qua, song tình yêu như một sức mạnh không thể giập vùi, tình yêu ấy đã giúp bao anh lính bộ đội cụ Hồ đã chắc tay súng để bảo vệ tổ quốc và có niền tin vào một ngày mai đất nước độc lập thống nhất, tình yêu bị kìm nén ấy sẽ lại bùng cháy và thăng hoa cùng dân tộc.
Tình yêu qua những trang viết của các tác giả có thể là sự chờ đợi của những người mẹ, người vợ, người em với tình cảm ở nơi chiến tuyến, sự chờ đợi của họ có thể đo bằng chiều dài của cuộc kháng chiến, nhưng họ vẫn chờ với một niềm tin son sắt thủy chung rằng “Ngày mai anh ấy sẽ về”. Cũng có thể tình yêu ấy là một mối tình đẹp nảy nở từ chiến trường đầy máu lửa của một cô thanh niên xung phong với một anh bộ đội cụ Hồ. Tình yêu ấy có thể là một lời hứa vội vã trước khi lên đường nhưng cũng gieo vào lòng họ niềm tin vào một ngày mai xum họp.
Trải qua bao nhiêu sự gian nan vất vả gian nan cùng với sự thống nhất nước nhà thì tình yêu đã gặp lại tình yêu và có thể đâm trồi nảy lộc trên mảnh đất ngày trước là một chiến trường ác liệt… Tất cả những điều đó qua cây bút của các nhà văn nhà thơ đã hiện lên là một mảng nhỏ của bức tranh nhiều màu sắc của cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Tác giả đã phần nào khẳng định: Chính trong chiến đấu gian khổ người ta lại càng hy vọng, càng cần tìm cho mình một niềm tin và niềm tin ấy có gì bằng vẻ đẹo, lòng tốt và tình cảm con người dành cho nhau và nhất là tình
2. NỘI DUNG
2.1. Tình yêu những ngày đầu chiến tranh.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cánh lính trẻ chúng tui thường chuyền tay nhau bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng. Trong các đêm liên hoan văn nghệ, anh tốt giọng lại nhảy lên sân khấu ngâm bai thơ ấy. Những lúc rỗi rãi, chúng tui thường tranh luận với nhau "nhà thơ Quang Dũng đã có vợ hay chưa". Người bảo "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới. Ðêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" cũng có nghĩa là nhà thơ Quang Dũng mới "mơ" thôi chứ chưa cưới vợ, người lại lý sự đáng lẽ Kiều Thơm viết hoa mới đúng nhưng nha thơ Quang Dũng viết la "kiều thơm" (danh từ chung) để giữ bí mật.
Một vị tướng về thị sát chiến trường ở đồng bằng Bắc Bộ thấy cánh lính tráng ngâm bài thơ “Tây tiến”, ông sai quân đi chép về xem lại sao lính đồng bằng lại mê “Tây tiến” đến thế. Ông lấy bút máy vạch đậm dưới những chữ "đoàn quân mỏi", "anh bạn dãi dầu không bước nữa", "gục lên súng mũ bỏ quên đời", "rải rác biên cương mồ viễn xứ", và ông không quên dùng bút máy khoanh chung quanh câu "Ðêm mơ Ha Nội dáng kiều thơm", rồi phê phán la "chưa cắt được cái đuôi tiểu tư sản", người quân nhân cách mạng gì mà sợ chết, mê gái đến thế. Nhất là cô gái ấy lại là một nàng tạch tạch sè (tiểu tư sản) đầu xúp lơ, mặt trát phấn, môi quét son.
Bây giờ, bài thơ “Tây tiến” đã được đưa vào sách giáo khoa lớp 12 chương trình trung học phổ thông. Cách đây ít ngày, một nhà nghiên cứu văn học đã lên màn hình rao giảng "kiều" trong bài thơ “Tây tiến” là cô gái xinh nhất trong bốn chị em cùng mang chữ đệm là Kiều ở một quán cà-phê trên phố Hàng Bông. Quang Dũng đã "trộm nhớ thầm thương" cô Kiều ấy, nhớ đến mức hình ảnh cô kiều ấy ám ảnh nhà thơ khi viết “Tây tiến” .
Những ngày sống gần nhà thơ Quang Dũng, thằng em này không hề nghe thấy ông anh nhắc một lời về cô kiều ông anh "thầm yêu trộm nhớ" ở phố Hàng Bông. Trong ngày giỗ Quang Dũng, tui gặp cụ Nguyễn Văn Chương, người bạn rất thân của nhà thơ Quang Dũng trong thời gian hai người còn học ở Trường tư thục Thăng Long. Trước Cách mạng Tháng Tám, sau khi ở Vân Nam (Trung Quốc) về, Quang Dũng lại ở cùng Nguyễn Văn Chương. Trong lúc vui ch
Qua câu chuyện, tui mới hiểu, nhà thơ Quang Dũng không yêu cô Kiều nào trong bốn cô gái có chữ đệm la Kiều cả và số nhà 68 phố Hàng Bông, nơi trú ngụ của bốn chị em Nguyễn Kiều Vinh, Nguyễn Kiều Dinh, Nguyễn Kiều Hinh, Nguyễn Kiều Hương, không phải quán cà-phê mà là ngôi nhà hai tầng ông chủ thầu giàu có trong Vinh mua cho bốn cô con gái đi học ở Ha Nội. Quang Dũng thời ấy đang ôm mộng giang hồ, rất ngại người đẹp làm vướng chân lữ khách, nên mỗi lần Nguyễn Văn Chương đến 68 Hàng Bông thăm Kiều Dinh, Quang Dũng thường đi hộ vệ, nói chuyện xã giao với ba Kiều kia, dành "khoảng trống" cho Nguyễn Văn Chương tâm sự cùng Kiều Dinh, bố của Kiều Dinh biết chuyện bèn mời Nguyễn Văn Chương đến giao "chỉ tiêu" nếu Nguyễn Văn Chương đỗ "đíp-lôm", tương đương trung học phổ thông bây giờ, cụ sẽ gả Kiều Dinh cho và sẽ xin cho chàng rể vào làm ở Tòa đốc lý, phủ thống sứ. Rủi thay, cả Quang Dũng và Nguyễn Văn Chương đều bị trượt trong kỳ thi năm ấy. Nguyễn Văn Chương bỏ vào Nam còn Quang Dũng thẳng đường lên Yên Bái rồi theo cánh đường sắt sang Vân Nam. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, Quang Dũng theo bộ đội chủ lực lên mặt trận miền Tây còn Nguyễn Văn Chương theo một công binh xưởng về Kim Bảng (Hà Nam). Sau khi viết xong bài thơ “Tây tiến”, Quang Dũng tìm đến công binh xưởng đọc thơ cho Nguyễn Văn Chương nghe rồi tủm tỉm cười: Thank cậu đã cho mình mượn chữ kiều danh từ riêng của cậu để mình biến nó thành chữ kiều danh từ chung trong thơ. Còn chữ thơm trong câu thơ là do mình nhớ đến mùi nước hoa Rê-vơ Ðo (loại nước hoa đắt tiền các cô gái nhà khá giả thường dùng thời Pháp thuộc) của cô Kiều Dinh, chứ không phải mùi "hương đồng gió nội" của ai đâu.
Theo lệnh gia đình, Kiều Dinh đi lấy chồng, một kịch sĩ trong Ðoàn kịch Thế Lữ. Kiều Dinh thường theo chồng đi biểu diễn. Thấy Kiều Dinh có năng khiếu về kịch nói, nhà thơ Thế Lữ tuyển luôn Kiều Dinh vào đoàn kịch và giao cho thủ các vai phụ trong các vở kịch “Tục lụy”, “Kinh Kha”, “Kim tiền”, “Lôi Vũ”, “Bắc Sơn”... Một thời gian sau, Kiều Dinh chia tay với chàng kịch sĩ giang hồ rồi theo gia đình về nội thành. Năm 1950, Kiều Dinh lấy một viên chức cao cấp trong chính quyền Bảo Ðại. Năm 1953, Kiều Dinh theo chồng vào Nam và năm 1973, theo con trai sang định cư ở Mỹ. Hiện nay cả bốn Kiều vẫn còn sống: Kiều Vinh, Kiều
ác liệt nhất. Cuộc sống mới tuyệt vời làm sao, còn bao nhiêu điều tốt đẹp, chỉ cần ta mở rộng tấm lòng là có thể nắm bắt được ngay và chị đào đã làm được điều đó. Nhà văn Nguyễn Khải đã nói “con người không thể sống đơn độc, một đoạn đời Đào đã chứng minh điều ấy. Cuộc sống cộng đồng cần thiết đến mức người ta không thể ý thức được. Chỉ khi người ta bị ném ra khỏi cộng đồng, ném ra giữa cái hoang vắng, chỉ còn mình đối diện với mình. Khi ấy người ta mới hiểu được giá trị lớn lao của nó. Ở đây các cá tính được bổ sung cho nhau, các nhu cầu tình cảm được đáp ứng. Đào lên nông trường Điện Biên- môi trượng chỉ biết thêm cái tên mới, khuôn mặt mới, công việc mới. Đó là câu trả lời của tác giả cho sự hồi sinh cho nhân vật Đào. Cái nông trường thân thương ấy yêu thương, bao boc cho tất cả mọi người, mọi số phận. Chính nông trường này đã hồi sinh mãnh liệt trong chiến tranh, liệu có phải sự hồi sinh của thiên nhiên nơi đây cũng tác động đến sự hồi sinh các số phận nơi đây? Không chỉ Đào hồi sinh mà cả Huân – con người đáng yêu, đáng quý ấy cũng hồi sinh sau chiến tranh, năng nổ hoạt động vì nông trường Điện Biên. Ngay cả người thiếu úy già cũng hồi sinh tình yêu, minh chứng là lá thư tỏ tình với Đào.
Được sống trên đời đã là hạnh phúc rồi, nhưng với con người mà “vì đời còn dài nên phải sống” như Đào hay “đến bao giờ chết thì thôi” như Mị thì khi tình yêu trong họ được hồi sinh thì đó chính là niềm hạnh phúc lớn lao, đẹp đẽ nhất. Vì họ đã tìm ra đươc cuộc sống của chính mình dựng lên. Sự hồi sinh dù mãnh liệt hay nhẹ nhàng đều mở ra một tương lai mới cho chính họ.
3. KẾT LUẬN
Chiến trang đã qua đi những tình yêu của ngày xưa ấy giờ có lẽ đã ít nhiều đi về với cát bụi. Song, không bao giờ có thể phai nhạt trong trái tim những con người anh dũng ấy và cũng đã in rất sâu rất đậm trong trái tim những con người thế hệ mới. Tình yêu trong chiến tranh như viên ngọc sáng lấp lánh, như sợi chỉ xanh ánh bm đạn cũng không thể tàn phá nổi.
Gia đình, người thân, tình yêu chính là quê hương, quê hương đã thúc dục họ lên đường say mê và cống hiến cho dân tộc dù phải hi sinh cho đến phút giây cuối cùng.
Xin Thank những tình yêu ấy, Thank những người cầm bút đã chấp cánh cho những “Tây tiến”, “Mảnh trăng cuối rừng”, “Rừng xà nu”, “Cuộc chia li màu đỏ”, “Mùa lạc” và còn nhiều nữa nhưng tác phẩm nói về tình yêu thời chiến tranh. Không ai có thể ngừng xúc động trước những mối tình bất hủ ấy, mối tình đã nâng bước, chắp cánh bay đến vùng trời hòa bình của “những tâm hồn cao đẹp”. Để giờ đây sự hồi sinh có mặt ở khắp nơi người ta lại nhớ về một thời như thế.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: